CÁC PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU TÂM LÝ HỌC

Trong bài Đại cương Tâm lý học, tài liệu Sức khoẻ Tâm thần hiện đang dành cho sinh viên Y3, có đề cập đến tính khoa học của Tâm lý học hiện đại. Thay vì nhìn nhận Tâm lý học như một câu chuyện về các hiện tượng thần bí, bởi vì nó diễn ra bên trong tâm trí, hình như không có tính thực chứng, thì chúng ta có thể xác lập các đặc tính định tính và định lượng của các chức năng tâm lý có thể kiểm nghiệm được. Vì vậy trích đăng về các phương pháp nghiên cứu Tâm lý học đã được sử dụng để cung cấp các hiểu biết Tâm lý học hiện đại có thể giúp người đọc một cách tiếp cận môn khoa học này. Trích đoạn sau lấy từ “Dẫn luận tâm lý học” của dịch giả Thái An- Nhà xuất bản Hồng Đức, nguyên tác của Gillian Butler & Freda McManus, Copyright © Gillian Butler & Freda McManus, 2014.

Ở nhiều thời kỳ trong lịch sử, từng có các nhà tư tưởng lớn (ví dụ Galileo và Kant) tuyên bố rằng tâm lý học sẽ không bao giờ có thể là một khoa học bởi vì đối tượng của tâm lý học là kinh nghiệm chủ quan (B.R. Hergenhahn).  Tuy nhiên, để trả lời câu hỏi tâm lý học có là một khoa học hay không, trước tiên chúng ta phải định nghĩa khoa học là gì.

Khoa học xuất hiện, lúc đầu, như một cách thức để trả lời các câu hỏi về thiên nhiên bằng cách quan sát trực tiếp thiên nhiên, chứ không phải dựa vào các tín điều của Giáo hội, các tác giả xưa, sự mê tín, hay các quy trình tư tưởng trừu tượng mà thôi. Khoa học ngay từ đầu đã dựa vào thẩm quyền cao nhất là sự quan sát thường nghiệm (nghĩa là quan sát trực tiếp thiên nhiên), nhưng khoa học không chỉ là quan sát thiên nhiên. Muốn hữu ích, việc quan sát phải được tổ chức hay xếp loại một cách nào đó vào các phạm trù, và phải ghi nhận các cách thức mà một cuộc quan sát giống hay khác với các quan sát khác như thế nào. Sau khi ghi nhận những tương đồng và dị biệt với các quan sát khác nhiều nhà khoa học đi thêm một bước nữa là cố gắng giải thích điều họ đã quan sát được.

Vì vậy khoa học thường được mô tả với hai thành phần chính: (1) quan sát thường nghiệm và (2) lý thuyết. Theo Hull, có thể thấy hai khía cạnh này của khoa học ngay từ những cố gắng rất xa xưa nhất của con người để tìm hiểu thế giới: con người luôn luôn dấn mình vào một hoạt động mang hai khía cạnh là quan sát và sau đó tìm cách giải thích những điều họ thấy. Mọi con người bình thường ở mọi thời đại đều đã từng quan sát mặt trời mọc và lặn và các chu kỳ khác nhau của mặt trăng. Nhưng quan sát khoa học thì đặt ra câu hỏi: “Tại sao? Tại sao mặt trăng khi tròn khi khuyết? Tại sao mặt trời lúc mọc lúc lặn, và nó lặn về đâu?” Ở đây chúng ta có hai yếu tố của khoa học thời cận đại: việc quan sát tạo thành yếu tố thường nghiệm hay sự kiện, và cố gắng một cách có hệ thống để giải thích các sự kiện này- tạo thành yếu tố lý thuyết. Khi khoa học phát triển, thì có sự chuyên môn hóa, hay phân công, một số người dành thời giờ chủ yếu cho việc quan sát, trong khi một số ít hơn chuyên lo các vấn đề giải thích.

Khía cạnh duy lý của khoa học giữ cho nó khỏi trở thành một sự sưu tập bất tận các sự kiện thường nghiệm rời rạc. Khoa học toán thống kê trong các nghiên cứu y sinh nói chung và tâm lý học nói riêng, giúp các nhà khoa học xem xét các mối tương quan, xem nó có ý nghĩa hay không, nhằm gắn kết các sự kiện đó.

 Vì nhà khoa học cách nào đó phải cho thấy ý nghĩa của điều họ quan sát, nên họ làm ra các ‘lý thuyết’ (theory). Một lý thuyết khoa học có hai chức năng chính: (1) nó tổ chức sắp xếp các quan sát; (2) nó trở thành sự hướng dẫn cho các quan sát tương lai. Nói cách khác, một lý thuyết đưa ra các mệnh đề có thể chứng minh bằng bằng thí nghiệm, có thể trắc nghiệm được. Nghĩa là chúng phải tạo ra các giả thuyết có thể được minh chứng một cách thực nghiệm là có giá trị hay không. Như thế, trong khoa học sự quan sát trực tiếp là quan trọng, nhưng sự quan sát này thường được hướng dẫn bởi lý thuyết, làm cho việc quan sát có kiểm soát trở thành một khía cạnh quan trọng của khoa học.  

Các phương pháp trong nghiên cứu

Nghiên cứu tài liệu lưu trữ (Archival Research). Nghiên cứu tư liệu lưu trữ là một biện pháp kiểm chứng giả thuyết tương đối ít tốn kém, bởi vì người khác đã làm công việc thu thập dữ kiện căn bản cho bạn rồi. Dĩ nhiên, việc sử dụng các dữ kiện sẵn có như thế có một vài nhược điểm. Một mặt, các dữ kiện có thể không ở dạng cho phép nhà nghiên cứu kiểm chứng giả thuyết một cách toàn diện. Mặt khác, thông tin ấy có thể chưa hoàn chỉnh, không đầy đủ, hoặc đã được thu thập một cách tình cờ mà thôi. Dù sao, trong hầu hết mọi trường hợp thì biện pháp nghiên cứu tư liệu lưu trữ đều hay bị bế tắc do một sự kiện đơn giản là các hồ sơ lưu trữ các thông tin cần thiết thường không có sẵn.

Phương pháp quan sát áp dụng trong khoa học tự nhiên (Naturalistic Observation). Mặc dù ưu điểm của phương pháp quan sát này là hiển nhiên – chúng ta lấy một mẫu gồm những hành vi mà con người thực hiện trong “bối cảnh sống tự nhiên” (natural habitat) – nhưng cũng có một nhược điểm quan trọng: đó là không thể khống chế được bất cứ một nhân tố quan trọng nào cả.

Nghiên cứu điều tra (Survey Research). Không một phương pháp nào nhằm tìm hiểu xem con người tư duy, cảm nhận và hành động đều gì trực tiếp bằng phương pháp đặt câu hỏi ngay với họ. Vì lý do này, các cuộc đều tra được xem là phương pháp nghiên cứu quan trọng.

Nghiên cứu trường hợp điển hình (Case study). Ngược lại phương pháp nghiên cứu điều tra trong đó người ta phải tìm hiểu nhiều người, nghiên cứu trường hợp điển hình (case study) là phương pháp tìm hiểu sâu rộng một cá nhân hoặc một nhóm rất ít người. Theo phương pháp này, nhà tâm lý thường phải thực hiện một trắc nghiệm tâm lý, trong đó nhà tâm lý sử dụng một loạt câu hỏi được soạn thảo cẩn thận để tìm hiểu sâu sắc cá tính của đối tượng nghiên cứu.

Nghiên cứu thực nghiệm (Eperimental Research). Biện pháp duy nhất mà nhà tâm lý có thể thiết lập một mối liên hệ nhân quả thông qua cuộc nghiên cứu là tiến hành một thí nghiệm. Trong một thí nghiệm (experiment) hợp quy cách, mối tương quan giữa hai (hoặc nhiều) yếu tố được khảo sát bằng cách cố tình làm cho một yếu tố biến động rồi quan sát hậu quả do biến động ấy gây ra cho yếu tố kia. Biến động do cố tình được gọi là thao tác thí nghiệm (experimental mamipulation). Các thao tác thí nghiệm được vận dụng để phát hiện các mối tương quan giữa các biến số (variables), các hành vi (behaviors), các biến cố (events), hoặc giữa các đặc tính khác có thể thay đổi, hoặc biến động được theo một cách thức nào đó.

Trong Tâm lý học hiện đại, các lý thuyết nói chung được phân cấp để biểu diễn độ đặc hiệu. Trích đoạn sau dịch từ “Cognitive Psychology A Student’s Handbook” của Michael W. Eysenck và Mark T. Keane (1995)- An imprint of Erlbaum (UK) Taylor & Francis.

Khung / frameworks, lý thuyết/ theories và mô hình/ models

Điều quan trọng là trong thực hành và nghiên cứu, các nhà chuyên môn phải phân biệt giữa một số thuật ngữ khác nhau về tính đặc hiệu của chúng: khung, giả thuyết/ lý thuyết, và mô hình.

Khung chung là một tập hợp các ý tưởng được các nhà lý thuyết rút ra trong một chuyên ngành cụ thể (xem Anderson, 1983). Các thuật ngữ khác về cơ bản đồng nghĩa với khung chungcách tiếp cận, mô hìnhsiêu lý thuyết (xem Kuhn, 1970; Lachman, Lachman & Butterfield, 1979). Khung chung được các nhà tâm lý học nhận thức sử dụng phổ biến nhất là khung xử lý thông tin được thảo luận trước đó. Các khung chung nên được coi là hữu ích hoặc vô dụng thay vì đúng hoặc không chính xác vì chúng bao gồm các giả định cấp cao không thể được kiểm tra trực tiếp ở cấp độ thử nghiệm.

Ngược lại, các lý thuyết nên được nêu trong các thuật ngữ mà các nhà nghiên cứu xây dựng để xác định xem chúng là đúng hay không chính xác. Các lý thuyết bị ràng buộc nhiều hơn so với các khung và thường cung cấp các chương mục chính xác về các cơ chế và ảnh hưởng cơ bản làm phát sinh một tập hợp các hiện tượng. Các lý thuyết khác nhau đáng kể trong phạm vi của chúng, tức là phạm vi của các hiện tượng mà chúng bao trùm. Các lý thuyết thường quá chung chung để đưa ra dự đoán về các tình huống cụ thể. Tuy nhiên, một mô hình là một khởi tạo cụ thể của một lý thuyết liên quan đến lý thuyết đó với một tình huống cụ thể.

Tóm lại, lý thuyết trong tâm lý học nhận thức xảy ra ở một số cấp độ khác nhau. Một khuôn khổ rất rộng và bao gồm các giả định không thể được đưa vào thử nghiệm thực nghiệm- khung. Một lý thuyết chính xác hơn: nó đưa ra nhiều dự đoán khác nhau có thể được kiểm tra. Một mô hình vẫn chính xác hơn: nó thường bao gồm một lý thuyết áp dụng cho một tình huống cụ thể.

Lược đồ mô tả các cấp độ trong tâm lý học lý thuyết (Eysenck và Keane, 1995)

Đăng bởi anhdo73

Hoạt động can thiệp đa ngành: Tâm lý lâm sàng, Tâm thần, Phục hồi chức năng, Y học cổ truyền

Bình luận về bài viết này