Giao tiếp của Dược sĩ lâm sàng trong “Chăm sóc Dược”
Mục tiêu: xây dựng kĩ năng giao tiếp cơ bản khi chuyên viên Dược lâm sàng giao tiếp với bệnh nhân/ người nhà bệnh nhân trong môi trường bệnh viện
Nội dung: cung cấp các kiến thức về tâm lý trong hoạt động giao tiếp, giúp nhà lâm sàng tự xây dựng và biết cách củng cố kĩ năng giao tiếp của bản thân.
Tiết 1:
- Giao tiếp là gì?
- Các chức năng tâm lý liên quan đến quá trình giao tiếp: ngôn ngữ, cảm xúc, học tập
- Đặc điểm tâm lý xã hội ảnh hưởng đến giao tiếp
Tiết 2:
- Giao tiếp lấy bệnh nhân làm trung tâm
- Làm việc nhóm- can thiệp đa ngành
Tiết 3: Xây dựng kĩ năng giao tiếp (chuẩn bị, bắt đầu hội thoại, triển khai giao tiếp, kết thúc hội thoại)- dựa theo bảng kiểm thực hành phỏng vấn lấy thông tin từ người bệnh.
Tiết 4, 5: làm việc nhóm và thực hành đóng vai
BÀI 1
- Giao tiếp
Định nghĩa
Quan niệm của hệ thống thông tin cho rằng giao tiếp cơ bản là quá trình truyền đạt thông tin, quá trình này truyền thông tin từ người nói đến người nghe và sự phản hồi cho thấy ý tưởng ở người nghe gần như trùng khớp với ý tưởng ở người nói. Quá trình trao đổi thông tin được thực hiện qua một sơ đồ truyền tin gồm:
● Một ý tưởng.
● Mã hóa ngôn ngữ.
● Truyền tin.
● Giải mã ngôn ngữ.
● Tạo ra một ý tưởng

Các quá trình diễn ra trong giao tiếp
Các yếu tố ảnh hưởng đến sự mã hóa và giải mã
Trình độ học vấn và năng lực nhận thức, nghĩa là trí thông minh và cơ hội học tập
Văn hóa bao gồm yếu tố giới tính theo văn hóa, cộng đồng địa lý (vùng miền), cộng đồng nghề nghiệp, cộng đồng sắc tộc, …
Yếu tố sinh lý: tình trạng sức khỏe cơ thể và tâm thần của người nói cũng như người nghe đều có thể ảnh hưởng đến việc tri nhận, mã hóa và giải mã trong giao tiếp.
Các yếu tố trong phát triển giao tiếp thành một hội thoại:
– Chú ý: đây là quá trình tâm lý quan trọng trong sự phát triển giao tiếp. Sự chú ý có thể mang tính chủ động hoặc bị động, tùy thuộc tính chất từng tương tác. Trong các tương tác có tính tổ chức cao như trong các giao tiếp chính thức thì sự chú ý được xây dựng mang tính chủ động cao hơn các tương tác ngẫu hứng.
– Tính luân phiên: tương tác chỉ xảy ra khi đảm bảo tính luân phiên giữa các thành viên trong giao tiếp.
– Tính bắt chước: trong giao tiếp, luôn có sự bắt chước, hay tính chấp nhận nhau thì tương tác mới tiếp diễn được.
– Tính quy luật: mỗi tương tác sẽ có tính quy luật nhất định, nhằm tạo ra nhiều hình thức tương tác trong xã hội. Mỗi hình thức tương tác mang lại những hiệu quả giao tiếp khác nhau. Khi tham gia giao tiếp, các thành viên sẽ cùng nhau xây dựng quy luật, dựa trên các quy ước xã hội có sẵn.
– Trong giao tiếp, phải có các hành vi tương tác như lời nói, cử chỉ để khởi động và duy trì hội thoại. Điều này cung cấp (1) sự chú ý, để người nói gây sự chú ý đến người nghe, (2)sự phản hồi ở mức độ thô sơ, để người nói thấy người nghe nhận ý tưởng của mình thế nào. Nếu không, giao tiếp không thể hình thành, cho dù người ta có ở bên nhau.
Kiểu giao tiếp
Giao tiếp là một quá trình phức tạp, gồm giao tiếp có chủ ý và giao tiếp không chủ ý (Maffescioni Simone, 2016)
Giao tiếp có chủ ý, liên quan đến việc ý thức của một cá nhân là họ đang có khả năng gây ảnh hưởng lên người khác trong môi trường giao tiếp.
Giao tiếp không có chủ ý: một cá nhân làm điều gì đó để giúp người khác hiểu được họ đang cảm thấy như thế nào hoặc họ cần gì, mà không có ý thức. Ví dụ, em bé khóc, cười…
Giao tiếp không có chủ ý này xuất hiện sớm trong quá trình phát triển tâm thần còn giao tiếp có chủ ý xuất hiện muộn hơn, song song với sự phát triển nhận thức. Trong giao tiếp của nhà chuyên môn, cả hai kiểu này cùng tồn tại, phụ thuộc vào khả năng kiểm soát của nhà chuyên môn
Giao tiếp giữa nhà lâm sàng và bệnh nhân là giao tiếp chính thức:
Giao tiếp chính thức là loại giao tiếp giữa các thành viên trong nhóm chính thức. Sự giao tiếp này được thực hiện theo chức trách, nhiệm vụ, quy chế, quy định của luật pháp, của phong tục…ví dụ: giao tiếp trong hoạt động nghề nghiệp như giáo dục, y tế…
Môi trường giao tiếp này chịu ảnh hưởng của các quy định về việc sắp xếp cấu trúc nên thường có một hỉnh ảnh chung.
Phương tiện giao tiếp ngôn ngữ
Về cơ bản, chúng ta giao tiếp bằng ngôn ngữ. Bản chất các ý tưởng chúng ta có được biểu diễn bằng ngôn ngữ, trừu tượng hóa các sự vật hiện tượng khách quan. Phần giao tiếp này nằm chủ yếu trong vùng ý thức của chúng ta và chúng ta chủ động kiểm soát.
Các nguyên tắc sử dụng ngôn ngữ:
Một ý tưởng được diễn đạt tốt trong giao tiếp thông thường, đảm bảo các nguyên tắc:
- Rõ ràng: thông điệp phải rõ ràng về cả cú pháp, ngữ nghĩa và ngữ dụng, để người nhận chỉ hiểu theo một nghĩa duy nhất.
- Đầy đủ: thông điệp phải chứa đầy đủ thông tin cần thiết.
Ngôn ngữ nói: lời nói
Là loại ngôn ngữ hướng vào người khác được biểu đạt bằng âm thanh và được thu nhận bằng cơ quan phân tích thính giác.
Trong giao tiếp bằng lời nói có thể sử dụng ngữ điệu, trọng âm để bổ sung cho nội dung lời nói.
Ngôn ngữ viết/ văn bản
Là loại ngôn ngữ hướng vào người khác, được biểu đạt bằng chữ viết và được thu nhận bằng thị giác. Ngôn ngữ viết có thể cho phép con người tiếp xúc với nhau một cách gián tiếp trong những khoảng không gian và thời gian lớn. Ngôn ngữ viết có những yêu cầu nhất định đối với cả người đọc và người viết. Trong ngôn ngữ viết, người viết không thể sử dụng những phương tiện phi ngôn ngữ hỗ trợ. Do vậy ngôn ngữ viết phải có những yêu cầu chặt chẽ hơn cả: phải tuân theo đầy đủ các quy tắc cú pháp, chính tả và logic.
Phương tiện giao tiếp phi ngôn ngữ (kí hiệu, tín hiệu)
Trong quá trình giao tiếp, con người không những sử dụng ngôn ngữ để truyền đạt thông tin mà con người còn sử dụng những cử chỉ, điệu bộ, nét mặt, ánh mắt,… để thể hiện sự cảm xúc và các nội dung khác của thông tin như là nhấn mạnh, đồng tình hay phản đối… nhưng ít nằm trong vùng ý thức của chúng ta.
Hệ thống tín hiệu này không có nội hàm ý nghĩa chính xác, rành mạch. Việc phát hiện, nghiên cứu và phân tích giá trị giao tiếp của chúng giúp ta hiểu biết sâu sắc hơn thế giới tinh thần và ngôn ngữ biểu cảm đặc trưng của con người.
Thông qua phương tiện giao tiếp ngôn ngữ không lời ta có thể thu được những thông tin sau:
● Thông tin về trạng thái cảm xúc tức thời (giận dữ, đau khổ, cay cú,…).
● Thông tin về thái độ liên nhân cách (yêu, hợp tác, chơi trội…).
● Thông tin về vị thế xã hội của đối tượng (tuổi, giới, vị trí xã hội…).
Giao tiếp bằng nét mặt
Vận động của các tổ hợp cơ khác nhau trên khuôn mặt tạo ra những nét mặt khác nhau. Qua những nghiên cứu người ta cho rằng con người có khả năng biểu lộ 6 trạng thái tình cảm qua nét mặt: vui mừng, buồn, ngạc nhiên, sợ hãi, giận, ghê tởm. Từng vùng của khuôn mặt biểu lộ những trạng thái khác nhau: sự sợ hãi biểu lộ xung quanh mắt, sự ghê tởm biểu lộ ở vùng dưới của khuôn mặt (mũi trở xuống). Trong đa số các trường hợp, sự thay đổi nét mặt diễn ra một cách vô thức xuất phát từ những tình cảm khác nhau mà cá nhân trải nghiệm ở từng thời điểm nhất định. Tuy nhiên trong một số hoàn cảnh cá nhân bộc lộ thái độ quan nét mặt một cách có ý thức: diễn viên, điệp viên, các nhà chính khách.
Ngoài tính biểu cảm, nét mặt còn có thể cho ta biết ít nhiều về tính cách của con người: người có nét mặt căng thẳng thường là người trực tính, người có nét mặt mềm mại ở vùng miệng thì là người hòa nhã, thân mật biết vui đùa và dễ thích nghi.
Có thể nói dối qua nét mặt được không? Có thể có nhiều cử chỉ nhỏ đối nghịch sẽ xuất hiện do vậy sẽ làm lộ tẩy sự dối trá (căng cơ mặt, trán toát mồ hôi, mắt mở to hoặc nheo lại,…). Diễn viên, các nhà chính trị, điệp viên hoặc một số người khác do tính chất của công việc, do quá trình tập luyện,… các biểu lộ của nét mặt không đúng với tâm trạng, tính cách của bản thân,… khiến cho người ngoài khó nhận ra được. Các diễn viên có khả năng hòa nhập vào vai diễn, vào cuộc sống của nhân vật,… các hành động và cảm xúc của nhân vật được biến thành cảm xúc hành động của họ, lúc này sự bộc lộ cảm xúc diễn ra một cách tự nhiên, không giả dối, gượng ép.
Giao tiếp bằng ánh mắt
Ánh mắt phản ánh trạng thái ý thức, cho thấy vùng không gian đang tri giác thị giác. Tần số nhìn vào mắt của người khác cũng biểu lộ sự chú ý của người đó.
Giao tiếp bằng cử chỉ, tư thế của thân thể
Mỗi vùng trên cơ thể của chúng ta đều do một tổ hợp cơ, thần kinh phụ trách. Các cơ vận động dẫn đến sự thay đổi tư thế, tạo ra cử chỉ hay điệu bộ. Ngoài ra những cử chỉ, vị trí của cơ thể cũng đóng một vai trò không kém phần quan trọng trong giao tiếp xã hội.
Giao tiếp bằng cử chỉ: bao gồm vận động của đầu, của bàn tay, cánh tay. Nhiều cử chỉ mang nội dung của ngôn ngữ kí hiệu. Ví dụ, vận động của đầu có thể là đồng ý hay không đồng ý, của bàn tay có thể là lời mời, sự từ chối hay van xin,…
Giao tiếp bằng tư thế thân thể: tư thế có liên quan với vai trò vị trí xã hội của cá nhân. Thường thường, một cách vô thức, nó bộc lộ hình ảnh cá nhân mà chủ thể cảm nhận được về chính mình. Ví dụ: tư thế ngồi thoải mái đầu hơi ngả về phía sau là tư thế của người bề trên, lãnh đạo. Tư thế hơi cuối xuống tựa hồ như lắng nghe là tư thế của nhân viên cấp dưới.
Sử dụng không gian trong giao tiếp (môi trường vật lý): đây cũng là một vấn đề được nhiều nhà tâm lý nghiên cứu. Việc sử dụng không gian trong giao tiếp có liên quan nhiều đến yếu tố văn hóa. Người Đan Mạch sử dụng khoảng không gian giao tiếp nhỏ hơn người Anh. Người Nhật sử dụng khoảng không gian nhỏ hơn người Mỹ.
2.Các chức năng tâm lý liên quan đến giao tiếp: ngôn ngữ, cảm xúc, học tập
https://adongclinic.vn/y3-ngon-ngu
https://adongclinic.vn/y3-dong-luc-thuc-day-cam-xuc
https://adongclinic.vn/y3-hoc-tap
3.Các yếu tố tâm lý xã hội trong giao tiếp và tác động trên bệnh nhân
Con người nhận định xã hội
Là quá trình hình thành các biểu tượng về người khác trong quá trình giao tiếp (mã hóa và giải mã) và duy trì thái độ.
Sự nhận thức và hình thành ấn tượng: do mỗi cá nhân tự xây dựng qua việc tìm hiểu người khác, hình thành các ấn tượng, tạo ra các quy gán. Trong tiến trình quy gán, chúng ta có các thiên kiến. Các thiên kiến thường có là chúng ta cho rằng người khác cũng giống mình, gán các đặc điểm nhân cách khác khi thấy một đặc điểm riêng lẻ (xinh đẹp thì ắt tốt bụng…) hoặc gán tính cách theo nhóm cộng đồng (những người làm nghề kế toán thì rất máy móc). Điều này dẫn tới việc chủ thể hình thành phương hướng hành động cho phù hợp với tình huống và mục đích riêng của mình một cách nhanh chóng, nhưng cũng có thể ứng xử sai trong một số tình huống giao tiếp.
Thông qua tương tác cụ thể, chủ thể kiểm tra lại sự mã hóa của mình và so sánh với sự giải mã của đối tượng, từ đó dẫn đến sự thay đổi cho phù hợp với giao tiếp. Sự thay đổi có thể diễn ra chủ động khi chủ thể tự thấy mình cần phải thay đổi hoặc sự thay đổi diễn ra một cách tự nhiên mà chủ thể không nhận biết được. Trong giao tiếp chính thức, nhà lâm sàng luôn được đòi hỏi đứng ở vai trò người chủ động.
Kết quả của sự tác động qua lại không chỉ thể hiện ở những hành động, hành vi bên ngoài mà còn cả những thay đổi bên trong: thay đổi về cách nghĩ/ nhận thức, thay đổi về cảm xúc- tức là thay đổi về thái độ.
Ảnh hưởng môi trường xã hội trên các chủ thể tham gia tương tác
Môi trường hành vi: môi trường này phản ánh khuynh hướng ủng hộ hoặc làm triệt tiêu một hành vi nào đó của cộng đồng chứa cá nhân đó. Ví dụ trong một môi trường giao tiếp đặc thù, các nhà lâm sàng cần xây dựng các yếu tố củng cố, làm nền tảng cho thái độ ứng xử hàng ngày với bệnh nhân và người nhà bệnh nhân, từ đó có thể định hình được tập hợp các hành vi giao tiếp tốt.
Thật không may, các bệnh viện thường có các chính sách không khuyến khích sự tương tác giữa dược sĩ và bệnh nhân. Bằng chứng về các chính sách này được phản ánh trong cách tổ chức cơ sở thực hành và cách chúng hoạt động. Các chính sách liên quan đến việc thiết kế các cấu trúc có thể ngăn cản việc tư vấn. Ví dụ, ở một số quầy thuốc, quầy nhận đơn cao, vách ngăn bằng kính hoặc thậm chí quầy bar ngăn cách bệnh nhân với dược sĩ và do đó không khuyến khích sự tương tác giữa bệnh nhân và dược sĩ. Cơ chế phân phối đơn thuốc có thể làm mất tập trung vào quá trình giao tiếp. Rất khó để dán nhãn, đếm số lượng thuốc, nói chuyện điện thoại và hoàn thành các công việc hành chính cần thiết khác trong khi cố gắng giao tiếp với bệnh nhân. Một rào cản tế nhị khác là tổ chức tối đa hóa hiệu quả hoạt động của dược sĩ bằng tính hiệu quả kinh tế, một dược sĩ cần phục vụ nhiều bệnh nhân nhất có thể, điều này có thể gây ấn tượng cho bệnh nhân rằng dược sĩ không muốn nói chuyện với họ.
Các tiến trình tư duy và ra quyết định
Quá trình sử dụng thuốc cho bệnh nhân không phải chỉ bắt đầu khi bệnh nhân nhận thấy nhu cầu chăm sóc sức khỏe hoặc vấn đề liên quan đến sức khỏe. Điều này được trải nghiệm như một sự sai lệch so với những gì là “bình thường” đối với cá nhân. Đó có thể là trải nghiệm về “các triệu chứng” hoặc kiểu gián đoạn khác trong cuộc sống, thách thức hoặc đe dọa cảm giác về sự khỏe mạnh của bệnh nhân. Sau đó, bệnh nhân tự lý giải vấn đề liên quan. Sự giải thích này bị ảnh hưởng bởi một loạt các yếu tố tâm lý và xã hội duy nhất đối với cá nhân. Chúng bao gồm kinh nghiệm trước đây của cá nhân với hệ thống chăm sóc sức khỏe chính thức; ảnh hưởng của gia đình; sự khác biệt về văn hóa trong khái niệm “sức khỏe” và “bệnh tật”; kiến thức về vấn đề (các cá nhân khác nhau rất nhiều về mức độ kiến thức y học và sinh học); niềm tin về sức khỏe có thể trùng hợp hoặc có thể không trùng hợp với “chân lý” y tế được chấp nhận; đặc điểm tâm lý; giá trị cá nhân, động cơ và mục tiêu; và như thế. Ngoài ra, cách giải thích của bệnh nhân có thể bị ảnh hưởng bởi các lực lượng bên ngoài, chẳng hạn như các thành viên trong gia đình đưa ra cách giải thích và lời khuyên của riêng họ.
Bệnh nhân tại thời điểm này có thể không có hành động nào để điều trị tình trạng này vì vấn đề được coi là nhỏ hoặc nhất thời hoặc vì bệnh nhân thiếu phương tiện để bắt đầu điều trị. Nếu bệnh nhân thực hiện hành động, hành động đó có thể bao gồm bắt đầu tự điều trị, bắt đầu liên hệ với nhà cung cấp dịch vụ không phải là y tế (chẳng hạn như người chữa bệnh bằng đức tin) và / hoặc liên hệ với nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Nếu bệnh nhân có hành động liên quan đến việc tiếp xúc với chuyên gia chăm sóc sức khỏe, cho dù đó là bác sĩ trị liệu, dược sĩ hay bác sĩ chăm sóc sức khỏe khác, người bệnh phải mô tả trải nghiệm “triệu chứng” của mình và ở một mức độ nào đó là cách diễn giải của bản thân về trải nghiệm đó. Theo nhiều cách, tại thời điểm này, sự kiểm soát được chuyển từ bệnh nhân sang chuyên gia, vì chính nhà chuyên môn có thể hợp pháp hóa trải nghiệm bằng cách đặt tên cho nó (chẩn đoán). Tuy nhiên, một hành động như vậy biến trải nghiệm từ đó có ý nghĩa với bệnh nhân thành có nghĩa với người hành nghề (có thể được hoặc không được chia sẻ bởi bệnh nhân). Chất lượng của đánh giá chuyên môn một phần phụ thuộc vào mức độ kỹ lưỡng của báo cáo bệnh nhân, kỹ năng của nhà lâm sàng trong việc thu thập thông tin liên quan và khả năng tiếp nhận của chuyên gia để “nghe” thông tin có thể quan trọng từ bệnh nhân. Kỹ năng của nhà lâm sàng trong việc truyền đạt thông tin về chẩn đoán có thể thay đổi hoặc tinh chỉnh khái niệm của bệnh nhân về trải nghiệm bệnh tật của họ, làm cho sự hiểu biết của bệnh nhân phù hợp hơn với nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe.
Sau khi nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe đạt được đánh giá chuyên môn hoặc chẩn đoán vấn đề của bệnh nhân dựa trên báo cáo của bệnh nhân, kết quả khám bệnh và các dữ liệu khác, họ sẽ đưa ra khuyến nghị cho bệnh nhân. Nếu khuyến cáo là bắt đầu điều trị bằng thuốc, bệnh nhân có thể thực hiện hoặc không thực hiện khuyến cáo. Dữ liệu chỉ ra rằng một số lượng lớn các đơn thuốc được viết không bao giờ được thực hiện (Olson và cộng sự, 2005; Safran, 2005). Việc không bắt đầu điều trị theo khuyến nghị có thể do hạn chế về kinh tế, do thiếu hiểu biết về mục đích của khuyến cáo, hoặc không “tham gia” vào kế hoạch điều trị. Trên thực tế, một số quyết định của bệnh nhân có thể phản ánh sự thất bại trong quá trình giao tiếp giữa bệnh nhân và nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe.
Khi bệnh nhân chấp nhận các khuyến nghị bắt đầu điều trị bằng thuốc, lấy thuốc và cố gắng tuân theo chế độ điều trị theo quy định, họ chỉ có thể làm như vậy trong khả năng tốt nhất của mình khi họ hiểu rõ loại thuốc dự định sử dụng. Đối với nhiều bệnh nhân, việc dùng thuốc bao gồm việc lạm dụng thuốc do hiểu sai về những gì được khuyến cáo hoặc do sai lệch ngoài ý muốn so với phác đồ điều trị được chỉ định (ví dụ: quên uống thuốc). Ngoài ra, bệnh nhân có thể sử dụng thuốc nhưng có chủ ý sửa đổi chế độ. Trong cả những sửa đổi vô tình và cố ý đối với phương pháp điều trị được chỉ định, hành động của bệnh nhân có thể bị ảnh hưởng bởi mức độ thành công của bạn và các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe khác trong việc thiết lập các kế hoạch điều trị được hiểu và đồng ý với nhau. Bất kể thực hành dùng thuốc nào mà bệnh nhân thiết lập, họ đánh giá hậu quả của việc điều trị trên khía cạnh lợi ích thu được so với chi phí hoặc rào cản. Kết quả của đánh giá này là bệnh nhân tiếp tục dùng thuốc, bệnh nhân thay đổi phác đồ điều trị bằng thuốc hoặc bệnh nhân ngừng điều trị bằng thuốc. Trong mọi trường hợp, bệnh nhân liên tục ước tính những gì họ cảm nhận được về tác động của các hành động của họ và điều chỉnh hành vi của họ cho phù hợp. Điều không thể tránh khỏi là, khi bệnh nhân bắt đầu điều trị bằng thuốc, họ sẽ “tự nhận xét” phản ứng của chính mình — họ sẽ quyết định xem họ có cảm thấy khác đi hay không; họ sẽ tìm kiếm các dấu hiệu cho thấy việc điều trị có hiệu quả hoặc thay vào đó là các dấu hiệu cho thấy có thể có vấn đề với thuốc. Vấn đề không phải là bệnh nhân phản ứng với thuốc thực sự thế nào (sinh khả dụng) mà là điều họ cho là tất yếu và mong muốn của họ. Vấn đề tồn tại là bệnh nhân thường thiếu thông tin về những gì mong đợi từ việc điều trị — vì những gì họ tìm kiếm mà đúng thì sẽ cung cấp cho họ phản hồi hợp lý về phản ứng của họ với thuốc. Thiếu thông tin này, họ áp dụng các tiêu chí “thông thường” của riêng mình.
Bệnh nhân có thể làm gián đoạn quá trình điều trị bằng cách không liên lạc với nhà chuyên môn và các nhà cung cấp khác khi cần theo dõi, điều này có thể liên quan đến việc ngừng tham gia vào hệ thống chăm sóc sức khỏe chính thức trong một khoảng thời gian hoặc liên hệ với nhà cung cấp mới và bắt đầu lại toàn bộ quy trình. Trong số những bệnh nhân liên hệ với nhà cung cấp của họ, một số sẽ cho biết nhận thức, vấn đề và quyết định của họ về việc điều trị. Những bệnh nhân khác có thể liên hệ với nhà cung cấp và không cung cấp thông tin này (hoặc không chuyển tải tất cả các khía cạnh thích hợp). Liên hệ theo dõi này xảy ra trong quá trình thăm khám lại với bác sĩ hoặc mua lại đơn thuốc từ dược sĩ. Bản chất của các mối quan hệ của họ với bạn và các nhà cung cấp dịch vụ khác, mức độ mà bệnh nhân cảm thấy “an toàn” khi bộc bạch những khó khăn hoặc mối quan tâm, kỹ năng của các nhà cung cấp trong việc khơi gợi nhận thức của bệnh nhân và mức độ mà một cảm giác “quan hệ đối tác” đã được thiết lập liên quan đến quyết định điều trị — tất cả đều ảnh hưởng đến quyết định liên hệ lại với nhà cung cấp của bệnh nhân. Những yếu tố này cũng ảnh hưởng đến mức độ báo cáo thực hành dùng thuốc và chia sẻ nhận thức. Bất kể bệnh nhân báo cáo hoàn toàn trải nghiệm của họ với nhiệt độ như thế nào khi họ liên hệ lại với nhà cung cấp, nhà cung cấp sẽ thực hiện đánh giá chuyên môn về phản ứng của bệnh nhân với điều trị dựa trên những gì bệnh nhân báo cáo và / hoặc các giá trị xét nghiệm và các biện pháp đo lường khác. Đánh giá này sẽ đưa ra các khuyến nghị tiếp tục điều trị bằng thuốc như đã khuyến cáo trước đó, thay đổi điều trị bằng thuốc (nghĩa là thay đổi liều lượng, thay đổi loại thuốc, thêm thuốc), hoặc không tiếp tục điều trị bằng thuốc.
Những lý do khuyến khích bệnh nhân chia sẻ kinh nghiệm của họ với liệu pháp
• Họ có những câu hỏi chưa được trả lời
• Họ có sự hiểu lầm
• Họ gặp các vấn đề liên quan đến trị liệu
• Họ “theo dõi” phản ứng của chính họ đối với việc điều trị
• Họ tự đưa ra quyết định về liệu pháp VÀ
• Họ không được tiết lộ thông tin này cho bạn trừ khi bạn bắt đầu một cuộc đối thoại.
Phân tích quá trình sử dụng thuốc làm nổi bật một số điều trong bối cảnh can thiệp đa ngành. Đầu tiên, quyết định của bạn và các nhà cung cấp dịch vụ khác để giới thiệu hoặc kê đơn điều trị bằng thuốc là một phần nhỏ của quy trình. Thứ hai, bệnh nhân và các chuyên gia khác nhau có thể thực hiện song song việc ra các quyết định, mà chỉ trao đổi lẻ tẻ với nhau về các quá trình này. Hơn nữa, thông tin liên lạc xảy ra có thể không đầy đủ và không hiệu quả. Tuy nhiên, cả bạn và bệnh nhân của bạn có thể tiếp tục đưa ra quyết định và đánh giá kết quả bất kể chất lượng của việc đánh giá thấp các mục tiêu, hành động và quyết định của nhau. Một trong những mục đích của quá trình giao tiếp phải là làm cho sự hiểu biết của bệnh nhân và bạn về bệnh tật, kinh nghiệm bệnh tật và mục tiêu điều trị càng chặt chẽ càng tốt.
Rõ ràng là có rất nhiều điểm trong quá trình mà chất lượng của mối quan hệ bệnh nhân – chuyên môn và sự trao đổi thông tin chu đáo ảnh hưởng đến quyết định của cả bệnh nhân và chuyên gia y tế. Chính ở những điểm này, kỹ năng giao tiếp của bạn rất quan trọng và có thể ảnh hưởng nhiều nhất đến kết quả điều trị. Nhà lâm sàng phải nắm bắt các cơ hội trong quá trình này khi chúng có sẵn. Những cơ hội này sẽ xảy ra trong môi trường có cấu trúc và không có cấu trúc, trong nhiều môi trường thực hành khác nhau và sử dụng lượng thời gian khác nhau. Chìa khóa là tối đa hóa kết quả của bệnh nhân bằng cách sử dụng các kỹ năng giao tiếp lấy bệnh nhân làm trung tâm.
Cẩn trọng với khả năng xảy ra gây hấn và các hậu quá xấu của phân biệt đối xử
Trong quá trình tương tác, mỗi chúng ta đều có thể rơi vào tình trạng này. Tuy nhiên, việc trau dồi các cảm xúc tích cực của việc giúp đỡ người khác và khả năng thấu cảm có thể giúp nhà lâm sàng kiểm soát bản thân cũng như tình huống giao tiếp tốt hơn, tiếp cận bệnh nhân tốt hơn và tạo thuận cho giao tiếp diễn ra.
Tuy nhiên, việc chăm sóc lấy bệnh nhân làm trung tâm, trao quyền quyết định cho bệnh nhân có thể đẩy nhà lâm sàng vào trạng thái bị động, né tránh trách nhiệm giải quyết xung đột, làm cho hành vi hung hăng dễ dàng diễn ra, “đổ lỗi” cho người khác. Nhà lâm sàng cần nhớ, cho dù chúng ta đang thực hành lấy bệnh nhân làm trung tâm, thì với vai trò chuyên môn trong mô hình chăm sóc, chúng ta vẫn chịu trách nhiệm về hiệu quả chăm sóc và dẫn dắt giao tiếp.