Nghiệm pháp Spurling

Phòng khám Á Đông đang tập huấn về nghiệm pháp Spurling, do bác sĩ Vũ Dũng hướng dẫn. Việc hiểu biết tổng thể hơn về nghiệm pháp là cần thiết. Nội dung bài viết chủ yếu dựa trên bài báo của Shabat và cộng sự.

Nghiệm pháp Spurling là một phương pháp y tế được sử dụng để đánh giá tình trạng đau rễ thần kinh (còn được gọi là đau lan [theo đường đi của dây TK, theo tiết đoạn ở các vùng da]). Người khám xoay đầu bệnh nhân về phía bị đau, đồng thời ngửa ra sau và ấn xuống đỉnh đầu của bệnh nhân theo trục dọc. Dấu hiệu Spurling dương tính là khi cơn đau phát sinh ở cổ lan tỏa theo hướng của dây TK tương ứng, ở hai bên. Nó là một loại nghiệm pháp nén cột sống cổ.

Bệnh nhân có dấu hiệu Spurling’s dương tính có thể xuất hiện với nhiều triệu chứng khác nhau, bao gồm đau, tê và yếu. Ngoài bệnh sử lâm sàng, khám thần kinh có thể thấy các dấu hiệu gợi ý bệnh lý đốt sống cổ.

Giới thiệu

Vào đầu những năm 1940, trong ba báo cáo trường hợp khác nhau, lần đầu tiên ghi nhận ý tưởng về “viêm tủy cổ” do đĩa đệm bị vỡ, mà không có bệnh lý tủy cổ. Spurling vào thời điểm đó cùng với Scoville, đã xuất bản bài báo của họ (1944), mô tả “nghiệm pháp nén cổ”, được gọi là nghiệm pháp Spurling. Kể từ thời điểm đó, nghiệm pháp này trở nên phổ biến và được chấp nhận rộng rãi trong khám cột sống cổ như một trong những nghiệm pháp kích thích được chấp nhận nhiều nhất đối với cột sống cổ.

Trong thời đại ngày nay, các chẩn đoán hình ảnh như chụp cắt lớp vi tính (CT) hoặc chụp cộng hưởng từ (MRI) cột sống cổ có vai trò chính trong việc xác định chẩn đoán bệnh lý cột sống cổ. Mặc dù các chẩn đoán hình ảnh này thường được bác sĩ phẫu thuật cột sống thực hiện khi họ nghi ngờ bệnh lý cột sống hoặc khi họ muốn loại trừ bệnh lý như vậy, nhưng nên được thực hiện một cách thận trọng, vì mặt trái của vấn đề bức xạ (đối với CT) và chi phí y tế (đối với MRI).

Ngoài ra, trong chăm sóc sức khỏe cộng đồng, với hoạt động của bác sĩ gia đình và bác sĩ y học cổ truyền, thì việc định hướng cho các xét nghiệm cận lâm sàng vẫn luôn là cần thiết.

Thực hiện

Cổ của bệnh nhân được ngửa và xoay sang bên bị nghi ngờ có liên quan trước khi ép dọc trục. Phương pháp này được thiết kế để làm trầm trọng thêm sự kích thích vào rễ thần kinh cổ bằng cách giảm kích thước của các ổ mà qua đó, rễ thần kinh thoát ra khỏi cột sống.

Chỉ định

Nghiệm pháp Spurling được sử dụng trong quá trình khám cột sống cổ để hỗ trợ chẩn đoán và đánh giá bệnh lý đốt sống cổ. Nó nên được sử dụng để đánh giá bệnh nhân có các triệu chứng đau lan. Kết quả của nghiệm pháp này có thể hướng dẫn bác sĩ lâm sàng khi xem xét thêm các kết quả hình ảnh chụp chiếu và các bước cần thiết cần thiết khác để chẩn đoán chính xác.

Tuy nhiên, cần thận trọng khi đánh giá bệnh nhân bị tổn thương cột sống cổ cấp tính, bệnh nhân bị bệnh nặng và những bệnh nhân có quá trình ung thư hoặc nhiễm trùng khác. Cột sống cổ không ổn định cũng là một lý do để tránh thực hiện thủ thuật y tế này.

Sự chính xác

Nghiệm pháp Spurling khá đặc hiệu khi được sử dụng cho những cá nhân có kết quả điện cơ bất thường và là một phương pháp kiểm tra thể chất tương đối nhạy trong chẩn đoán thoái hóa đốt sống cổ hoặc bệnh nhân đau lan cột sống cổ cấp tính. Đây không phải là một nghiệm pháp quá nhạy khi được sử dụng cho những người không có dấu hiệu đau lan cổ điển gợi ý đến bệnh căn nguyên là do cột sống cổ. Năm 2011, nghiên cứu “Mối tương quan giữa nghiệm pháp Spurling và Kết quả chẩn đoán Hình ảnh trong việc Phát hiện Bệnh căn nguyên cột sống cổ” do Shabat và cộng sự, từ Đơn vị Phẫu thuật Cột sống, Trung tâm Y tế Sapir, Israel và Khoa Y Tel-Aviv Sackler, Tel-Aviv, Israel, đã đánh giá 257 bệnh nhân mắc bệnh cột sống cổ trên lâm sàng và các phát hiện chụp CT cho thấy có mối tương quan. Nghiệm pháp Spurling có độ nhạy 95% và độ đặc hiệu 94% để chẩn đoán bệnh lý rễ thần kinh theo nghiên cứu trên. Vì vậy Shabat và cộng sự cho rằng chỉ những bệnh nhân thích hợp trong các khám thực thể (Spurling dương tính) mới nên được gửi thêm chẩn đoán hình ảnh, và nên chụp MRI. Mặc dù nghiên cứu có hạn chế bởi mẫu đa số là người lớn tuổi. Không rõ liệu một số phát hiện trong các kết quả hình ảnh có phải là một phần của quá trình lão hóa “bình thường” hay liên quan đến chèn ép thần kinh mà đã làm nghiệm pháp Spurling dương tính hay không. Tuy nhiên, điều này ít quan trọng hơn vì mục đích của nghiên cứu là giúp bác sĩ lâm sàng xác định và chỉ định những bệnh nhân cần được gửi đến để chụp chiếu thêm, dựa trên khám lâm sàng được mô tả bởi nghiệm pháp Spurling. Nghiên cứu này chứng minh rằng những bệnh nhân có Spurling dương tính có khả năng bị chèn ép rễ thần kinh và nên được gửi đi để nghiên cứu hình ảnh thêm và đối với những bệnh nhân có Spurling âm tính, khả năng bị chèn ép rễ thần kinh ít xảy ra hơn.

Trong một nghiên cứu khác được thực hiện vào cuối những năm 1900, 255 bệnh nhân được kiểm tra bằng nghiệm pháp Spurling và sau đó được kiểm tra điện chẩn đoán. Kết quả nghiên cứu cho thấy nghiệm pháp Spurling có độ nhạy 30%, và đặc hiệu 93% để tìm bệnh căn nguyên cột sống cổ được chẩn đoán bằng xét nghiệm điện chẩn. Các kết luận rút ra từ nghiên cứu này chứng minh tiện ích lâm sàng của nghiệm pháp Spurling để xác nhận chẩn đoán bệnh lý căn nguyên cột sống cổ hơn là cho mục đích sàng lọc. Nhìn chung, vẫn còn hạn chế về dữ liệu về độ đặc hiệu và độ nhạy của nghiệm pháp Spurling.

Đăng bởi anhdo73

Hoạt động can thiệp đa ngành: Tâm lý lâm sàng, Tâm thần, Phục hồi chức năng, Y học cổ truyền

Một suy nghĩ về “Nghiệm pháp Spurling

  1. Trong khám bệnh tôi có thực hiện nghiệm pháp bấm chuông thì độ định hướng chèn ép rễ thần kinh chưa cao, vậy tôi có thể thay thế nghiệm pháp Spurling này với nghiệp pháp bấm chuông không?

    Thích

Bình luận về bài viết này