Bệnh nhân mắc các bệnh đường hô hấp sẽ hay khó thở ban đêm khi nằm ngủ. Những bệnh nhân này sẽ thức dậy nhiều lần trong đêm và phải ngồi dậy để thở, tăng phản xạ ho.
Một mô tả đầy đủ về vấn đề này trong Oxford textbook of sleep disorders (2017)– trích dịch.
Có sự giảm dần về thông khí phút hô hấp, khoảng 0,5–1,5 L/phút so với lúc tỉnh táo trong giấc ngủ NREM, và 1,6 L/phút trong giấc ngủ REM (với mức giảm lớn nhất là trong giấc ngủ REM pha). Điều này chủ yếu là do thể tích khí lưu thông (Vt) giảm; nhịp thở không giảm, mặc dù hô hấp trở nên không đều trong giấc ngủ REM, đặc biệt là trong giai đoạn REM pha. Sự giảm thể tích khí lưu thông trong giấc ngủ này là do một số yếu tố, chủ yếu trong số đó là tình trạng giảm trương lực của tất cả các cơ hô hấp ngoại trừ cơ hoành (dẫn đến giảm thông khí, giảm trương lực và xẹp các cơ giãn nở đường hô hấp trên dẫn đến tăng sức cản đường hô hấp trên) và giảm độ nhạy hóa học; những điều này rõ ràng hơn trong giấc ngủ REM so với giấc ngủ NREM. Sự giảm thông khí phế nang trong giấc ngủ làm tăng pCO2 thêm 2–8 mmHg, giảm pO2 từ 3–10 mmHg; và giảm độ bão hòa oxy động mạch (SaO2) dưới 2%.
Đặc biệt, những thay đổi liên quan đến giấc ngủ ở đường hô hấp trên đóng một vai trò quan trọng trong cơ chế bệnh sinh của các rối loạn nhịp thở khi ngủ. Khi tỉnh táo, hoạt động của các cơ giãn nở đường hô hấp trên tăng theo phản xạ khi bắt đầu hít vào do áp lực âm trong lồng ngực; đây là cơ chế bảo vệ chống lại sự thu hẹp đường hô hấp trên. Trong giấc ngủ, phản ứng phản xạ này bị kém đi, khiến đường hô hấp trên dễ bị xẹp xuống. Tính nhạy cảm này được tăng cường bởi các tác nhân làm giảm trương lực cơ, bao gồm rượu và các thuốc benzodiazepin, và trở nên trầm trọng hơn khi lão hóa và ở tư thế nằm ngửa. Vai trò của các cơ lưỡi, đặc biệt là cơ cằm lưỡi/ genioglossus và cơ cằm móng/geniohyoid đưa lưỡi ra, trong cơ chế bệnh sinh của OSA (ngừng thở do tắc nghẽn khi ngủ) ngày càng được công nhận. Các bản ghi EMG (điện cơ) đã chứng minh rằng hoạt động của cơ cằm lưỡi giảm nhẹ trong giấc ngủ NREM, nhưng giảm rõ rệt trong giấc ngủ REM [44]. Kết quả là lưỡi bị dịch chuyển về phía thành họng sau, một phần hoặc toàn bộ, so với thành sau họng, sẽ hạn chế luồng khí và góp phần gây ra OSA. Một số phương thức điều trị OSA, bao gồm các thiết bị giữ lưỡi và kích thích dây thần kinh hạ thiệt, trên cơ chế bệnh sinh này.