Nguyên tắc về sự sai của Popper

Theo Popper, cái phân biệt một lý thuyết khoa học với một lý thuyết phi khoa học là nguyên tắc về sự sai. Một lý thuyết khoa học có thể bị bác bỏ. Ngược với điều mà nhiều người tưởng, nếu một quan sát nào phù hợp với một lý thuyết, lý thuyết ấy yếu, chứ không mạnh. Popper dành rất nhiều thời giờ để phê bình các lý thuyết của Freud và Adler chính là vì lý do này. Không có ngoại lệ nào, mọi điều mà một người làm đều có thể được coi như củng cố cho mỗi lý thuyết này. Popper đối chiếu các lý thuyết này với lý thuyết của Einstein, lý thuyết này dự đoán điều gì phải xảy ra hay không xảy ra nếu lý thuyết là đúng. Như thế, không giống các lý thuyết của Freud và Adler, lý thuyết của Einstein có thể bị bác bỏ và vì thế là một lý thuyết khoa học. Popper tóm tắt các quan điểm của ông về lý thuyết khoa học như sau:

  • (1) Đối với hầu hết các lý thuyết, không khó để đạt được sự xác nhận hay kiểm chứng – nếu chúng ta muốn tìm kiếm sự xác nhận.
  • (2) Các sự xác nhận chỉ có giá trị nếu đó là kết quả của những dự đoán mạo hiểm; nghĩa là,nếu chúng ta dự đoán có thể xảy ra một sự kiện trái ngược với lý thuyết ấy – một sự kiện có thể bác bỏ ý kiến ấy.
  • (3) Mọi lý thuyết “tốt” đều là một sự cấm đoán: nó ngăn cấm một số điều không được phép xảy ra. Một lý thuyết càng cấm đoán nhiều, càng là một lý thuyết tốt.
  • (4) Một lý thuyết không có khả năng được chứng minh là sai bởi bất cứ sự kiện nào có thể nghĩ ra được, thì là một lý thuyết phi khoa học. Tính chất không thể bác bỏ không phải là ưu điểm của một lý thuyết (như người ta thường nghĩ) mà là một nhược điểm của nó.
  • (5) Mọi trắc nghiệm chân chính về một lý thuyết là một cố gắng để chứng minh lý thuyết ấy sai, hay để phủ nhận lý thuyết ấy. Tính trắc nghiệm là tính có thể chứng minh lý thuyết sai: một số lý thuyết có khả năng trắc nghiệm nhiều hơn, dễ bị bác bỏ hơn một số lý thuyết khác; có thể nói, chúng có nhiều rủi ro hơn.
  • (6) Chứng cớ xác nhận chỉ có giá trị nếu nó là kết quả của một trắc nghiệm chân chính về lý thuyết; và điều này có nghĩa là nó có thể được coi như một cố gắng nghiêm túc nhằm bác bỏ lý thuyết nhưng không thành công.
  • (7) Một số lý thuyết có khả năng trắc nghiệm chân chính, sau khi bị chứng minh là sai, vẫn còn được chấp nhận bởi những người ngưỡng mộ chúng – ví dụ, bằng việc đưa vào tạm thời một vài giả định phụ thuộc, hay bằng cách tạm thời cắt nghĩa lại lý thuyết sao cho nó tránh được sự bác bỏ. Phương thức này có thể sử dụng, tuy cứu được lý thuyết nó luôn luôn hủy diệt hay ít ra là hạ thấp giá trị khoa học của lý thuyết ấy.

Như thế theo Popper, một lý thuyết muốn là lý thuyết khoa học thì phải làm các dự đoán mạo hiểm, các dự đoán có nguy cơ thực sự là sai. Các lý thuyết mà không đưa ra các dự đoán mạo hiểm hay chỉ giải thích các hiện tượng sau khi chúng đã xảy ra, thì theo Popper, không phải là khoa học. Một vấn đề lớn gặp phải trong nhiều lý thuyết tâm lý học (như của Freud và Adler) là chúng làm công việc hậu đoán (phỏng đoán sau khi các hiện tượng đã xảy ra) thay vì dự đoán trước. Vì các lý thuyết này không mạo hiểm làm các dự đoán trước, nên chúng không gặp nguy cơ bị chứng minh là sai và vì vậy chúng không có tính khoa học.

Theo quan điểm Popper, mọi lý thuyết khoa học cuối cùng sẽ bị chứng minh là sai và được thay thế bằng các lý thuyết đầy đủ hơn; vấn đề chỉ là thời gian. Vì vậy, theo Popper, địa vị cao nhất của một lý thuyết khoa học là ở chỗ nó chưa bị phủ nhận. Khoa học Popper là một sự tìm kiếm không bao giờ kết thúc hầu có các giải pháp hay giải thích ngày càng tốt hơn cho các hiện tượng. Brett đã tóm tắt rất hay điểm trên đây:

Chúng ta có khuynh hướng coi khoa học như là một “tập hợp tri thức” bắt đầu được tích lũy khi con người tìm ra “phương pháp khoa học.” Đây là một quan niệm mê tín. Cái nhìn phù hợp hơn với lịch sử tư tưởng là mô tả khoa học như là các huyền thoại về thế giới mà chưa bị người ta chứng minh là sai.

Phải chăng Popper tin rằng các lý thuyết phi khoa học là vô dụng? Popper nói.

Xét dưới khía cạnh lịch sử, mọi lý thuyết khoa học đều bắt nguồn từ các huyền thoại, và… một huyền thoại có thể chứa đựng trước các khám phá quan trọng của các lý thuyết khoa học…Như thế tôi (cảm thấy) rằng nếu một lý thuyết bị chứng minh là phi khoa học, hay là “siêuhình”… thì điều đó không có nghĩa rằng lý thuyết ấy không quan trọng, hay không đáng kể, hay”vô nghĩa” hay “vô lý”.

Popper dùng nguyên tắc về sự sai để phân biệt giữa lý thuyết khoa học và lý thuyết phi khoa học chứ không phải giữa lý thuyết hữu ích và lý thuyết vô ích. Nhiều lý thuyết trong tâm lý học không thỏa mãn nguyên tắc về sự sai của Popper bởi vì hoặc chúng được phát biểu một cách quá tổng quát khiến cho chúng được xác nhận bởi hầu như mọi quan sát, hoặc chúng làm việc hậu đoán thay vì tiên đoán. Các lý thuyết này thiếu tính nghiêm khắc khoa học nhưng vẫn còn rất ích lợi. Lý thuyết của Freud là một ví dụ.

Đăng bởi anhdo73

Hoạt động can thiệp đa ngành: Tâm lý lâm sàng, Tâm thần, Phục hồi chức năng, Y học cổ truyền

Bình luận về bài viết này