biên sử nước- chương 9

Chỉ còn 26 ngày nữa là hết năm Ruồi thứ nhất, Cẩm ôm con bỏ tôi đi. Bữa trước đó lúc xé lịch tôi đã đếm còn bao nhiêu tờ hết thảy, nói năm sau chắc mù mịt tháng ngày khi đám ruồi lạ vẫn tụ tập ngoài kia. Thế giới rã rời từ tụi nó phát điên, một cuốn lịch cho năm mới thật xa vời. Cẩm không nói gì, nhìn ra cửa sổ. Sao khi ấy tôi chẳng nhận ra cổ ngày càng hay ngó ra cửa sổ. Không có gì ngoài đó, thế giới chỉ ruồi và cứt ruồi. Những cây chuông vàng hôm Cẩm tới vẫn còn chút cành (cổ nói cái cây này số cực, mùa nào cũng phải ra bông) giờ bị ruồi ăn trụi tới rễ. Cả mỡ vỏ nhựa bọc bó dây điện thoại rối nùi kia bọn ruồi đói còn gặm trơ lõi đồng. 

Tôi ân hận, sao không nhận thấy ý định ra đi của Cẩm trong suốt ngày hôm đó. Cô ăn nhiều hơn, gần một phần ba cuốn Nắng tháng 8, cũng phải gần hai trăm trang đặc chữ. Cổ không lựa mấy chữ đẹp để riêng ra như mọi bữa. Đầu vú cô lạnh. Lúc tôi ngủ quên bên thằng Nấm, Cẩm biến mất trong mấy phòng kho. Cổ đi tìm cái mặt nạ đồ chơi cùng mớ bao tải, hết thảy chúng và cả thùng rác vẫn còn úp ngược nơi cửa sau giúp cô biến mất. Những anh chồng trần gian đều mắc chung một sai lầm, là không chịu đốt cha cánh tiên đi. Đốt thành tro thì kiểu gì vợ cũng không thể bay về trời. 

Tôi không chút phòng hờ, bởi tụi tôi đang sống quá tốt trong cái thư viện bị ruồng bỏ này. Không phải làm lụng kiếm miếng ăn, không bị gò bó bởi những giới luật, không nơm nớp nhìn trời đất. Ngoài kia loạn lạc, với bọn ruồi mê máu, thức ăn cạn kiệt, mùng lưới, Paracetamol đắt hơn vàng. Nhưng tụi tôi cách chỗ đó phải tới một ngàn năm ánh sáng chớ không phải chỉ một bức vách thôi, trong cái thiên đường này mùa vàng son thứ nhất. Chừng nào còn không khí thấm qua những khe cửa hẹp, còn nước sạch trong vòi thì tụi tôi còn sống khỏe. Khối sách báo trong thư viện với số chữ không đếm nổi sẽ nuôi sống tụi tôi ngoài chục năm nữa. 

Tụi tôi ăn chữ. Xin bạn đừng có tầm thường như những người tôi từng biết, họ hoặc nhìn tôi như kẻ điên hoặc dán vào tôi cái nhìn ngờ vực, nghĩ ăn chữ chắc có ám chỉ gì. Nhưng ăn chữ chẳng mang tầng nghĩa ngầm nào khác. Nó đơn thuần như bạn ăn cơm. Nghĩa là nhai nuốt bằng răng, tận hưởng hương vị qua gai lưỡi, và tiêu hóa chúng trong dạ dày, thấm hút chất dưỡng vào thành ruột. Ở ngoài kia có nhiều người ăn chữ kiểu như tôi, chỉ là chúng ta không biết đó thôi. 

Tôi cũng tưởng mình dị biệt cho tới khi Cẩm giạt tới đây. Lúc đó ruồi lạ đã chiếm đóng vũ trụ hơn nửa năm, và tôi đôi khi nhớ con người. Những lúc ấy tôi đứng ở cửa sổ phòng đọc sau tấm kính chi chít cứt ruồi, ngóng ra đường tìm một vài chiếc xe hơi ngang qua, nhìn nửa bên mặt của ai đó. Nửa trái hay nửa phải tùy theo chiếc xe đang đi về phía nào. Người giàu luôn ổn trong mọi hoàn cảnh, họ vẫn có thể đi lại trong thành phố vào ban ngày mà đám ruồi không thể tấn công. Thỉnh thoảng có đôi ba chiếc xe vào sân thư viện để quay đầu, tôi được nhìn trọn một vài gương mặt. Việc điều khiển chiếc xe kềnh càng khiến họ căng thẳng, và một ông trung niên cau có là gương mặt cuối cùng tôi nhìn thấy, trước khi Cẩm chui ra khỏi cái thùng rác úp ngược ngay bên cửa sổ, ngước nhìn tôi. Bồng trên tay một tiếng khóc xanh yếu, cổ mệt lả vì đội thùng di chuyển suốt đêm. Chỉ buổi đêm vòng vây của đám ruồi độc địa mới nới lỏng. 

Cẩm không có xe hơi, cô trôi tới chỗ tôi bằng thùng rác. Cũng không dễ dàng, chẳng may bị giặc ruồi phát hiện, cổ sẽ thụp cái thùng xuống trốn biệt trong đó, chờ chúng sơ hở lại lần đi. Đứa con cô được gói trong nhiều lớp khăn, và khóc hết ra hơi sau chiếc mặt nạ Hanuman. Tiếng khóc làm tôi có chút dao động, ngó cái cửa. Tôi từng mở nó một lần vào đầu mùa dịch cho cặp tình nhân nghiện ngập và chúng thiếu chút nữa mần thịt tôi vì đói thuốc. Chuyện đó xảy ra lúc người ta còn bối rối khi thế giới của họ bỗng chốc đổi ngôi nhưng giờ mọi người đã biết cách sống với đám ruồi. Như Cẩm. Khoét một cái khung nhỏ để nhìn đường, bó chân mình trong nhiều lớp vải bố dày, ruồi khó hút máu cô lúc đưa chân bước. 

Sau này Cẩm kể cô không mục đích nào, chỉ đi vậy thôi, “hơn ngồi một chỗ chờ chết”. Cô nói chỉ khi phát hiện tôi đánh răng bên kia vách kính mới nhìn thấy hy vọng. 

“Trong này không có gì ăn đâu”, tôi khoát tay làm một cử chỉ xua đuổi, cố kháng cự lại tiếng khóc đứa nhỏ đuối dần. 

“Vậy anh sống bằng không khí chắc?” 

“Tôi ăn chữ.” 

“Tôi cũng vậy.” 

Cô nói như không, tôi chẳng thấy vẻ dối trá, hay sửng sốt trong giọng nói trong đôi mắt chớp mở. Cách người đàn bà bảo mình ăn chữ quá sức tự nhiên, chừng như không phải nghĩ gì. Và tôi lay cái chốt cửa gỉ sét ra hoàn toàn bởi tò mò, người này cũng ăn chữ như tôi sao, là thật sao? Lúc đó tôi không nghĩ cô là đàn bà với vòm háng ấm, đôi đầu vú nhỏ, búi mông cứng. 

Tòa nhà có thêm người vẫn rộng. Cẩm dẫn dắt tôi ngay khi mới bước vào, như thể cổ mới là chủ nhà. Cổ không bao giờ hỏi “Bữa nay ăn gì?” như vợ tôi hỏi mỗi đầu ngày hồi còn sống chung. Tôi nhớ câu kinh điển của mình là “Gì cũng được”, và vợ nổi điên, nói nghĩ chút về miếng ăn cũng làm biếng. Giả vờ háo hức với cơm canh mãi cũng có lúc quên, tôi cứ ừ hữ cho qua bữa. Nửa đêm tôi thường đói. Nửa đêm tôi lẻn ra ngoài, lấy một cuốn sách đãi mình bằng bữa tiệc chữ huy hoàng. Không thể nhận mặt chúng trong bóng tối, tôi cứ âm thầm đoán chữ qua mùi vị. Một bữa vợ bắt gặp tôi ngồi trong xó tối nhai nửa trang của cuốn Bạch Lộc Nguyên

“Tôi sao sống được với người ăn giấy”, vợ tôi nói, bứt quần áo treo trên sào vào va li. 

“Thì thiên hạ cũng ăn kiến ăn trùn, đằng này chỉ chữ thôi mà”, tôi tuyệt vọng níu kéo, dẫu biết đã kết thúc rồi khi nhìn thấy cổ ói thốc tháo trong buồng. 

Năm tôi mười bảy tuổi, khi phát hiện ra mình có thể ăn sách báo thay cơm tôi cũng nghi biết đâu cơ thể mình chỉ cần bột giấy. Hoặc dầu khoáng trong mực in. Nhưng mấy tờ giấy trống trơn tôi ăn sau đó nó nhạt nhẽo không ra hương vị nào, còn mực thì phải nói không nuốt nổi. Không phải là tôi chưa từng trộn hai thứ đó nếm thử trước khi tin chắc mình chỉ khoái khẩu chữ trên giấy thôi. Nhưng với vợ tôi, thứ nào cũng mông muội như nhau. 

Tôi nói, “Nếu phải đi thì để anh”. Cuộc chia tay chóng vánh, tôi không có nhiều thứ để dọn theo mình. Tiếng móc khóa tra vào ổ gọn đanh- một cái ổ khóa mới tinh và vợ tôi giữ tất cả chìa- thay cho lời từ biệt. 

Cẩm nghe chuyện hôn nhân đổ vỡ của tôi, cười, “Giờ có nên chừa chữ “vợ cũ” ra không, cắn mẻ răng là cái chắc”. Cô không hé chút gì về mình, về cha của thằng Nấm. Căn cước, quá khứ cô dấu trong cái trán dồ quá cỡ khiến cho gương mặt gãy cụp ngay chỗ mắt. Một gương mặt kín bưng, cả khi cơ thể cô mở ra trước tôi. Không sao cả, còn cả ngày rộng tháng dài phía trước cho tôi đi vào tận cùng cổ, bên trong cái thế giới mà bọn ruồi lạ không gây được một chút ảnh hưởng nào. 

Bữa công ty giải tán tôi quảy ba lô tới thẳng tòa nhà này dưới một bầu trời âm u đầy ruồi. Lần nào đó ống nước của thư viện vỡ, đội tôi từng đến sửa. Có một cánh cửa khá lỏng lẻo dẫn ra phía sau nhà cạnh máy bơm. Quá dễ để phá nó với xà beng và búa, tôi chiếm tòa nhà không chút tối mồ hôi. Chẳng còn ai ở đó, y như tôi đoán, họ đã bỏ sách vở lại thoát thân. Một nơi chốn như vầy luôn bị bỏ rơi khi loạn lạc. Ai cần sách vở trong buổi này. Trong văn phòng, tôi đọc bảng lương, cố nhớ tên chị thủ thư không bao giờ cười mà tôi từng gặp. Có thể chị phát hiện ra một số chữ trong mớ sách tôi trả bị mất hoặc do tôi hỏi, hoặc không cười là phong cách chung của những thủ thư. Giờ ngó vào sổ tiền lương ít ỏi các chị nhận được, tôi nhẹ người nghĩ biết đâu mình chẳng phải là nguyên cớ. 

Có mười sáu phòng cả thảy, ở ba tầng. Cảm giác độc chiếm tòa nhà khiến tôi ngây ngất. Tôi ngồi lên ghế da của giám đốc và phởn phơ xoay đến tưởng vách đảo tròn. Tôi đóng dấu đỏ lên mọi giấy tờ sách vở trong tầm tay. Tôi ký loạn xạ những chữ ký không giống nhau. Tôi mở toang mọi cánh cửa mà mình nhìn thấy. Nghĩ chữ ở đây đủ cho mình ăn phải hai mươi năm, sau khi lục lọi đã đời. Ngoài kia loa phóng thanh ra rả nhắc người dân hãy ở trong nhà đóng kín cửa, nghe như gần như xa như ở một thế giới tôi không còn thuộc về. Văn phòng có tivi, tôi thường mở coi tin tức, cảm giác mình đang hóng chuyện sao Hỏa. Rồi cáp đứt, cơn mưa dày không dứt trên màn hình cắt lìa tôi với cuộc tận thế ngoài kia. Bản tin cuối cùng tôi coi, lãnh đạo trút lỗi cho nhau về nguồn gốc đám ruồi, một vị tiến sĩ cho hay “đây là một cơ hội cho con người” trước hiện tượng ruồi quay ra cắn xé nhau vì kiệt thức ăn, cảnh sát loan báo khi mổ xẻ một số ruồi phát hiện có chip điện tử, và cuộc tháo chạy về dãy núi Trời vẫn chưa chịu ngừng dù các nhà khoa học cảnh báo tin đồn ruồi lạ không thể sống trên cao là vô căn cứ. Trong cảnh quay thoáng chốc, tôi thấy một đồng nghiệp trong đội sửa ống nước của tôi, chính nó, ghì thiết bị nghe nước rò rỉ vào vai, ngửa cổ lên trời lấy khí thở, lún trong đám đông xô đẩy. Máy quay từ trên cao, hình ảnh bị đường bay của ruồi xước nát. Không biết thằng bạn nghĩ gì khi vẫn mang đồ nghề theo, chắc nó hy vọng lên núi Trời tiếp tục sống bằng nghề nghe nước. Bữa nhậu chia tay nó bắt một con ruồi nhai sống, nói dù sao đây cũng ruồi, và chúng ta là người. Nó không chịu nhận thua khi mất việc, trốn chui nhủi trong nhà nghe con khóc trong tiếng cạo cơm cháy. Không biết bây giờ nó đã chịu chưa, tôi tự hỏi trong lúc ăn tới những trang cuối cùng của cuốn Mười ngày

Hồi đó tôi ăn đơn giản. Từ Cẩm tới, tôi đắm chìm vào tiệc tùng. Cẩm sành ăn, nên những bữa ăn luôn dài, cô không chịu kiểu cứ lấy một cuốn sách nào đó rồi nhấm hết trang này đến trang khác. Giao thằng Nấm cho tôi bồng, Cẩm lượn vòng quanh mấy kệ sách, trừ kệ chính trị. Mỗi chỗ Cẩm chỉ lấy một ít chữ. Nếu mấy câu thơ tình hơi nát nhão, thì mới chữ bóc trong tập tiểu luận giúp tụi tôi vừa miệng. Cuối buổi luôn có năm ba chữ Cẩm nắn nót cắt từ những trang sách chỉ in một mặt. Chúng hiếm, thuần chất, nguyên vị. Bạn biết đó, một trang sách in thường là hai mặt, chữ của hai mặt giấy buộc trộn lẫn nhau. Ăn chữ nắng non thơm mùi rau kinh giới vừa ráo sương mai của trang 23, nhưng biết đâu, dính ngay phía sau nó, ở trang 24 là chữ cứt, không chừng. Mặc dù người ta chẳng dụng chữ đó nhiều, chắc vì mỹ cảm, nhưng không phải là không có. 

Chữ quá đẹp. Cẩm kêu không nỡ ăn, tỉ mỉ rọc ra, để vào một ngăn tủ. Những thứ kiểu như ánh trăng loang chầm chậm và êm ái trên cánh đồng còn vướng vất những đợt ánh sáng mơ hồ của ngày hay những quả táo lịm trong bóng tối khiến gương mặt gãy bởi cái trán dồ của Cẩm chừng như phẳng lại. Mấy lúc như vậy tôi thèm cổ đến cứng mình. 

“Người viết ra cái thênh thả này, chắc bàn tay đẹp lắm”, Cẩm nói, mặt phủ vẻ đơn thuần, thơ ngây như một bé gái mười ba tin rằng hết thảy hoàng tử trên đời đều ở tuổi đôi mươi và luôn đi ngựa trắng. 

Tôi nhớ trong những bạn nhậu của ông già, có một nhà thơ tỉnh lẻ, ông khô và vàng khè. Tò mò không biết chữ ông có vàng không, như máu rỉ ra từ miệng ông cũng vàng bởi khối u gan vào những ngày cuối đời, tôi đã tìm sách ông trong những ngày đầu vào thư viện. Nhưng không có cuốn sách nào mang tên nhà thơ quá cố. Tôi thấy tiếc, phải sinh thời ông bớt bầy bạn chút, chỉ viết thôi, viết ra mọi ý nghĩ mà ông bắt được thì sẽ có chút chữ để lại đời. 

Cẩm nghe tôi nói vậy, lại cười, “Chữ cũng có năm ba đường chữ, vô vị quá khỏi viết ra cũng được”. Có lần cổ lấy một cuốn sách, bảo mình cứ chọn ăn những chữ thừa không quan trọng thử coi. Nghĩa là nếu chúng mất đi, cũng chẳng ảnh hưởng gì tới câu chuyện. Rốt cuộc cuốn sách chỉ còn lại không tới một trăm chữ, Cẩm nói mình đã bỏ bụng một đống thứ chẳng bổ béo gì. Nhưng vớ cuốn Ông thị trưởng ở Furnes thì đúng là chẳng ăn được chữ nào, hình dung ông tác giả chắc giằng co cân nhắc từng dấu chấm. 

Mặc kệ ngoài kia vẫn đang tổn thương, không chấp nhận chuyện thế giới sụp đổ bởi một sinh vật cấp thấp, mặc kệ những cuộc tranh giành gạo và thuốc ho, tôi với Cẩm ăn và yêu giữa những kệ sách trong phòng đọc. Thằng Nấm mới biết bò, tụi tôi không phải ngại ánh nhìn của nó. Những ngày vô lo đó, nếu có thứ gì làm tụi tôi bận lòng, thì là tiếng móng tay gãi miết vào da bật máu. 

Có phải mụt ghẻ bất trị mọc trên người thằng Nấm. “Phải em đậy kỹ con, thì đám ruồi quỷ kia đã không cắn nó ra nông nỗi vầy”, Cẩm hay giận mình. Tôi nói có sao đâu, chỉ chút ghẻ thôi, tin anh đi, đứa con nít nào cũng bị mấy trứng bịnh vặt vãnh kiểu vậy. Chúng chảy nước mũi xanh, bụng ỏng oặt vì nuôi lãi, bẹn nổi mấy cái hạch nóng ran. Chúng chảy máu cam, rôm sảy khắp người, thỉnh thoảng trật tay nứt xương. “Chẳng có đứa nào chết vì mấy bịnh sơ sài đó”, tôi dỗ Cẩm, “ghẻ  cũng vậy”. 

Cẩm không vì mấy lời nọ mà yên lòng. Cổ hay mất tập trung, neo vào tôi mà tâm trí quẩn quanh những mụt ghẻ. “Giống miệng núi lửa”, Cẩm nói, mân mê bờ cao bao quanh miệng vực sâu. Mài kim kẹp giấy cho sắc nhọn, tụi tôi bắt được mớ cái ghẻ lẩn lút trong đám mụn nước, nhưng không ăn thua. Ban đêm, lẫn trong tiếng gãi trằn trọc cảm giác như nghe được đám cái ghẻ đang đào luống đào hầm trên thịt ra thằng nhỏ. Có trời biết lũ ruồi đã để lại trên cơ thể thằng Nấm thứ nọc độc gì, ghẻ đây đâu phải thứ ghẻ mà ta từng biết. 

Tôi nhớ nắng cũng có ích, đợi đêm đến lẻn ra ngoài cạo cứt ruồi bám trên những tấm kính chắn cửa sổ, cho nắng chiếu xiên vào, đem thằng nhỏ và quần áo nó hong phơi. Ngặt cái trên giữa mặt trời và tụi tôi còn có đám ruồi, chúng có thể bóp nghẹt nắng bất cứ lúc nào. 

“Phải chạy thuốc con mình mới yên được”, Cẩm thì thầm, nửa mặt dưới tối đi dưới bóng của cái trán dô. Những bà mẹ cứ làm quá lên, tôi nghĩ bụng, lẽ ra lúc đó tôi phải nhận ra cuộc đi đang âm thầm vẽ con đường chằng chịt bên trong Cẩm. 

Có lần Cẩm neo vào tôi mà vẫn vói tay xoa mấy mụt ghẻ cho thằng Nấm, tôi nổi khùng. “Cô đâu chỉ thương mình con, cô thương luôn phần của cha nó”, tôi nói, bỏ lên lầu, ngủ ba đêm trong phòng trữ báo. Ăn mớ chữ ở đó, tôi mới hiểu sao Cẩm có lần bảo, “Chừng túng quá hãy ăn”. Ngày thứ tư Cẩm kết thúc chiến tranh, bồng con lên lầu, đứng ở cửa cười, “Dưới nhà dọn được mấy chữ cũng được lắm”. Bữa đó, lần đầu tiên Cẩm nói sẽ sinh con cho tôi, khi hai đứa neo vào nhau lần thứ tư trong ngày. 

“Con tụi mình sẽ ăn chữ”, tôi nói, vuốt đôi đầu vú tróc lở của Cẩm. Thằng Nấm vẫn chưa chịu ăn, nó hay lè mấy chữ được xé nhỏ ra, ép buộc lắm thì nhai, nhưng lại nghẹn. Không ăn được, nó sẽ bú mẹ đến kiệt cùng. Cẩm có ăn bao nhiêu chữ cũng không đủ sữa cho một đứa nhỏ đang tuổi lớn. “Nó không ăn chữ, vì nó không phải con mình”, tôi cố không lộ ý nghĩ ra mặt. Ý nghĩ ấy mà, thỉnh thoảng chúng lại độc địa hay đen tối, nói cho cùng thì tôi đâu phải thánh thần gì. 

Cho tới lúc đó tôi vẫn tin thật dễ khi dành tình cảm cho đứa trẻ không phải con mình. Ta chỉ cần đinh ninh đây là một phần của người ta yêu. Mình phải chiều chuộng thằng nhỏ, tôi dặn mình vậy. Quả thật tôi yêu chiều thằng con Cẩm như khách. Nhưng thỉnh thoảng có mấy tranh chấp lặt vặt khiến một ý nghĩ sểnh ra rằng phải chi không có thằng nhỏ Nấm thì thiên đường này trọn vẹn hơn. Nhất là mấy lúc đôi đầu vú Cẩm tróc lở vì bị thằng Nấm mút quá nhiều. Cơ thể Cẩm tôi ưng đôi đầu vú nhất, chúng thuôn dài, nhỏ bằng đầu đũa, thường không khi nào rũ xuống. Chúng thẳng thớm kiêu hãnh. Tôi chỉ được ăn chúng sau khi thằng Nấm đã mút cạn sữa rồi nhưng vị cam thảo còn đượm mãi trong vòm họng. 

Cẩm đi rồi, tôi ăn bao nhiêu chữ cả cái mớ Cẩm không nỡ cắn đôi vì đẹp, cũng không tìm được chữ nào có vị cam thảo của đôi đầu vú nhỏ. Buồn không rượu để tan, tôi lộn ngược thùng rác cố tự sát bằng đống chữ Cẩm vứt bỏ trước đây. Cổ nói “Mũi không chịu được”. Những hoang hoải, cô đơn, thổn thức, tôi nhai nuốt để chết đi cho rồi. Nhưng con người ta đâu chết dễ vậy, và cơn dị ứng sưng phồng mày mặt cũng vài ba bữa là xuống cơn. 

Chừng tìm được thuốc trị ghẻ cho thằng Nấm, Cẩm sẽ về. Tôi tin vậy. Nhưng tôi không thể ở lại tòa thư viện đó mà chờ đợi được nữa. Họ đã dẹp được bọn ruồi hoặc chúng chỉ tạm lánh đi trong những hang ổ kín đáo của mình chờ dịp quay lại. Có trời mà biết cái bọn thâm độc đó mưu tính gì. Mưa đã thôi đổ hột trên màn hình tivi, cảnh ngài Ta Đa đi chơi gôn như là một tín hiệu phục hồi của thế giới. Trước khi người của thư viện quay lại, tôi kịp rọc lấy những chữ đẹp rụng rời bỏ vào một thùng riêng, dành cho Cẩm. Tôi hình dung được những cạnh góc bén ngót của cổ mềm đi, khi mân mê chiều xuống thấp mãi gần mặt nước, những cú vỗ của mưa. Cẩm sẽ quay lại, tôi tin vậy. Một bữa tờ giấy Cẩm viết tay kẹp trong cuốn Bảo tàng ngây thơ rơi ra, chém ngọt tôi bằng hai mươi chữ, “Phải không, bởi mấy mụt ghẻ mà từ tụi em giạt tới, anh chưa một lần hôn hít con mình?”, Tôi vẫn tin Cẩm sẽ quay lại tìm tôi. Hoặc không. 

Bữa đài loan có tin người đàn bà ôm con đi lấy tim người làm thuốc, tôi biết là Cẩm. Giờ tôi không biết nên xin một chân bảo vệ để nán lại thư viện chờ Cẩm về hay khăn gói đi tìm cổ ở xứ vạn cù lao.

Đăng bởi anhdo73

Hoạt động can thiệp đa ngành: Tâm lý lâm sàng, Tâm thần, Phục hồi chức năng, Y học cổ truyền

Bình luận về bài viết này