2 phản xạ này được nhắc tới tương đối không rõ ràng. Mô tả sau đây sẽ giúp các nhà lâm sàng hình dung rõ hơn các vận động tinh tế của miệng trong hành vi ăn uống đầu đời này (trích dịch Drumright, David G. Anatomy & physiology for speech, language, and hearing-Plural Publishing 2021)
Khi sinh ra, trẻ sơ sinh bị hạn chế trong các phản ứng kiểu phản xạ. Trẻ sơ sinh nhận được dinh dưỡng thông qua phản xạ cơ bản/ rooting reflex (Glodowski, Thompson, & Martel, 2019), bao gồm việc định hướng theo hướng tiếp xúc xúc giác với vùng miệng (vùng quanh miệng). Phản ứng cơ bản đầy đủ bao gồm cả việc định hướng xoay đầu và mở miệng. Sự tiếp xúc xúc giác mềm mại với mép trong của môi sẽ tạo ra phản xạ mút/ sucking, bao gồm việc thè ra và rụt lưỡi lại giống như pít-tông để chuẩn bị nhận thức ăn từ vú mẹ. Trong 6 tháng đầu đời, phản xạ này được biểu hiện dưới dạng kiểu bú/ suckling, tức là chuyển động giống như pít-tông của lưỡi là chính (Arvedson & Brodsky, 2002). Mô hình này được thay thế bằng hoạt động mút, một quá trình phức tạp hơn, trong đó lưỡi còn vận động nâng lên và hạ xuống, kết hợp với khả năng bịt kín môi mạnh hơn, gây ra áp suất âm hút chất lỏng vào miệng. Sự phát triển này phụ thuộc vào kích thước ngày càng tăng của khoang miệng, cho phép lưỡi chuyển động theo chiều trên-dưới. Mặc dù cả việc bú và mút đều được hỗ trợ bởi chuyển động của hàm dưới, kiểu chuyển động của lưỡi và mức độ ngậm môi là những điểm khác biệt chính. Trải nghiệm bú không dinh dưỡng có được bằng cách sử dụng núm vú giả, giúp trẻ sơ sinh tổ chức hành vi miệng.