Đây là góc nhìn của các chuyên gia tâm lý lâm sàng. Đoạn viết sau trích từ cuốn sách Tâm lý học bất thường và lâm sàng của tác giả Paul Bennett (2003) với người dịch chính là PGS.TS Nguyễn Sinh Phúc. Cho đến những năm 2015, thầy gần như là một chuyên gia tâm lý duy nhất làm việc trong lĩnh vực lâm sàng nói chung và Tâm thần nói riêng. Cho tới nay, trong các bệnh viện tâm thần, cũng đã có nhiều chuyên gia tâm lý. Tuy nhiên, vị trí việc làm này vẫn chưa thực sự rõ rệt và chưa có tiếng nói chuyên môn sâu sắc. Các chuyên gia tâm lý lâm sàng được đào tạo từ các ngành tâm lý của trường đại học khác, thực sự vẫn thiếu góc nhìn của nhà lâm sàng và việc hợp tác đa ngành rất kém. Vì vậy, tôi rất ngạc nhiên khi sưu tập được tài liệu này, vì góc nhìn rất hiếm hoi cũng như việc nó không được đề cập nhiều trong các hoạt động đa ngành trong nhiều năm qua. Thật tiếc vì thày Phúc đã không thể phát triển góc nhìn này ra một tầm vóc mạnh mẽ, tương xứng với vị trí tất yếu của tâm lý học lâm sàng, đồng thời đẩy mạnh hoạt động đa ngành trong chăm sóc sức khỏe.
Can thiệp tâm lý
Can thiệp nhằm cải thiện tối đa chất lượng cuộc sống và các chức năng tâm lý trong diễn tiến của bệnh. Các nhóm hỗ trợ gồm những người với những vấn đề giống nhau, có thể cải thiện, hỗ trợ các chiến lược đối phó trong những giai đoạn sớm của AD (Yale, 1995). Trong những giai đoạn muộn, thường có 3 cách tiếp cận trị liệu được sử dụng.
Định hướng hiện thực
Định hướng hiện thực (RO – Theo cách gọi của Holden & Woods, 1995) gồm việc trang bị cho người già có dấu hiệu lú lẫn, những thông tin phù hợp, giúp họ hiểu cẩn thận hơn về thế giới xung quanh. Có 2 dạng RO: RO 24 giờ nhằm tạo ra một môi trường với nhiều chỉ dẫn, giúp cá nhân định hướng được thời gian, không gian và bản thân: những chiếc đồng hồ và lịch rất to; các chỉ dẫn nhắc nhở tên gọi của cơ sở hoặc khu điều trị; tên gọi các phù hiệu. v.v. . Sự can thiệp xã hội đối với cá nhân cũng được xây dựng nhằm cung cấp những thông tin thích hợp. “xin chào ngài Jones. Tom ở đây.… Bây giờ bên ngoài khá lạnh, cũng giống như tháng giêng mọi khi…”. Các câu đơn giản đặc hiệu nhắc lại những thông tin trong ngày hoặc dùng để giao tiếp. Lớp RO Gồm những nhóm nhỏ gặp nhau trong khoảng từ 30 – 60 phút. Mặc dù có tên gọi như vậy nhưng buổi học tiến hành ở phòng tiện nghi, có các ghế mềm, với một bầu không khí thư giãn. Lựa chọn người tham gia dựa theo khả năng, các buổi học gồm tranh luận và cung cấp thông tin,thúc đẩy trí nhớ bằng nhiều cách trợ giúp, với các kênh khác nhau, từ báo chí, tranh, cho đến trò chuyện. v.v…
Tổng quan 21 buổi thử nghiệm RO, Holden và Wood (1995) đưa ra kết luận rằng kết quả đạt được tuy nhỏ nhưng rất quan trọng trong định hướng so với những trường hợp không được trị liệu hoặc trị liệu không có thiết kế trước. Dường như kết quả trong những lĩnh vực khác như nhận thức hay kỹ năng hành vi cũng rất khiêm tốn, mặc dù Reever & Ivison (1985) có thông báo rằng, đã đạt được một số tiến bộ về khả năng tự kiềm chế sau khi có sự kết hợp giữa lớp học và RO 24 giờ. Dù có kết quả cuối cùng như thế nào đi chăng nữa thì RO cũng có những khó khăn nhất định đối với những người định áp dụng, cụ thể là đối với những trường hợp cần nhắc nhở cho bệnh nhân, ở những thông tin dễ gây stress. Ví dụ, rất nhiều người bệnh AD đã quên đi cái chết của người bạn đời, và do lũ lẫn họ bắt đầu tìm kiếm, chờ đợi và yêu cầu gặp người đã chết. Theo RO Thì người chăm sóc phải nói cho bệnh nhân rằng, bạn đời của họ đã chết. Và đây lại có thể là tin xấu, gây stress cho bệnh nhân. Rất tiếc là người bệnh sau đó lại quên và tiếp tục hỏi tìm bạn đời, đòi hỏi người chăm sóc phải phủ nhận thông tin rằng bạn đời của họ đã mất. Chu trình như vậy lại tiếp tục gây stress cho cả người bệnh và người chăm sóc.
Trị liệu hiệu lực
Để khắc phục những nhược điểm của RO, Feil (1990) đã đưa ra một dạng trị liệu khác là trị liệu hiệu lực. Trị liệu này bao gồm lắng nghe và chú ý đến tất cả những sự lo sợ của người bệnh. Dành thời gian để hiểu cặn kẽ những vấn đề của họ và làm cho những vấn đề này có hiệu lực bằng cách đánh giá những gì họ cần phải nói. Những cuộc trò chuyện như vậy cần phải tạo cơ hội để xác định và làm thay đổi những niềm tin sai lầm. Tuy nhiên, đây chưa phải là yếu tố cốt lõi của tiếp cận này. Tiêu điểm là tập trung vào nghe và đáp lại các phản ứng cảm xúc hơn là nội dung thực những gì họ nói.
Trong trị liệu nhóm, các nhóm nhỏ có thể được bố trí để thảo luận những cảm giác khi diễn tả như tức giận, cách ly hoặc mất mát (Bleathman & Morton, 1992). Feil (1990) cho rằng bằng cách từ ngữ hóa các trí nhớ và suy nghĩ, và hiệu lực hóa bởi nhóm, các cá nhân có được cảm giác được chấp nhận. Phương pháp này nhấn mạnh đến sự cần thiết phải giải quyết những xung đột chưa được giải quyết. Nó cũng có những thành phần của trị liệu tâm lý động khi trị liệu nhấn mạnh đến sự đồng cảm và chấp nhận quan điểm của cá nhân về thế giới xung quanh và mang lại những khía cạnh nhân văn rõ rệt. Tuy nhiên, cũng chưa có một nghiên cứu nghiêm chỉnh nào nhằm đánh giá hiệu quả của phương pháp. Những gì có được chủ yếu là dựa trên cơ sở phân tích lịch sử trường hợp, không kiểm soát được. Trong một nghiên cứu Feil (1990) thông báo rằng đã hạn chế được những cơn khóc lóc đi lại lộn xộn sau đợt điều trị hiệu lực. Tuy nhiên, không có dữ liệu về hiệu quả bền vững hoặc những lợi ích lớn hơn so với các tiếp cận khác.
Liệu pháp hồi tưởng
Có 3 dạng liệu pháp hồi tưởng (Mc Malion & Phuclick, 1964). Hồi tưởng dạng câu chuyện bao gồm tái hiện những sự kiện dễ chịu. Nhìn lại cuộc đời bao gồm tái hiện và thảo luận chí nhớ cả những sự kiện tốt và xấu, những sự kiện chủ yếu từ ý thức. Cuối cùng là hồi tượng hào quang, bao gồm tập hợp nhiều lần những tình huống gây đau khổ hoặc thất vọng. Nhìn lại cuộc đời và hồi tưởng hào quang được cho là có tác dụng giải quyết xung đột trong quá khứ.
Liệu pháp hồi tưởng dựa trên mô hình phát triển của Erikson (1980) trong đó nhìn lại cuộc đời thường xuất hiện về cuối cuộc đời. Nhìn lại cuộc đời nói chung có thể là tích cực hoặc tiêu cực. Trong liệu pháp cá nhân, nhà trị liệu trợ giúp cá nhân làm sáng tỏ hơn và hiệu quả hơn sự phân tích của bản thân. Trong liệu pháp nhóm, các nhóm nhỏ xem xét cuộc sống của các thành viên thông qua sử dụng những gợi ý như các bức ảnh cũ, các buổi phát thanh hoặc truyền hình v.v… Cũng như đối với liệu pháp hiệu lực, chưa có nhiều nghiên cứu về hiệu quả của liệu pháp hồi tưởng. Những người tham gia chủ yếu thích được tham gia vào nhóm hồi tưởng. Cũng có một số thông báo về gia tăng tự đánh giá cũng như thỏa mãn cuộc sống. Sau khi tham gia vào nhóm (Ví dụ, Kovach, 1990). Tuy nhiên, chưa có nhiều dữ liệu chứng tỏ rằng nó hiệu quả hơn các hoạt động nhóm khác.
Thay đổi hành vi
Mặc dù những cách tiếp cận quan sát được (operant) nhằm thay đổi hành vi ở những người già lú lẫn, tạo ra được sự chú ý nhất định, song chưa có nhiều thông báo về việc sử dụng cũng như hiệu quả của nó. Tuy vậy, những nghiên cứu đã sử dụng quy trình này cho thấy nhìn chung là có hiệu quả. Ví dụ, Burgio và cs. (1988) Đã ứng dụng chương trình nhằm gia tăng việc sử dụng toilet hợp lý và giảm thiểu mức độ không tự chủ. Chương trình này bao gồm việc hỏi thường xuyên, đều đặn, xem các cá nhân có muốn vào toilet hay không và tiếp đó là củng cố việc sử dụng toilet. Chương trình đã đạt được hiệu quả rõ rệt, mặc dù các cá nhân chưa tự mình chủ động dùng toilet. Nhìn chung, các thành viên tham gia chương trình đã biết tăng cường sử dụng hệ thống trợ giúp. Các chương trình khác cùng làm giảm được hành vi lang thang, định hình và tăng tương tác, vận động xã hội (xem Woods & Roth, 1997). Theo Woods & Roth, thành tố cơ bản để đảm bảo cho các quy trình quan sát được đối với người già có thể không phải là phần thưởng cho những hành vi làm đúng. Rất có thể là việc sử dụng hệ thống chỉ dẫn, trợ giúp hành vi đóng vai trò quan trọng hơn.
Một yếu tố rất cần thiết nữa trong việc chăm sóc người già a sút trí tuệ là phải hạn chế đến mức tối thiểu những yêu cầu mang tính nhận thức đối với họ (Woods &Brid, 1999). Khi đối thoại phải dùng những câu ngắn luôn nhắc lại. Có thể dùng thêm những trợ giúp tương thích, ví dụ như tranh ảnh. Tuy nhiên, cũng cần tránh những trợ giúp gây phân tán, chú ý với những thông tin không tương thích. Các trợ giúp cần phải đơn giản và trực tiếp. Ví dụ, một mũi tên chỉ vào hình nhà vệ sinh được dán lên cửa có thể hiệu quả hơn hình một người phụ nữ hay nam giới, như thường thấy. Ngay cả những người sa sút trí tuệ, mức độ vừa và nhẹ cũng cần đến sự trợ giúp như vậy. Bất kỳ một sự trợ giúp nào cũng cần được hướng dẫn và tập luyện để củng cố thông tin của trợ giúp đó. Ví dụ, mỗi lần dẫn người bệnh ra nhà vệ sinh, người chăm sóc có thể nói với họ trong khi đi và chỉ cho họ những chỉ dẫn trợ giúp. Nếu ở nhà phải đảm bảo an toàn ở mức tối đa, ví dụ như thay lò sưởi ga bằng lò sưởi tích nhiệt…
Giúp đỡ những người chăm sóc
Chăm sóc những người bị AD Tại nhà cũng tạo ra rất nhiều căng thẳng cho những người chăm sóc, nhất là khi bản thân họ, thông thường là người già và sức khỏe cũng có hạn chế. Một số hình thức hỗ trợ và giúp đỡ cũng đem lại những lợi ích nhất định. Những sự trợ giúp này có thể do những người tình nguyện, dạng như Hội Alzheimer ở Anh, và những khoảng thời gian ngắn người chăm sóc được nghỉ ngơi khi người bệnh vào viện. Ngoài ra cũng có thể có những hình thức can thiệp khác.
Trong một phân tích gộp với 9 nghiên cứu được thiết kế để trợ giúp những người chăm sóc đối phó với stress, Knight và cs. (1992) đã đi đến kết luận rằng, cả 2 dạng can thiệp nhóm và các nhóm đều làm giảm cảm giác nặng nề và trầm cảm.
Gallagher – Thomson và Steffen (1994) so sánh 2 dạng can thiệp hành vi nhận thức và tâm lý động trong trị liệu những người bị trầm cảm bởi quá trình chăm sóc người thân cao tuổi. Cho đến giai đoạn cuối, cả 2 dạng can thiệp đều có hiệu quả. 71% số trường hợp đã không còn trầm cảm nữa. Tuy nhiên, trị liệu tâm lý động có hiệu quả hơn đối với những người làm công việc chăm sóc trong khoảng thời gian ngắn. Điều này có thể là do đối với những người mới vào vai trò người chăm sóc còn phải khám phá và tìm cách thực hiện vai trò. Đối với những người đã có khoảng thời gian dài làm công việc chăm sóc thì việc luyện tập các kỹ thuật đối phó với stress hàng ngày sẽ có lợi hơn. Cách thứ 2 để giúp những người chăm sóc đối phó với stress là trang bị cho họ những chiến lược, giúp họ quản trị hành vi của người thân một cách hiệu quả hơn. Ví dụ, Pinkston và cs. (1998 đã chỉ ra cách thức mà những người chăm sóc có thể quản trị được nhiều hành vi, trong đó có tự chăm sóc, tự làm hại và đi lang thang. Trên 75% số bệnh nhân có được một số cải thiện về hành vi sau khi những người chăm sóc được tập huấn nhằm làm giảm căng thẳng.