Tương tác xã hội và với các cá nhân khác của người mắc ASD

Trích Disorders of childhood _ development and psychopathology- R.H. Parritz, M.F. Troy- 3rd

Mắt, Khuôn mặt và Quy trình Giao tiếp Xã hội

Các nhà nghiên cứu đang sử dụng nhiều phương pháp chụp cộng hưởng từ chức năng (fMRI), điện não đồ (EEG) và phương pháp hành vi để có được những hiểu biết mới về cách những người mắc tự kỷ nhìn nhận và tương tác với thế giới cảm xúc xã hội và giữa các cá nhân. “Việc hiểu cách trẻ nhỏ, trẻ em và người trưởng thành nắm bắt các chi tiết từ môi trường của họ là rất quan trọng trong việc cố gắng làm sáng tỏ cách thức diễn ra các quá trình học tập và phát triển” (Amestoy và cộng sự, 2015, tr. 2). Dữ liệu từ nhiều nghiên cứu ghi nhận nhiều kiểu quét thị giác và xử lý sự chú ý không điển hình được thể hiện ở những người mắc tự kỷ. So với những người không mắc tự kỷ, là những người thường xuyên nhìn vào các đặc điểm cốt lõi trên khuôn mặt (quanh mắt và miệng) trong thời gian tương đối dài, những người mắc tự kỷ ít có khả năng hướng sự chú ý vào mắt (xem ảnh kèm theo). Kiểu quét khuôn mặt này không chỉ bất thường mà còn có thể không đầy đủ và ít ý nghĩa hơn. Do nhận thức về khuôn mặt là một kỹ năng thị giác phát triển cao với ý nghĩa xã hội sâu sắc, nên những khiếm khuyết sớm có thể có những tác động sâu rộng (Behrmann, Scherf, & Avidan, 2016). Ngoài ra, những người mắc tự kỷ có quá trình xử lý vận động và hành động sinh học không điển hình (điển hình là nhìn vào những gì mang lại nhiều thông tin nhất trong môi trường). Ví dụ về vận động sinh học là thay đổi hướng nhìn dưới ảnh hưởng của người khác. Việc thiếu sự ưu tiên chú ý đến những loại vận động sinh học này có thể là nguyên nhân dẫn đến sự thiếu hụt các kỹ năng tương tác xã hội, chẳng hạn như sự chú ý chung (Gliga và cộng sự, 2014; Kaiser & Pelphrey, 2012; Klin và cộng sự, 2015).

HÌNH Các điểm cố định và quỹ đạo thị giác cho một cá nhân điển hình (ảnh trái) và cho một trẻ mắc rối loạn phổ tự kỷ (ảnh phải).

Trẻ nhỏ sau này được chẩn đoán mắc rối loạn phổ tự kỷ biểu hiện các quỹ đạo phát triển đặc biệt liên quan đến ánh mắt trong năm đầu đời (Gliga và cộng sự, 2014; Klin và cộng sự, 2015). Chuyển động mắt và định hướng tới khuôn mặt của người khác có vẻ điển hình trong hai tháng đầu tiên và điều này được cho là phản ánh đáp ứng kiểu phản xạ. Đến hai tháng tuổi, khi trẻ nhỏ phát triển điển hình thể hiện ánh mắt và định hướng bằng mắt một cách chủ động, có ý nghĩa về mặt xã hội, thì trẻ, mà sau này được chẩn đoán mắc tự kỷ, lại biểu hiện sự suy giảm về ánh mắt và định hướng. Mức độ suy giảm ở sáu tháng có liên quan đến mức độ nghiêm trọng của ASD khi ba tuổi. Việc thiếu định hướng và động lực này dẫn đến “các hình thức học tập không dựa trên tương tác xã hội với phần lớn là học về môi trường vật lý (thay vì xã hội)” (Klin và cộng sự, 2015, tr. 18). Mặc dù ánh mắt bất thường không phải là nguyên nhân gây ra tự kỷ, nhưng nó dường như là dấu hiệu sinh học của “những thất bại tổng quát hơn trong khả năng thích nghi xã hội ở cấp độ não bộ và biểu sinh” (Klin và cộng sự, 2015, tr. 19).

Cả mạng lưới não dưới vỏ và vỏ não đều tham gia vào quá trình chú ý xã hội, động lực xã hội và khen thưởng xã hội (Gliga và cộng sự, 2014). Ngoài ra, các mô hình “não xã hội” của tự kỷ nhấn mạnh sự tương tác qua lại cần thiết giữa sự phát triển và tổ chức của não bộ với trải nghiệm ban đầu (Amestoy và cộng sự, 2015). Vượt ra ngoài thời thơ ấu, trong suốt quá trình phát triển điển hình, chúng ta thấy những thay đổi trong quá trình xử lý khuôn mặt và tương tác xã hội. Ví dụ, ở tuổi vị thành niên, có những yêu cầu và kỳ vọng mới liên quan đến tương tác với bạn bè và những thách thức mới liên quan đến nhận thức khuôn mặt chính xác (ví dụ: liên quan đến nhận dạng cảm xúc). Tất nhiên, những thách thức này cũng phải được trẻ vị thành niên mắc ASD dàn xếp (Behrmann và cộng sự, 2016) và chúng ta cần đảm bảo tận dụng các nghiên cứu về hành vi não bộ đang diễn ra và kinh nghiệm lâm sàng để cung cấp hỗ trợ phù hợp cho kết quả tốt nhất có thể.

Đăng bởi anhdo73

Hoạt động can thiệp đa ngành: Tâm lý lâm sàng, Tâm thần, Phục hồi chức năng, Y học cổ truyền

Bình luận về bài viết này