Tâm lý học căn bản- Lý thuyết phát triển nhận thức luân lý của Kohlberg

Chúng ta nên xem xét lý thuyết này, bởi vì sự phát triển nhận thức của con người không thể thiếu nhận thức luân lý. Phần này cũng làm nền tảng cho sự phát triển của môn đạo đức nghề nghiệp trong tất cả các ngành khoa học cũng như các ngành nghề ứng dụng. Mặt khác, có thể nói, đạo đức của một người cũng phản ánh năng lực nhận thức của anh ta?

Đo lường sự phát triển đạo đức
Kể từ khi lý thuyết của Kohlberg phát triển, một số công cụ đo lường nhằm mục đích đo lường lý luận đạo đức đã được xây dựng. Kohlberg’s Moral Judgement Interview (1969) là một cuộc phỏng vấn có cấu trúc khá dài, đòi hỏi người phỏng vấn và người chấm điểm được đào tạo. Một công cụ khác là Kiểm tra vấn đề xác định được phát triển bởi James Rest (1974). Các biện pháp này, từ trắc nghiệm khách quan đến đánh giá khách quan, có cấu trúc, tất cả đều bao gồm một tập hợp các câu chuyện giả định liên quan đến các tình huống khó xử về đạo đức. Như vậy, không khó để hình dung rằng, chương trình đào tạo về đạo đức không phải là đưa ra tuyên bố mà chính là đào tạo kĩ năng lập luận trong các xung đột.

Hệ thống xếp thứ bậc của Kohlberg giả định rằng con người trải qua 3 mức độ theo một trình tự cố định, và rằng khoảng tuổi 13 người ta nếu không đủ sức vươn đến giai đoạn cao nhất thì chủ yếu do thiếu sót trong quá trình tiến triển trí tuệ trước độ tuổi ấy chưa được khắc phục. Tuy nhiên, nhiều người không bao giờ vươn đến được mức độ nhận thức luân lý cao nhất. Kohlberg cho rằng chỉ khoảng 25% tổng số người trưởng thành phát triển đến mức 3 trong mô hình của ông.

Mức 1: Luân lý tiền ước lệ. Ở mức  độ này, quan tâm cụ thể của cá nhân nhằm vào phần thưởng được hưởng và hình phạt phải gánh chịu. Gồm 2 giai đoạn:

Giai đoạn 1: Sự trừng phạt / định hướng vâng lời. Hành vi được quyết định bởi hậu quả. Cá nhân sẽ tuân theo để tránh bị trừng phạt. Giai đoạn 2: Định hướng mục đích công cụ. Hành vi lại được xác định bằng hậu quả. Cá nhân tập trung vào việc nhận phần thưởng hoặc thỏa mãn nhu cầu cá nhân.

Mức 2: Luân lý ước lệ. Đến mức độ này, người ta tìm cách giải quyết rắc rối về mặt luân lý, với tư cách là một thành viên của nhóm. Với xã hội, họ quan tâm làm hài lòng người khác bằng cách hành động như là phần tử lương thiện trong xã hội. Cũng gồm 2 giai đoạn:

Giai đoạn 3: Định hướng người tốt. Hành vi được xác định bởi sự chấp thuận của xã hội. Cá nhân muốn duy trì hoặc giành được tình cảm và sự chấp thuận của người khác bằng cách trở thành một “người tốt”. Giai đoạn 4: Định hướng luật và trật tự. Các quy tắc và luật lệ xã hội quyết định hành vi. Cá nhân bây giờ xem xét một viễn cảnh lớn hơn, đó là các quy luật xã hội. Việc ra quyết định về mặt đạo đức trở nên không chỉ đơn giản là xem xét mối quan hệ chặt chẽ với những người khác. Cá nhân tin rằng các quy tắc và luật pháp duy trì trật tự xã hội đáng được bảo tồn.

Mức 3: Luân lý siêu ước lệ. Ở mức độ này, người ta vận dụng các nguyên tắc luân lý được xem là bao quát hơn các nguyên tắc của bất kỳ một nhóm, cộng đồng đặc biệt nào. Gồm 2 giai đoạn:

Giai đoạn 5: Định hướng hợp đồng xã hội. Quyền của cá nhân quyết định hành vi. Các cá nhân xem luật và quy tắc như những công cụ linh hoạt để cải thiện mục đích của con người. Có nghĩa là, trong tình huống phù hợp, có những ngoại lệ đối với các quy tắc. Khi luật pháp không phù hợp với quyền cá nhân và lợi ích của đa số, chúng không mang lại lợi ích cho con người và cần xem xét các giải pháp thay thế. Giai đoạn 6: Định hướng nguyên tắc đạo đức phổ quát. Theo Kohlberg, đây là giai đoạn hoạt động cao nhất. Tuy nhiên, ông tuyên bố rằng một số cá nhân sẽ không bao giờ đạt được cấp độ này. Ở giai đoạn này, hành động thích hợp được xác định bởi các nguyên tắc đạo đức lương tâm do một người tự lựa chọn. Những nguyên tắc này là trừu tượng và phổ quát trong ứng dụng. Loại lập luận này liên quan đến việc xem xét quan điểm của từng người hoặc từng nhóm có thể bị ảnh hưởng bởi quyết định.

Đến nay các cuộc nghiên cứu sâu rộng đều cho thấy rằng các giai đoạn xác định bởi Kohlberg phản ánh hợp lý tiến trình phát triển nhận thức luân lý. Tuy vậy, các nghiên cứu ấy cũng nêu ra một số vấn đề về mặt phương pháp luận trong lý thuyết của Kohlberg. Một nghi vấn quan trọng là phương pháp của Kohlberg nhằm đánh giá các phán đoán / thẩm định (judgments) chứ không phải các hành vi (behaviors) luân lý. Phân biệt được đúng sai không có nghĩa là chúng ta sẽ luôn luôn hành động phù hợp với phán đoán của chúng ta.

Ngoài ra, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc hiểu các giai đoạn là tích lũy (ví dụ: nếu một người hiểu giai đoạn 3, người đó hiểu các giai đoạn thấp hơn nhưng không nhất thiết là các giai đoạn cao hơn) và việc hiểu các giai đoạn cao hơn ngày càng khó khăn. Hơn nữa, xu hướng phát triển đạo đức theo thời đại đã nhận được sự ủng hộ giữa các nền văn hóa. Cuối cùng, dữ liệu hỗ trợ tuyên bố rằng mọi cá nhân đều tiến bộ qua cùng một trình tự phát triển; tuy nhiên, tốc độ phát triển sẽ khác nhau.

Tiến trình phát triển nhận thức luân lý của nữ giới. Nhà tâm lý Carol Gilligan (1982, 1987) đã nêu ra được một thiếu sót quan trọng trong công trình nghiên cứu ban đầu của Kohlberg. Bà cho rằng công trình đã được tiến hành trong điều kiện chỉ sử dụng các đối tượng nghiên cứu là nam giới, nên thích hợp cho họ, hơn nữ giới. Ngoài ra bà lập luận đầy thuyết phục rằng, do kinh nghiệm xã hội hóa khác biệt nhau nên theo bà, nam giới quan niệm luân lý chủ yếu dưới dạng các nguyên tắc phổ quát như công lý và công bằng chẳng hạn, còn nữ giới xét luân lý theo khái niệm trách nhiệm đối với cá nhân và thiện chí hy sinh để giúp đỡ một cá nhân đặc biệt trong bối cảnh một mối quan hệ đặc thù. Lòng trắc ẩn đối với cá nhân là một yếu tố khá nổi bật trong hành vi luân lý đối với nữ giới hơn là nam giới. Như vậy, vì lý thuyết của Kohlberg quan niệm hành vi luân lý phần lớn căn cứ vào các nguyên tắc về công lý, nên nó không chính xác khi miêu tả tiến trình phát triển nhận thức luân lý khác, có vẻ thiên về của nữ giới. Yếu tố này lý giải được sự kiện khiến cho người ta ngạc nhiên là nữ giới nói chung thường đạt điểm số thấp hơn nam giới trong các trắc nghiệm thẩm định luân lý áp dụng chuỗi các giai đoạn phát triển của Kohlberg.

Đăng bởi anhdo73

Hoạt động can thiệp đa ngành: Tâm lý lâm sàng, Tâm thần, Phục hồi chức năng, Y học cổ truyền

Bình luận về bài viết này