Từ năm học 2018, phân môn Tâm thần bắt đầu triển khai giảng dạy cho sinh viên năm 3. Sau thất bại thuyết phục bên bộ môn Y tế công cộng để kết hợp dạy về Tâm lý học, như là một môn y học cơ sở (vì chức năng tâm lý có tương quan như thể sinh lý vậy), tôi thấy may mắn vì học viện triển khai dạy chương trình module. Tôi biết mình có thể lợi dụng chương trình này về thời gian, và hi vọng tạo được một liên hệ đa ngành cho học thuật. Điều thứ 1 thì đạt được, điều thứ 2 chỉ đạt được với bộ môn Sinh lý.
Tài liệu lúc đầu được mang giảng dạy là giáo trình Tâm lý Y học của thày Nguyễn Sinh Phúc chủ biên, là giáo trình được thực hiện ở Bộ môn Y tế công cộng của Đại học Y Hà Nội. Thày cũng đã từng chia sẻ với tôi về giáo trình này (‘chỉ viết được thế, vì viết khác đi thì các giảng viên bên Đại học Y Hà Nội không dạy được’). Đến 2020 thì tôi soạn lại và giảng dạy nội dung dựa theo tác giả Roberts Feldman. Khi chuyển sang tác giả này, tôi có cập nhật phần tâm lý thần kinh theo các tác giả có chất ‘y khoa’ hơn, nhằm đáp ứng yêu cầu đào tạo bác sĩ y khoa. Tuy nhiên, khi đi sâu về chức năng điều hành tôi lại thấy các tài liệu trích dẫn một tác giả Liên xô cũ đã được trích trong phần cơ sở sinh lý của giáo trình Tâm lý y học. Vì vậy, xin trích lại quan điểm của A.R. Luria (1902- 1977) – được nêu trong giáo trình:
Dựa theo vai trò của tổ chức não đối với các hoạt động tâm lý, Luria – một nhà tâm lý học thần kinh Xô viết nổi tiếng đã chia não thành 3 khối chức năng chính:
– Khối thứ nhất: khối năng lượng
Thành phần của khối này bao gồm phần cao của thân não, thể lưới, nền giữa củ não sinh tư, vùng limbic và hồi hải mã.
Vai trò của khối này là bảo đảm trương lực thường xuyên và trạng thái hưng phấn của vỏ não. Chỉ trong điều kiện tối ưu của trạng thái hưng phấn, vỏ não mới có thể tiếp nhận thông tin từ bên ngoài vào, huy động trong “kho” trí nhớ những mối liên hệ, biểu tượng cần thiết, lập chương trình hành động, kiểm tra diễn biến của các hành động đó và tự điều chỉnh, nhằm đạt được mục đích đề ra.
Khối năng lượng có vai trò rất quan trọng trong đảm bảo, duy trì năng lượng hoạt động của vỏ não, song bản thân nó lại chịu sự điều khiển của vỏ não, trước hết là của thùy trán.
– Khối thứ hai: khối tiếp nhận, tu chỉnh và giữ gìn thông tin.
Khối này nằm ở phía sau hai bán cầu đại não, bao gồm thùy chẩm, thùy đỉnh và thùy thái dương. Các thùy não là bộ máy phân tích, tổng hợp thị giác, thính giác và cảm giác da – một phần của chức năng vận động.
– Khối thứ ba: khối lập chương trình, điều chỉnh và kiểm tra
Khối thứ ba này nằm phía trước của vỏ não, tập trung ở thùy trán, chiếm diện tích gần 1/3 bán cầu đại não và là thành quả sau cùng của quá trình tiến hóa loài người. Đây là phần “non trẻ” nhất của não. Chức năng chính của khối này là lên chương trình, điều khiển và kiểm tra các hoạt động tâm lý.
Như vậy, khối chức năng thứ 3 của Luria thực sự là một tiền đề cho chức năng điều hành mà chúng ta đang phát triển nghiên cứu hiện nay.
Để hiểu hơn về Luria, mình có lược dịch một tiểu sử ( viết ởi Michael Cole) như sau:
Alexander Luria sinh ra ở Kazan, một thị trấn cũ của Đại học Nga ở phía đông Moscow. Ông vào Đại học Kazan năm 16 tuổi và lấy bằng năm 1921 ở tuổi 19. Khi còn là sinh viên, ông đã thành lập Hiệp hội Phân tâm học Kazan, và lên kế hoạch theo đuổi sự nghiệp tâm lý học. Nghiên cứu đầu tiên của ông đã tìm cách thiết lập các phương pháp khách quan để đánh giá các ý tưởng của Freud về những bất thường của suy nghĩ và ảnh hưởng của sự mệt mỏi đối với các quá trình tâm thần.
Năm 1923, việc sử dụng các thước đo thời gian phản ứng để nghiên cứu các quá trình suy nghĩ trong bối cảnh công việc đã giúp ông có được một vị trí tại Viện Tâm lý học ở Moscow, nơi ông đã phát triển một quy trình chẩn đoán tâm lý mà ông gọi là “phương pháp vận động kết hợp” để xem xét các quá trình suy nghĩ cá nhân. Phương pháp này đã được áp dụng cho nhiều trường hợp xảy ra tự nhiên và do thực nghiệm gây ra, cung cấp một hệ thống mô hình cho chẩn đoán tâm thần, đã giành được sự chú ý rộng rãi ở phương Tây khi nó được xuất bản, trong khi lý thuyết phân tâm học vốn bị chính quyền Xô Viết không tán thành.
Năm 1924, Luria gặp Lev Semionovich Vygotsky, người có ảnh hưởng quyết định đến việc định hình sự nghiệp tương lai của ông. Cùng với Vygotsky và Alexei Nikolaivitch Leontiev, Luria đã tìm cách thiết lập một phương pháp tiếp cận tâm lý học có thể cho phép họ “khám phá cách các quá trình tự nhiên như trưởng thành về thể chất và các cơ chế cảm giác gắn bó với nhau với các quá trình được xác định về mặt văn hóa để tạo ra các chức năng tâm lý của người lớn” (Luria , 1979, trang 43). Vygotsky và các đồng nghiệp của ông gọi cách tiếp cận mới này là tâm lý học “văn hóa”, “lịch sử” và “công cụ”. Ba nhãn này đều chỉ ra vị trí trung tâm của trung gian văn hóa trong việc cấu thành các quá trình tâm lý cụ thể của con người, và vai trò của môi trường xã hội trong việc cấu trúc các quá trình mà trẻ em thích hợp với các công cụ văn hóa của xã hội chúng trong quá trình bản thể học. Người ta đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của ngôn ngữ, “công cụ của công cụ” trong quá trình này: việc tiếp thu ngôn ngữ được coi là thời điểm then chốt khi sự phát sinh loài và lịch sử văn hóa được hợp nhất để hình thành nên những hình thức tư duy, cảm giác, và hoạt động.
Từ cuối những năm 1920 cho đến khi ông qua đời, Luria đã tìm cách giải thích về tâm lý tổng hợp văn hóa-lịch sử này trong các lĩnh vực khác nhau của tâm lý học. Vào đầu những năm 1930, ông đã dẫn đầu hai cuộc thám hiểm đến Trung Á, nơi ông điều tra những thay đổi trong nhận thức, cách giải quyết vấn đề và trí nhớ liên quan đến những thay đổi lịch sử trong hoạt động kinh tế và trường học. Trong cùng thời gian này, ông đã thực hiện các nghiên cứu về các cặp song sinh giống hệt nhau và là anh em được nuôi dưỡng trong một ngôi trường lớn để khám phá mối quan hệ năng động giữa các yếu tố phát sinh loài và văn hóa-lịch sử trong sự phát triển của ngôn ngữ và tư duy.
Vào cuối những năm 1930, phần lớn để loại bỏ bản thân khỏi tầm nhìn của công chúng do thời kỳ thanh trừng do Stalin khởi xướng, Luria vào trường y, nơi ông chuyên nghiên cứu về chứng mất ngôn ngữ, vẫn tập trung vào mối quan hệ giữa ngôn ngữ và suy nghĩ trong một lĩnh vực chính trị trung lập. . Chiến tranh thế giới 2 bắt đầu khiến kiến thức chuyên môn của ông có tầm quan trọng cực kỳ quan trọng đối với nỗ lực chiến tranh của Liên Xô, và sự phổ biến rộng rãi đáng kinh ngạc của những người bị chấn thương sọ não đã cung cấp cho ông những tài liệu phong phú để phát triển các lý thuyết của mình về chức năng não và các phương pháp khắc phục tổn thương não khu trú. Chính trong thời kỳ này, ông đã phát triển phương pháp tiếp cận có hệ thống đối với não bộ và nhận thức mà người ta gọi là kỷ luật tâm lý học thần kinh. Trung tâm trong cách tiếp cận của ông là niềm tin rằng “để hiểu được nền tảng của não bộ cho hoạt động tâm lý, người ta phải chuẩn bị để nghiên cứu cả bộ não và hệ thống hoạt động” (1979, trang 173). Sự khăng khăng này liên kết cấu trúc và chức năng của não với môi trường gần, được tổ chức về mặt văn hóa, cung cấp sợi dây liên tục giữa các phần đầu và sau trong sự nghiệp của Luria.
Sau chiến tranh, Luria tìm cách tiếp tục công việc của mình trong lĩnh vực tâm lý thần kinh. Kế hoạch của anh ta bị gián đoạn trong vài năm khi anh ta bị loại khỏi Viện của phẫu thuật thần kinh trong một thời kỳ đàn áp chống ký hiệu đặc biệt độc hại. Trong thời gian này, ông theo đuổi sở thích khoa học của mình thông qua một loạt các nghiên cứu về sự phát triển của ngôn ngữ và tư duy ở trẻ em chậm phát triển trí tuệ. Vào cuối những năm 1950, Luria được phép quay trở lại nghiên cứu tâm lý học thần kinh, ngành mà ông theo đuổi cho đến khi qua đời vì bệnh suy tim năm 1977. Trong những năm ngay trước khi qua đời, ông đã trở lại với ước mơ đầu tiên là xây dựng một tâm lý học thống nhất. Ông đã xuất bản hai nghiên cứu điển hình, một nghiên cứu về một người đàn ông có trí nhớ phi thường và ngu ngốc (Luria, 1968), nghiên cứu còn lại về một người đàn ông bị chấn thương sọ não (Luria, 1972). Hai nghiên cứu điển hình này minh họa sự pha trộn giữa phương pháp tiếp cận cổ điển, thực nghiệm với phương pháp tiếp cận lâm sàng và phương pháp điều trị, một sự tổng hợp được coi là mô hình cho khoa học nhận thức cuối thế kỷ 20.