Rối loạn học tập- sơ lược về chứng khó đọc

Trong nửa đầu thế kỷ 20, câu chuyện về chứng khó đọc đã dần suy vi và sụp đổ; trong nửa sau, nó đã lên đến đỉnh điểm với sự trỗi dậy rõ rệt. Từ một thuật ngữ khá khó hiểu, chứng khó đọc đã trở thành một chủ đề hấp dẫn; và đúng như vậy, với tỷ lệ khoảng 5%, tình trạng này rất phổ biến. — Frith, 1999.

Steven, một học sinh lớp hai, chỉ biết bốn chữ cái trong bảng chữ cái. Các giáo viên của bé đã cố gắng giúp bé ghi nhớ các chữ cái và âm thanh của chúng, nhưng bé dường như luôn quên những gì mình đã học vào ngày hôm sau. Gần đây, bé bắt đầu nói rằng bé bị câm và đó là lý do bé không thể học đọc và đánh vần.

Maria đang học cấp hai. Trẻ thường bị nhầm lẫn bởi các chữ cái có âm thanh giống nhau. Những lẫn lộn âm thanh tinh tế này thể hiện rõ khi trẻ phát biểu ý kiến. Mặc dù có vốn từ vựng tốt, trẻ có thể nói “cuốn sách đó thực sự ghi nhớ tôi” khi trẻ thực sự muốn nói “tôi bị cuốn hút”. Đôi khi, trẻ tránh nói những từ nhất định vì trẻ không chắc chắn về cách phát âm của chúng.

Jeff là một học sinh trung học phổ thông. Gần đây anh ấy đã thi SAT và chỉ hoàn thành một nửa mỗi phần. Anh ấy nói rằng anh ấy biết cách làm phần còn lại của các câu hỏi, nhưng anh ấy không có đủ thời gian để thử chúng. Anh tự hỏi tại sao các bạn cùng lứa với mình dường như luôn có nhiều thời gian dư thừa khi đọc trong khi anh mất nhiều thời gian như vậy.

Ông Brogan vừa tham dự cuộc họp Chương trình Giáo dục Cá nhân hóa (IEP) của cậu con trai lớp thứ 2 tại trường tiểu học địa phương. Con trai ông, Matthew, đang gặp rất nhiều khó khăn khi học đọc và đánh vần. Mặc dù có một danh sách chính tả thích hợp, Matthew vẫn quên cách đánh vần các từ trong bài kiểm tra chính tả hàng tuần. Khi ông Brogan nghe giáo viên lớp năm của Matthew, giáo viên giáo dục đặc biệt và nhà tâm lý học của trường mô tả những khó khăn nghiêm trọng về đọc và đánh vần của con trai mình, ông ngay lập tức nghĩ: “Con cũng giống mình.”

Bốn người đấu tranh với một số khía cạnh của khả năng đọc viết này có điểm gì chung? Tất cả họ đều mắc chứng khó đọc. Mặc dù đây có vẻ là một nhãn hiệu chính xác để giải thích khó khăn trong việc học đọc và đánh vần, nhưng vẫn tồn tại sự nhầm lẫn về ý nghĩa thực sự của chứng khó đọc.

Chứng khó đọc là gì? Câu hỏi đơn giản này được đặt ra hàng ngày bởi cả phụ huynh và giáo viên khi họ phải vật lộn để hiểu tại sao một đứa trẻ không học đọc một cách dễ dàng. Đó là một câu hỏi được đặt ra bởi Matthew, người tự hỏi tại sao việc đọc và đánh vần lại khó đến vậy. Đó cũng là một câu hỏi được đặt ra bởi những học sinh lớn tuổi như Jeff khi họ cố gắng xác định tại sao đã rất nỗ lực để đọc nhưng vẫn chậm hơn nhiều so với các bạn cùng lứa tuổi. Mặc dù ông Brogan nhận thức rõ rằng ông luôn phải vật lộn với việc đọc, nhưng khi ông nghe mô tả về những khó khăn của Matthew và nhóm giáo viên nhà trường nghĩ rằng Matthew mắc chứng khó đọc, ông mới nhận ra rằng mình cũng mắc chứng khó đọc mà chưa từng được chẩn đoán. Giờ đây, ông mới hiểu lý do tại sao ông không bao giờ đọc sách để giải trí và tại sao chồng sách mà những người khác đề nghị ông đọc vẫn nằm yên bên giường của mình.

Chứng khó đọc là một rối loạn sinh học thần kinh ảnh hưởng đến sự phát triển của cả giải mã (phát âm từ chữ viết) và mã hóa (viết chính tả).

Ngoài ra, các thuật ngữ chứng khó đọc, chứng khó đọc phát triển biệt định, khuyết tật đọc biệt địnhkhuyết tật đọc thường được sử dụng thay thế cho nhau để mô tả chứng rối loạn phát triển thần kinh này (DeFries, Singer, Foch, & Lewitter, 1978; Vellutino & Fletcher, 2007).

Chứng khó đọc không phải là:

Suy giảm ngôn ngữ nói lan tỏa.

Một vấn đề chính trong sự chú ý hoặc hành vi.

Một vấn đề chính trong đọc hiểu hoặc diễn đạt bằng văn bản.

Động lực thấp hoặc nỗ lực hạn chế.

Thị lực hoặc thính giác kém.

Các vấn đề về cảm xúc hoặc hành vi chính

Tự kỷ.

Tâm thần phân liệt thời thơ ấu.

Trí tuệ hạn chế.

Liên quan đến nền tảng dân tộc hoặc thu nhập gia đình.

Kết quả của việc giảng dạy kém hoặc cơ hội giáo dục hạn chế.

Chứng khó đọc là: Các triệu chứng và đặc điểm

Khó học vần trong các từ.

Khó học tên chữ cái và âm chữ cái của bảng chữ cái.

Nhầm lẫn giữa các chữ cái và từ có hình thức tương tự (ví dụ: b và d).

Nhầm lẫn giữa các chữ cái có âm thanh giống nhau (ví dụ: / f / và /v/).

Đảo ngược và chuyển vị của các chữ cái và từ vẫn tồn tại sau 7 tuổi (ví dụ: p và q).

Gặp khó khăn khi sắp xếp các chữ cái theo đúng thứ tự khi viết chính tả.

Đánh vần cùng một từ theo các cách khác nhau trên cùng một trang (ví dụ: chon, côn, … cho con).

Nhận thức từ chậm ảnh hưởng đến tốc độ đọc và độ trôi chảy.

Viết theo Nancy Mather and Barbara J. Wendling, 2012. Bài viết đã lược bỏ những phần chỉ có trong đặc điểm tiếng Anh mà không có trong tiếng Việt. Ngoài ra, trong tiếng Việt, có thêm các rối loạn liên quan đến thanh điệu.

Đăng bởi anhdo73

Hoạt động can thiệp đa ngành: Tâm lý lâm sàng, Tâm thần, Phục hồi chức năng, Y học cổ truyền

Bình luận về bài viết này