Trí nhớ làm việc

Mô hình trí nhớ làm việc của Baddeley là mô hình trí nhớ con người do Alan Baddeley và Graham Hitch đề xuất vào năm 1974, trong nỗ lực trình bày một mô hình chính xác hơn của trí nhớ chính (thường được gọi là trí nhớ ngắn hạn). Trí nhớ làm việc phân chia trí nhớ chính thành nhiều thành phần, thay vì coi nó là một cấu trúc đơn nhất, thống nhất.

Hình vẽ từ thời những năm 80, khá giản dị

Baddeley & Hitch đã đề xuất mô hình trí nhớ làm việc ba phần của họ như là một giải pháp thay thế cho kho chứa ngắn hạn trong mô hình trí nhớ ‘đa ngăn’ của Atkinson & Shiffrin (năm 1968). Mô hình này sau đó được Baddeley và các đồng nghiệp khác mở rộng để thêm thành phần thứ tư, và đã trở thành quan điểm chủ đạo trong lĩnh vực trí nhớ làm việc.

Mô hình ban đầu của Baddeley & Hitch bao gồm ba thành phần chính: hệ điều hành trung tâm hoạt động như một hệ thống giám sát và kiểm soát luồng thông tin đi từ và đến các hệ thống phụ thuộc của nó: vòng âm vị học và bảng vẽ phác thảo không gian. Vòng lặp âm vị lưu trữ nội dung bằng lời nói, trong khi bảng phác thảo không gian hiển thị dữ liệu không gian. Cả hai hệ thống phụ thuộc chỉ hoạt động như các trung tâm lưu trữ ngắn hạn. Hiện thì cả 2 tên gọi này cũng đã bị thay đổi.

Lập luận của Baddeley & Hitch về sự khác biệt của hai hệ thống phụ thuộc có đặc thù ‘miền’ trong mô hình cũ hơn được lấy từ các kết quả thử nghiệm với mô hình tác vụ kép. Hiệu suất của hai tác vụ đồng thời yêu cầu sử dụng hai miền nhận thức riêng biệt (nghĩa là một tác vụ thị giác trực quan và một tác vụ bằng lời nói) gần hiệu quả như hiệu suất của từng tác vụ. Ngược lại, khi một người cố gắng thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ sử dụng cùng một miền nhận thức, hiệu suất sẽ kém hiệu quả hơn so với khi thực hiện các nhiệm vụ riêng lẻ.

Năm 2000 (25 năm sau), Baddeley đã thêm một hệ thống phụ thuộc thứ ba vào mô hình của mình, bộ đệm trí nhớ sự kiện, và là thành phần thứ tư trong mô hình của Baddeley, để bổ sung cho hệ thống điều hành trung tâm. Hệ thống phụ thuộc thứ ba được chỉ định là bộ đệm sự kiện. Nó được coi là một hệ thống có dung lượng hạn chế, cung cấp lưu trữ thông tin tạm thời bằng cách kết hợp thông tin từ các hệ thống ngăn con trong trí nhớ dài hạn, thành một hệ duy nhất.

Tên của 2 hệ thống phụ thuộc trước kia bị thay đổi, và thêm hệ thống phụ thuộc mới

Điều hành trung tâm là một hệ thống linh hoạt chịu trách nhiệm kiểm soát và điều chỉnh các quá trình nhận thức. Nó chỉ đạo tập trung và nhắm mục tiêu thông tin, làm cho trí nhớ làm việc và trí nhớ dài hạn làm việc cùng nhau.

Có thể thấy hệ điều hành trung tâm thực hiện các công việc sau:

-cập nhật thay thế thông tin cũ

-ràng buộc thông tin từ một số nguồn thành các tập kết hợp

-thay đổi giữa các nhiệm vụ hoặc chiến lược truy xuất

-ức chế, ngăn chặn các phản ứng chi phối hoặc tự động

-chú ý chọn lọc

Như vậy sự khác biệt cơ bản giữa trí nhớ làm việc và trí nhớ ngắn hạn là trí nhớ làm việc đề cập đến việc lưu trữ và thao tác thông tin theo từng khoảnh khắc trong khi trí nhớ ngắn hạn chỉ đề cập đến việc lưu trữ thông tin có tính tạm thời (Baddeley, 2012). Bộ nhớ dài hạn đề cập đến một hệ thống lưu trữ lâu dài hơn giúp lưu giữ thông tin trong khoảng thời gian từ vài phút đến hàng năm.

Theo Farzad Akbaryan, ở University of Alberta, từ quan điểm của một nhà phục hồi chức năng, sau khi tham khảo PubMed, Web of Science và Medline, với các công bố từ 1990 đến 2014, đã nhận thấy  thuật ngữ ‘chức năng điều hành‘ (viết tắt tiếng Anh là EF) xuất phát từ lĩnh vực kinh doanh, trong đó một người với tư cách là người quản lý hoặc điều hành, giám đốc (thuật ngữ ban đầu của Baddeley đúng là có chữ giám đốc), đưa ra quyết định và ưu tiên tất cả các hoạt động kinh doanh.

EF phụ thuộc chủ yếu vào thùy trán còn nguyên vẹn, của vỏ não. Thùy trán kiểm soát các chức năng khác nhau của cơ thể và phát triển qua tuổi dậy thì và tuổi trưởng thành. Một số chức năng của nó bao gồm cảm xúc, sự chú ý, trí nhớ làm việc, lý luận trừu tượng, lập kế hoạch, tự điều chỉnh cảm xúc và bắt đầu các hành vi hướng đến mục tiêu. EF bao gồm các khả năng nhận thức khác nhau như, chú ý, trí nhớ, tự điều chỉnh cảm xúc, ức chế hành vi và các hoạt động bậc cao khác.

Ngoài ra, sử dụng mô hình tác vụ kép, Baddeley và Erkes đã phát hiện ra rằng bệnh nhân mắc chứng Alzheimer bị suy giảm khi thực hiện đồng thời nhiều nhiệm vụ, ngay cả khi độ khó của các nhiệm vụ riêng lẻ phù hợp với khả năng của họ. Hai nhiệm vụ bao gồm một nhiệm vụ về trí nhớ và một nhiệm vụ theo dõi (tri giác thế giới xung quanh). Các hành động cá nhân được hoàn thành tốt, nhưng khi bệnh Alzheimer trở nên nổi bật hơn ở một bệnh nhân, việc thực hiện hai hoặc nhiều hành động trở nên ngày càng khó khăn hơn. Nghiên cứu này đã cho thấy sự xuống cấp của hệ điều hành trung tâm ở những người mắc bệnh Alzheimer.

Đăng bởi anhdo73

Hoạt động can thiệp đa ngành: Tâm lý lâm sàng, Tâm thần, Phục hồi chức năng, Y học cổ truyền

Bình luận về bài viết này