Trí nhớ- như là gốc rễ con người. Nguyễn Ngọc Tư- NXB Phanbook, 2nd, 2020.
tiếng khóc từ trời
Mấy ngày đó, kể cả không bị tiếng khóc của đứa nhỏ giày vò thì bọn tôi cũng đã thảm lắm rồi. Bốn thằng đói. Ngồi đói, nằm đói, thở đói. Giữa những cơn đói là nỗi ân hận không nguôi, ước gì bữa trước đừng trốn trại.
“Trong đó ít ra cũng có miếng ăn”, một thằng nói, tôi không biết cái giọng thều thào kia là của đứa nào. Căn nhà tối, có mỗi cái cửa thì nằm phía đường cái và tụi tôi đâu thể mở toang nó để khoe khoang rằng có một đám tù trốn trại đang ở đây. Lột bỏ bộ đồ sọc dưa vùi dưới đáy mương rồi, không có nghĩa là mấy thằng tôi nhởn nhơ ra dưới mặt trời, nhất là với bộ quần áo đàn bà mà thằng Năm Năm Một mặc trên người trộm được từ sào phơi nhà nào đó. Trời, bà cố tổ cái thằng, ăn hại tới cùng mới chịu.
Cũng vì nó mà bọn tôi bỏ chạy. Lúc đó phân đội chuyển bãi keo lai lên xe đã gần tới đáy và mặt trời sắp rụng xuống phía rừng tràm, hứa hẹn một khoảng thời gian cuối ngày huy hoàng với cuộc gột rửa sình bùn dưới vòi nước mát, bữa cơm chiều, buổi coi truyền hình ở sân chung, giấc ngủ sâu bỏ rơi một cái thây rã rời. Nhưng thằng Năm Năm Một đã làm mọi thứ loạn xà ngầu khi đột nhiên lao đi không một chút ngập ngừng, nước văng sáng lóa trên mỗi bước chân nó. Và tụi còn lại không biết trong cơn mê sảng nào mà cũng tán loạn như một tổ bướm bị động kinh. Không ngoái lại, tụi tôi chạy điên dại càn qua những đám sậy bìa rừng, lội qua con kinh nước đỏ như máu, trườn lên đám rau muống đang cố cản đường, cho tới khi không còn nghe tiếng còi quản trại. Khó mà nhớ nổi tôi đã băng qua bao nhiêu vạt rừng bao nhiêu con mương bao nhiêu đồng sậy, trong lúc ngồi thở với cái buồng phổi cạn hơi, và đôi chân rã rời. Nghe mùi máu lẫn trong bùn sình, nghĩ người mình chắc bị cỏ cây cắt nát. Đếm lại chỉ còn bốn đứa, tụi kia chạy đường khác, hoặc đã bị bắt. Và tôi chỉ muốn chết mẹ cho rồi khi thằng Năm Năm Một thều thào nói nó chỉ đuổi theo một con chim thằng chài. Một con chim xanh biếc, xanh đến nỗi nó tưởng là không thật, nó muốn xác nhận xem mình có bị ảo ảnh không. “Nhưng sao tụi mày lại chạy theo?”, nó hỏi. Năm Năm Một đâu biết nó còn giữ được cái mạng là nhờ tụi tôi còn không thể nhấc nổi tay, dù máu đang sôi réo.
“Tao đuổi theo kêu mày đừng có chạy”, thằng Hiến lên tiếng, giọng mếu đi. Nó kịp nhận ra ngay- bộ óc gian xảo ấy tinh nhảy vô cùng- rằng dù với lý do gì thì giờ quay lại, quản trại cũng không tin. Tới tụi tôi còn không tin nổi cái thằng lòng mắt cá chết này. Buổi lao động nào nó cũng chọn được chỗ dưới bóng mát, đẩy đất thì xe nó nhẹ nhất, còn vác cây thì cây trên vai nó luôn nhỏ hơn cây của tụi tôi. Tính nó đâu phải kiểu xả thân vì ai đó.
Khó mà tin thằng Hiến, bởi chính nó, không ai khác, đã xốc bọn tôi dậy trước khi trời sáng. Nó nói giờ phải tìm quần áo thay cho mấy bộ đồ sọc dưa, sau đó kiếm một chỗ trốn thật an toàn. Một chỗ mà ban quản trại không ngờ tới, nên bọn tôi đã chui vào căn nhà hoang ngay bên con đường ra thị trấn. Còi xe cảnh sát lùng bắt tụi tôi chốc lát lại réo lên, đến không thể đếm nổi có bao nhiêu lượt ngang qua. Trong nhà chất đầy nhựa đường hoặc hắc ín- chúng đen y sì nhau- đựng trong mấy cái phuy rỗng hoặc còn một nửa, đã đông cứng, có thể đoán đây là nơi đội công nhân ở khi phóng con lộ xuyên rừng. Họ đã rời đi, để lại căn nhà nồng nặc mùi dầu hắc đến bưng cả phổi nhưng thằng Hiến nói cũng may, “Bầy chó có thể cũng không đánh hơi nổi mùi tụi mình”.
Nhưng nhựa đường thì không ăn được. Tụi tôi đói xanh mặt. Ngoài mấy cái chảo méo cháy đáy, trong nhà chẳng kiếm ra miếng ăn. Một gói mì tôm bị chuột cắn mất góc không đủ tráng mỏng bụng của bốn thằng, vài chai bia khui nắp từ đời thuở nào lên meo mốc. Tôi tìm thấy một chút mật ong trong lon sữa bò, nhưng đâu thể giữ cho riêng mình. Phía sau nhà cận mé kinh, chỗ tụi tôi cạy vách lòn vô, có một cây chuối buông buồng nhưng chúng còn xanh lắm, nhựa chuối mà bó miệng thì đến ngáp còn không thể, đừng nói nuốt trôi.
Đồ ăn ở ngay bên sườn bọn tôi nhưng xa tận chân trời. Có thể ngửi được bếp của xưởng gỗ gần ngay cạnh nồng nực mùi tỏi cháy. Bọn tôi cũng nghe được bên đó họ tán chuyện đám tù trốn trại mỗi lần xe cảnh sát vút qua.
“Dù vậy tụi mình được tự do”, thằng Năm Năm Một, sau khi nhận thấy mình đã gây ra chuyện động trời gì, đã tìm cách dỗ dành đồng bạn. Những lời kiểu như vậy chỉ làm tụi tôi điên hết người. Tự do con mẹ nó, cả đám đang bị mùi nhựa đường và bóng tối và cơn đói xiết chặt vòng vây. Thằng Hiến than không nghĩ được thứ chi với cái bụng rỗng. Tụi tôi đã đâm đầu vào một cuộc trốn chạy mà chẳng có chút kế hoạch nào. Giờ mà ra ngoài kiếm ăn, có tránh được mắt người thì mùi của bọn tôi cũng sẽ dẫn bầy chó săn tới.
“Tao không muốn vô Hầm”, thằng Ba Sáu Bốn rên lên. Cái thằng nói ít tới mức tôi từng ngờ là nó bị mất lưỡi. Sự không nói khiến nó kín bưng như đá tảng, đến mồ hôi cũng không rịn qua làn da đen cháy dù lao động dưới nắng trưa. Nó mà bật ra thành lời chắc là đang rối lắm.
Chẳng ai muốn đưa thân vào nơi chốn đáng sợ ấy. Nhưng những kẻ trốn chạy bị bắt lại, phải chịu phạt nhốt Hầm bảy ngày đêm. Khi ra khỏi đó, anh ta sẽ ngủ ngồi suốt phần đời còn lại, và cất những tiếng tru dài, chảy nước dãi vào những đêm trăng. Anh ta ăn ít lại, làm lụng gấp đôi mọi người, chong mãi nụ cười dài dại trên môi và mắt đỏ đến lòng đen cũng đỏ.
Tôi từng chịu phạt một đêm ở đó. Không thể tả được có gì trong Hầm, bởi sáng sau, tôi không còn ký ức. Tên tuổi, quê xứ, sao phải vào trại, tôi quên hết thảy, đến cả tên mình cũng không nhớ mảy may. Tôi đơn giản chỉ là thằng Hai Tám Không trên răng dưới móng. Chuyện đó làm tôi tan nát, nhất là những ngày đội nắng lửa đi khai thác gỗ, gánh cát đắp sân bóng, tôi không biết mình đang phải trả giá cho tội lỗi gì, và nên sám hối cho thứ chi.
Trong bốn đứa tôi, chỉ thằng Hiến chưa phải qua đêm ở Hầm. Nó quá ma lanh để mắc lỗi. Tôi ngờ bộ não nó còn linh lợi, bởi còn ký ức. Thứ đó khiến con người ra con người. Ít nhất thì nó biết miền rừng này luôn được bao bọc bởi những con sông, và nếu tụi tôi có thể tới sông, sẽ nhiều cơ hội thoát. Tụi tôi có thể bám dưới lườn ghe hàng bông, dùng ống nhựa để thở khi lặn xuống lúc ngang qua trạm kiểm soát. Tụi tôi có thể núp dưới những giề lục bình trôi.
“Vụ đó tao coi trong phim, hồi nhỏ”, thằng Hiến nói. Giọng nó không có ý khoe khoang, nhưng khiến mấy đứa còn lại chạnh lòng. Có thể bọn tôi đã coi hàng trăm bộ phim, biết hàng chục cách để khỏi bị bắt, bởi vì mọi thứ đã bị xóa trắng, nên chẳng khác mấy đống thịt thiu. Giờ thằng Hiến là bộ não của cả bọn. Nó nói phải nằm đợi thêm, bao giờ cuộc vây ráp bớt căng thì bọn tôi có thể quét dầu hắc lên người ra ngoài kiếm miếng ăn, và tìm đường ra sông lớn.
Cái gọi là kế hoạch thật nghèo nàn. Nhưng rồi nó cũng nát bét khi tiếng khóc của đứa trẻ đã mở toang cánh cửa thiếc trước nhà. Một chị đàn bà hiện ra, ánh sáng viền quanh người chị, và cái gói ngo ngoe chị bồng trên tay thì ré lên như còi quản trại. Bọn tôi đã bị đứa nhỏ bắt gọn.
Tôi nhớ khi ấy chị đã bỏ đi khi thấy bọn tôi đang chới với lặn trốn ánh sáng bất ngờ, nhưng chị quay lại với khúc cây trên tay trái, khi thằng Năm Năm Một còn chưa kịp khép cửa.
“Voi hay chó sói?”, chị ta hỏi. Một câu hỏi khiến người ta bối rối. Từ mất ký ức, mỗi khi lao động ngoài trời, tôi chọn chỗ gần một lão tù già kể chuyện thần sầu, mong lấy mớ chuyện trên trời dưới biển kia lấp vào bộ nhớ trống không. Ông già có một kho từ ngữ hay ho, tôi nhai nuốt bằng hết. Tôi không bỏ sót buổi coi truyền hình nào ở phòng sinh hoạt chung, với hy vọng tìm thấy thứ gì đó thắp lại gian đầu tăm tối. Và tôi đủ tự tin để nói rằng mình không phải chó sói hay voi.
“Chuột. Tụi tôi là chuột”, thằng Hiến lên tiếng đằng sau phuy nhựa. Không nhận ra nó lẩn vào đó khi nào. “Sao không nhận là voi cho chị ta ớn chơi?”, Năm Năm Một thì thào.
“Rồi bà khùng này đi khắp chợ kêu có bốn con voi đang trốn ở đây”, Hiến nghiến răng. Giây phút đó, tôi ghen với bộ não tinh vi của nó. Trong tôi chỉ thuần một ý nghĩ mình không phải voi, bởi voi thì không bao giờ quên gì trong cuộc đời chúng. Nhìn một lần, là nhớ đến chết thôi. Tivi nói vậy.
“Chuột ăn thịt con tao?”, vẫn tay vẫn lăm lăm khúc củi, chị ta hỏi mà vẫn không phun đuôi tóc trong miệng ra.
“Làm gì có. Chuột chỉ ăn gạo”.
Tới đây, chắc bạn cho là tôi xạo. Bốn thằng tù nhân sức vóc sao phải sợ một chị đàn bà đã loạn trí còn phải mang đứa nhỏ trên tay? Cả hai má con họ cộng lại, không bằng nửa người. Bọn tôi có thể thủ tiêu má con họ gọn như phủi bụi. Nhưng đó là khi bọn tôi không mất sức chạy hàng mấy chục cây số trong rừng, bụng không trống rỗng từ đêm trước. Thú tính trong bọn tôi bị bỏ đói nhũn ra và lúc đó chị Khùng bước tới, rải nắm gạo trước mặt thằng Hiến. Ngay lập tức, bọn tôi nhìn thấy cơ hội sống còn.
“Chuột cũng thích mì tôm”, con chuột tinh ranh nhất ngượng ngùng nói.
Chị Khùng không có mì tôm, chị quăng cho tụi tôi ổ bánh mì xé nhỏ. Chị nghĩ chuột thì không có khả năng ăn miếng lớn hơn. Không sao hết, ít nhất thì ruột tôi bớt réo xôi. Hoặc chúng vẫn réo đó thôi, nhưng bị át đi bởi tiếng khóc của đứa con chị Khùng. Lúc đó, tôi nghĩ nó chỉ làm trò khóc lóc giây lát. Nhưng rồi khi thấy nó bú mà vẫn không ngừng rên rỉ, tôi ngờ đứa trẻ này không bao giờ nín.
Phải tới ngày hôm sau thì tôi mới nhận ra mình đang ở trong cuộc tra tấn. Đứa nhỏ khóc không ngơi một giây phút nào. Bọn tôi bị mài mòn, ruột teo lại mỗi lần nó vào cơn khóc ngất. Bạn biết khóc ngất là sao rồi đó, quãng lặng giữa hai tiếng khóc khiến ta tưởng nó đã chịu nín, hoặc đứa bé chết ngắc rồi. Đó là khoảnh khắc của lửa thiêu, vậy mà nó cứ lặp đi lặp lại, khiến tôi cảm thấy mình như một nắm tro. Chỉ chị Khùng là tỉnh trân, hoặc chị cũng rối lòng nhưng không thể làm gì ngoài cắn tóc, hát mấy câu vô nghĩa, hoặc gầm gừ khi nghe tiếng động trước nhà. Bọn tôi thì đúng phận chuột, nép mình trong góc, đằng sau mấy cái phuy nhựa đường, căng người nghe ngóng, bởi cánh cửa kia bất cứ ai cũng có thể xô vào.
Nhưng không nhiều người ghé qua. Người bên xưởng cưa chừng như cũng quen mặt chị Khùng. Ai đó ló đầu vô và thở dài khóc kiểu này mất nước mà chết. Một bà già bán bánh cam sốt ruột hỏi có khi nào đứa nhỏ đau bụng gió không. Con nhỏ đem cơm cho chị Khùng tới ngày hai buổi, thì luôn dừng ngoài cửa. Qua khe vách tôi thấy gương mặt con nhỏ mang nét kinh hoàng. Tôi ngờ là nó bị tiếng khóc bên trong tấn công.
“Đừng có về nhà, khóc vậy ai chịu nổi”, con nhỏ nói, trong lúc lấy chân đẩy cái cà mên cơm vào trong. Mỗi khi con nhỏ tới là chị Khùng lại lên cơn thù nghịch, tay lăm lăm khúc củi, tay kia ôm ghì đứa nhỏ gầm gừ nói mày ăn thịt con tao. Phụ với bà mẹ, đứa trẻ khóc thét lên, chói đến nỗi con nhỏ dội ra, bỏ đi một nước.
Kêu đem quăng đống rác cho rồi mà cãi. Má nhức đầu chưa hết. Con nít khóc vầy trước sau gì cũng chết, nuôi uổng công. Lấy mấy câu không đầu cuối của con nhỏ đem cơm mà chắp vá lại, bọn tôi đoán đứa bé đã khóc bay nóc gia nào đó, trước khi dời tới căn nhà hoang này. Chị Khùng không thỏa hiệp với họ, cố giữ đứa nhỏ. Người nhà chị đã thấm đòn. Tự dưng tôi cảm thấy thương đứa con gái nọ. Tôi biết nó phải chịu đựng gì.
“Tao không ngủ nổi”, thằng Hiến tuyệt vọng. Tôi không biết việc nó còn cái đuôi ký ức thì có khốn khổ hơn mình không. Nửa đời thằng Hiến chắc phải trải qua hoặc nghe nhiều tiếng khóc khác nhau, không rõ chúng có nhân dịp này kéo về giày vò nó. Hay tiếng khóc của đứa nhỏ chan đều thống khổ cho mỗi người. Thấy rõ là thằng Ba Sáu Bốn tã ra, tảng đá kín bưng đó bị nung vôi. Nó nói phải bóp chết đứa nhỏ, mới sống qua con trăng này.
Tôi cũng không nghĩ ra cách nào khác ít tàn ác hơn. Đứa nhỏ mắt nhắm nghiền, rõ ràng là nó ngủ, nhưng khóc thì quyết không ngưng. Chỉ âm thanh dịu bớt, thuần nỉ non như cục than vùi dưới tro, ngó thiu thiu vậy bỗng bùng cháy bất cứ lúc nào. Tivi nói người ta chỉ chịu được âm nhạc mở lớn khoảng bốn mươi tám giờ, nhưng đây là tiếng khóc, là cứa chậm là chọc vào từ từ là siết chặt sợi dây thòng lọng. Đứa nhỏ rõ ràng bụ bẫm khỏe mạnh, có thể nghe tiếng của nó đầy độ vang, buồng phổi nó phải nở nang lắm, và vòm họng thì rộng. Đợi cái chết tự nhiên của kẻ phát ra tiếng khóc đọa đày, bọn tôi không đợi nổi.
Đứa nhỏ chắc chừng đầy tháng tuổi, thằng Hiến đoán. Hiến có một đứa con, bữa nó vô trại thì thằng nhỏ chập chững học đi. Tin tức gần nhất, con nó theo mẹ đi lên miệt Trảng Cò nuôi vịt chạy đồng.
“Con tao thơm như cơm nóng. Ít khóc lắm”, Hiến nói. Con nít là một đề tài gây bối rối, với tôi. Mọi kinh nghiệm của tôi về trẻ nít, đã bị Hầm xóa sạch. Tụi nhỏ con mấy chị bếp thì mẹ chúng giữ rịt, tránh bọn tôi như tránh hủi. Tivi không thèm phát phim khoa học về con nít và sự trưởng thành của chúng. Tôi từng tin mình có ít nhất một chục đứa con đang chờ cha ở quê nhà. Nhưng giờ tôi nghĩ mình chẳng nên có đứa con nào khi chứng kiến sinh linh gói trong tấm khăn kia gào khóc. Tôi ước mình có một trải nghiệm ngọt ngào về con nít, nhưng không may, đứa nhỏ con chị Khùng là tất cả những gì tôi biết. Mềm oặt, bú nứt bụng rồi trớ ra, ỉa cứt chua, đái bổng cầu vồng và khóc như mười bảy kiếp luân hồi rồi chưa được khóc.
Chị Khùng cũng biết đứa nhỏ bất thường. Chị bứt mấy thứ cây cỏ không tên về, vỏ nát đắp lên bụng nó. Đôi lúc chị dốc ngược đứa nhỏ xuống, như trút cạn tiếng khóc ra. Chị liếm lên đôi mắt ướt ròng của nó. Nhưng đứa nhỏ vẫn khóc cho mấy chục kiếp bị bỏ lỡ. Chị lại nhai tóc. Ngoài nhai tóc và thỉnh thoảng móc những cọng chiếu rách trên cái sàn ghép bằng ba lết, chị trông giống như những người đàn bà bình thường. Sạch sẽ, tươm tất.
Và tanh sữa. Thứ mùi đó mạnh đến mức có thể tranh chấp và đôi lúc còn lấn át mùi nhựa đường. Thằng Hiến nói đàn bà sinh xong, người ta nghiền men nấu rượu với nước, đắp cái hỗn hợp sền sệt lên bầu vú kiêu căng kia, rồi đốt một nắm nhang lên, hong hơ cho sữa chín.
“Phải làm vậy sữa mới thơm”, thằng Hiến lại tê mê chìm vào ký ức, “con tao thơm như khoai nóng”.
Lúc đó bọn tôi, ý tôi là mấy đứa từng bị phạt Hầm, không nhận ra thằng Hiến nói quá nhiều. Cho dù là một con chuột, nhưng chí choé quá cũng không nên. Nó nói về căn nhà cất trên nửa đất thịt nửa sàn cắm bên một mé sông nhiều bần và đom đóm. Con nó ngồi trong thau nhựa nổi trên mặt nước, nó kéo theo lúc đi giăng lưới cá rô. Con nó cười rất giòn. Con nó thơm mùi tinh bột, của gạo, của khoai của những trái bắp non. Con nó không khóc.
Vào đêm thằng Hiến biến mất, đứa nhỏ khóc thê lương. Gần sáng mấy thằng tôi không thấy bộ não của mình đâu nữa. Không biết nó lách ra cửa trước hay chuồi qua vách sau. Cũng không biết nó bỏ đi đâu, có bị bắt không hay đã ra tới sông. Thằng Năm Năm Một nói dù đi đâu thì cũng khỏe lỗ tai rồi, khỏi nghe con nít khóc. Tôi nghe trong giọng nó đầy bất chấp, kiểu bị bắt cũng được chỉ cần thoát khỏi đây, đoán nó sẽ sớm bỏ đi.
“Phải bóp chết đứa nhỏ, mới sống nổi”, Ba Sáu Bốn nằm ngửa ngó trần nhà, ở lời của chính mình ra, nhai lại. Đêm thứ năm kể từ khi trốn trại, chỉ còn nó và tôi.
Vài lần bọn tôi táo tợn tới gần bộ vạc chỗ mẹ con chị Khùng ngồi. Nhưng rồi hai đứa dạt đi, khi chị vụt liệng một vài miếng bánh ra tận chân mấy cái phuy, bày tỏ thái độ rõ ràng rằng đừng có tới gần. Đĩnh đạc như một bà chủ thật sự, buổi đầu tiên tới chị săm săm lại kéo một tấm ván, nhà tắm bất ngờ mở ra. Chị biết có tấm mền trong cái thùng bên dưới bếp. Đôi lúc thấy chị dạng chân trên bộ vạc và thở dài, tự dưng tôi nghi cha đứa nhỏ là một trong đám công nhân làm đường. Cái thằng khốn đó không biết nó có hay đã tạo ra một sinh linh đáng sợ.
Bọn tôi không có cơ hội chạm vào đứa nhỏ. Mỗi khi đi ra ngoài kiếm bánh mì cho hai con chuột, chị luôn bồng con theo. Chị không ngủ, tôi nghĩ người điên chắc không cần ngủ. Bởi chị không suy sụp vì điều đó. Nhìn vào thần sắc chị thì rõ, và ánh mắt nữa, chị ngó bọn tôi thuần là của người nhìn vào những giống loài thấp kém. Thờ ơ, bao dung, coi thường, xa cách. Kiểu nhìn khiến bọn tôi giận điên và tủi nhục muốn chết, cùng lúc.
Không có thằng Hiến để dựa vào, tôi nghĩ tự mình phải tìm cách thoát khỏi cái buồng giam dày bịt tiếng khóc này.
“Phải kiếm thuốc thì con chị mới nín được”.
“Mưa trắng hơn trăng trắng”.
“Nghe nói tim của Thánh sống trị bá bịnh”.
“Nắng ngọt tới xương bà nội con chuồn chuồn”.
Khi ấy chị Khùng không tỏ chút gì để ý. Nhưng lối đối đáp vô nghĩa của chị khiến tôi tức cười, nguôi ngoai phần nào cơn chết mòn bởi tiếng khóc đứa nhỏ. Thì thầm thêu dệt mãi về trái tim chữa lành của một người ở miệt Vạn Thủy, chủ nhân của một cù lao đầy vàng, tôi không nhận ra câu chuyện mà mình nghĩ là bịa đặt lại có thật, và tôi từng giết hụt hắn ta.
Sau này, khi ngồi phơi thuốc nam trong sân một cái am trên núi, tình cờ nghe khách đưa chuyện với nhau, rằng có người đàn bà mang theo đứa nhỏ vượt ngàn cây số bứt trái tim Đức Ngài ở miệt cù lao về làm thuốc, tôi nghĩ ngay là chị Khùng. Là chị, không ai khác. Sạch và tươm tất và tanh sữa như mọi bà mẹ trên đời, ẵm theo đứa nhỏ mềm mại như bao đứa trẻ. Chỉ khác là nó khóc, và bà mẹ nhai tóc. Mớ tóc dày và dài, giờ có khi không còn sợi nào, bởi mỗi lần đứa nhỏ khóc ngất là chị lại bứt chúng đi, từng sợi từng sợi.
Đó là người duy nhất tôi có tin tức, từ khi thôi làm chuột, rời khỏi căn nhà chát đặc nồng nặc tiếng khóc trẻ con.