Trong phần mở đầu của các bài giảng của các chuyên gia nước ngoài mà tôi được tham dự, thường có vài slide giới thiệu về quá trình đào tạo, nơi làm việc, thậm chí một vài thông tin riêng tư như về gia đình, ảnh chụp nơi ở… Tôi thường nghĩ, ồ, chỉ là một cách làm quen mềm mại. Tuy nhiên, sau một thời gian đi sâu về chủ đề “ngữ dụng”, tôi chợt nhận ra ý nghĩa của các phần giới thiệu này, khi mà thông tin nó mang lại, không phải chỉ để làm quen, mà là cho người nghe/ người học hình dung được những hàm ý trong quan điểm của người trình bày.
Trong tranh luận, chúng ta hay lên án việc ‘bỏ bóng đá người’, nghĩa là không tranh luận về quan điểm khoa học mà đi chỉ trích cá nhân. Nhưng ranh giới giữa điều xấu, như trên vừa nói, với điểm tốt, là quan điểm đó mang những hàm ý gì, có cở sở gì từ những đặc điểm cá nhân của người phát biểu, là mong manh, nhưng không phải là không thể làm rõ được. Kết quả của những yếu tố cá nhân như vậy, chẳng phải đã mang lại những ý tưởng sáng tạo, mà tâm lý học hiện tại đã khẳng định, chúng vẫn xuất phát từ những gì đã trải nghiệm của con người.
Và tôi thấy, mình vẫn nên cố gắng mô tả chính xác nhất có thể về bản thân, không phải để nuôi hi vọng mình sẽ phát minh ra cái gì đó, mà như mục tiêu của blog này, cung cấp các tham khảo cho người đọc, trong đó ắt phải bao gồm bối cảnh của bản thân người phát biểu.
1989- 1995: Học y khoa tại Đại học Y Hà Nội. Đây là khóa học 6 năm, với 2 năm cuối được đào tạo chuyên ngành Y học cổ truyền ( YHCT ) và được cấp bằng bác sĩ chuyên ngành YHCT
1995-1996: NGO Trung tâm chăm sóc sức khỏe Người cao tuổi thuộc Hội chữ thập đỏ Việt Nam
1998- 2005: bác sĩ điều trị tại khoa Y học dân tộc, bệnh viện Thanh Nhàn
2002-2004: master chuyên ngành YHCT
2005 đến nay: làm việc tại Học viện Y dược học Cổ truyền Việt Nam, tiền thân là trường Trung cấp YHCT Tuệ Tĩnh. Đã tham gia giảng dạy phân môn Tổ chức Y tế cho hệ trung cấp, phân môn Y lý cho hệ bác sĩ chuyên khoa YHCT
2009- 2013: thực hành lâm sàng tại Viện sức khỏe Tâm thần Quốc gia, bệnh viện Bạch Mai, học khóa học định hướng và khóa học BSCK 1 chuyên ngành Tâm thần
2011: bắt đầu giảng dạy phân môn Tâm thần tại Học viện Y dược học Cổ truyền Việt Nam
2018: tham gia khóa học Ngôn ngữ trị liệu Nhi 10 tháng của Đại học Y Phạm Ngọc Thạch
2 lần tham gia khóa học Chuyên khoa 2, chuyên ngành Tâm thần, 1 lần là vào năm 2017 của Đại học Y Hà Nội, 1 lần là vào năm 2020 của Đại học Y Hải Phòng. Nhưng cả 2 lần tôi đều không hoàn thành khóa học, dù đã thi xong đầu vào. Lý do chủ yếu là sức khỏe bản thân và chuyện gia đình, nhưng một phần nữa là tôi không tìm thấy câu trả lời cho những vấn đề cơ bản mà tôi theo đuổi.
Năm 2004, khi tham gia khóa học master chuyên ngành YHCT, tôi đã nghe thày hướng dẫn của mình nói về khuynh hướng can thiệp đa ngành trong xu hướng nghiên cứu của Trung Quốc. Nhưng tôi đã không thể hình dung về điều này cho tới khi tham gia khóa học Ngôn ngữ trị liệu Nhi của Đại học Y Phạm Ngọc Thạch năm 2018. Việc tiếp cận các thông tin về khái niệm can thiệp đa ngành là khó khăn, khi mà đào tạo y khoa, lĩnh vực mà tôi theo đuổi hơn 15 năm nay, luôn vẽ ra một cấu trúc trong đó các chuyên ngành được tạo thành các khối tách biệt, ngay kể cả khi các khối này đã bao hàm những chuyên đề của khối khác (vì vấn đề này còn bị ảnh hưởng bởi cơ cấu quản lý ngành nghề về mặt hành chính của Bộ Y tế- và chữ “tách biệt” dùng ở trên hàm ý về việc ‘ngăn chặn’ việc mở rộng phạm vi hoạt động chuyên môn trong thực hành nghề). Kể từ 2018 tới nay, câu hỏi về “tính chất can thiệp đa ngành” trở thành chủ đề chính trong định hướng nghiên cứu, giảng dạy và thực hành lâm sàng của tôi.