Vị thành niên- bài 3 phần 2

Sau khi đăng phần 1, có bạn đọc phản ánh là bài viết này khó hiểu. Tôi cũng thấy vậy, nếu xem xét bài viết từ góc độ các ‘đẳng thức’ toán học. Nhưng nếu xem xét từ góc độ kinh tế học thì sẽ dễ hiểu hơn chăng. Cần lưu ý, nếu bài 2 chủ yếu bàn trên nền tảng thần kinh học, thì bài này chủ yếu bàn trên nền tảng tâm lý xã hội học. Gợi ý này nảy sinh khi tôi đọc về một giải Nobel về kinh tế năm 2002, được trao cho Daniel Kahneman, người được tôi biết như là một nhà tâm lý học nhận thức. 

Nhóm ngang hàng

Khi trẻ vị thành niên trở nên độc lập với cha mẹ, chúng dành nhiều thời gian hơn cho bạn bè cùng trang lứa và hướng tới bạn bè đồng trang lứa thường xuyên hơn để được hỗ trợ và nhận dạng xã hội. Điều này được để ý bắt đầu với những người khuynh hướng đồng giới nhưng ngày càng thấy rõ liên quan đến cả những người khuynh hướng khác giới (sau này) ở tuổi vị thành niên. Một nghiên cứu kinh điển về vị thành niên và thanh niên Úc từ 13–21 tuổi, đã sử dụng kết hợp các quan sát, bảng câu hỏi, nhật ký và phỏng vấn để ghi lại. Trong giai đoạn đầu của tuổi vị thành niên, nhiều trẻ đã qua lại với một số từ ba đến chín người cùng giới tính; trẻ tương tác ít bên ngoài nhóm của mình. Nhưng một vài năm sau, trẻ sẽ ở trong các nhóm hoặc đám đông lớn hơn, được tạo thành từ một số nhóm tương tác. Đây vẫn sẽ là các nhóm cùng giới, nhưng các thành viên trưởng thành hơn hoặc có địa vị cao hơn sẽ bắt đầu tiếp xúc với các thành viên khác giới. Dần dần, các thành viên khác trong đám đông sẽ làm theo các thành viên dẫn dắt. Điều này dẫn đến một giai đoạn mà đám đông dị tính được tạo thành từ các nhóm nam và nữ liên kết lỏng lẻo. Sau đó, các mối quan hệ lãng mạn phát triển. Như vậy ‘cùng giới’ phản ánh về giới tính sinh học, còn ‘đồng giới’ phản ánh bản dạng giới. 

Một nghiên cứu gần đây hơn ở Hoa Kỳ đã xác nhận những xu hướng này, sử dụng kết hợp bảng câu hỏi và phỏng vấn qua điện thoại để hỏi trẻ em và vị thành niên xem chúng đã dành bao nhiêu thời gian cho các bạn cùng lứa tuổi, từ giữa thời thơ ấu (8 tuổi) đến cuối tuổi vị thành niên (18 tuổi). Thời gian ở với bạn cùng giới tăng đều đặn từ 8 đến 14 tuổi. Sau đó, nó bắt đầu giảm, khi bắt đầu dành nhiều thời gian hơn cho những người khác giới. Thời gian ở với bạn khác giới tăng lên sau tuổi dậy thì (vì vậy, ở trẻ em gái sớm hơn trẻ em trai), nhiều hơn hẳn thời gian mà có với bạn cùng giới ở thời kì muộn hơn của tuổi vị thành niên.

Các nhà nghiên cứu này cũng đánh giá các hành vi có vấn đề (uống rượu, hút thuốc, trốn học), các triệu chứng trầm cảm, năng lực xã hội và kết quả học tập ở trường. Theo thời gian, thời gian được giám sát nhiều hơn với các bạn cùng lứa (khi có mặt một người trưởng thành hoặc lớn tuổi) tương quan với việc cải thiện kết quả học tập, trong khi thời gian không được giám sát nhiều hơn với các bạn cùng lứa cho dự đoán nhiều các hành vi có vấn đề và các triệu chứng trầm cảm hơn, có lẽ do ảnh hưởng của các bạn lớn tuổi hơn.

Tình bạn ngang hàng

Tình bạn ngang hàng khác với mối quan hệ với cha mẹ hoặc người chăm sóc. Mối quan hệ với cha mẹ thường được mô tả là một mối quan hệ một chiều, trong khi tình bạn với những người đồng trang lứa được đặc trưng như sự hỗ trợ và qua lại. Các ý kiến ​​khác nhau có thể được bày tỏ và thảo luận các ý tưởng mới. Trong khi các mối quan hệ của cha mẹ con cái có thể trở nên gắn bó hơn trong thời kỳ vị thành niên, chúng không thực sự trở nên hỗ trợ và qua lại như các mối quan hệ đồng trang lứa.

Trong thời thơ ấu và nhi đồng, tình bạn được chính trẻ em mô tả là chơi cùng nhau và giúp đỡ lẫn nhau. Quan niệm này sâu sắc hơn ở tuổi vị thành niên với sự hiểu biết rằng bạn bè thể hiện sự thân thiết và tương hỗ trong một mối quan hệ vẫn tiếp tục dù có những thất bại nhỏ. Một thước đo chất lượng của tình bạn thường được sử dụng đánh giá bốn yếu tố tích cực: Đồng hành, Giúp đỡ, An toàn và Gần gũi. Có nhiều hoạt động xã hội căng thẳng hơn giữa bạn bè và giải quyết xung đột cũng thường xuyên hơn (một phần của biện pháp An toàn); bạn bè có thể cãi nhau, nhưng họ vượt qua những cuộc cãi vã hiệu quả hơn những người không phải là bạn bè.

Một số nghiên cứu đã sử dụng các trò chơi có tính kinh tế hành vi để kiểm tra sự tin tưởng và chia sẻ giữa các bạn đồng lứa. Ví dụ, trong ‘Trò chơi Tối hậu’, hai người chơi được chia một khoản tiền: người chơi 1 phải quyết định cách chia số tiền này và người chơi 2 có tùy chọn chấp nhận số tiền này hoặc từ chối (trong trường hợp từ chối, cả hai đều không nhận được tiền). Sự công bằng trong điều này tăng lên qua thời thơ ấu và vị thành niên, và có liên quan đến khả năng trí tuệ hóa. Trong ‘Trò chơi Niềm tin’, một lần nữa hai người chơi có một khoản tiền để chia sẻ. Ở đây, người chơi 1 có thể quyết định chia hoặc tin tưởng người chơi 2 quyết định chia, trong trường hợp đó, số tiền sẽ tăng gấp ba lần. Đây là trò chơi diễn ra một lần, vì vậy mặc dù để người chơi 2 quyết định có thể rất có lợi, nhưng nó đòi hỏi người chơi 1 phải tin tưởng người chơi 2 để chia sẻ công bằng cho anh ta hoặc cô ta. Ở giai đoạn đầu tuổi vị thành niên, người chơi có xu hướng đưa ra những lựa chọn mang tính định hướng bản thân nhiều hơn; ở tuổi vị thành niên sau này, họ xem xét hậu quả cho người khác nhiều hơn. Họ cũng có xu hướng phân biệt rõ ràng trong đối xử hơn, thân thiện hơn với bạn bè. Một số thay đổi này có liên quan đến sự thay đổi hoạt động trong các vùng não xã hội.

Bản chất của tình bạn đã bị ảnh hưởng trong những năm gần đây do việc sử dụng phổ biến internet và các trang mạng xã hội. Ví dụ, những người trẻ có thể có rất nhiều ‘bạn bè’ trên Facebook, bao gồm cả những người quen thuộc offline nhưng cũng có những người chỉ biết online. Thảo luận về bản chất của bạn bè online đã tạo ra hai lập trường đối lập. Giả thuyết về ‘sự dịch chuyển’ lập luận rằng tình bạn online, có số lượng nhiều hơn nhiều và thường thiếu sự tiếp xúc trực tiếp, về cơ bản là hời hợt hơn; đang thay thế tình bạn offline truyền thống nhưng không có những phẩm chất như sự thân thiết và hỗ trợ. Ngược lại, giả thuyết ‘kích thích’ lập luận rằng tình bạn online có thể bổ sung chất lượng và số lượng giao tiếp, dẫn đến gia tăng sự thân mật và hỗ trợ.

Hiện tại, bằng chứng được cho là có lợi hơn cho giả thuyết kích thích. Những người bạn offline hiện tại có thể giao tiếp thường xuyên hơn bằng cách lên mạng và nói chung điều này tạo điều kiện cho sự gần gũi. Một số thanh niên có thể lúng túng khi giao tiếp trực tiếp có thể cảm thấy dễ dàng hơn khi chia sẻ thông tin và phát triển sự thân thiết với bạn bè khi online. Tuy nhiên, đây là một tình huống đang thay đổi nhanh chóng, khi mức độ thâm nhập internet tăng lên đối với lứa tuổi trẻ hơn, sự ngẫu nhiên và cơ hội được cung cấp bởi các trang mạng xã hội tiếp tục phát triển.

Các vấn đề về hòa nhập

Cấu trúc của tình bạn và vị trí trong nhóm đồng đẳng đã được nghiên cứu bằng cách sử dụng các kỹ thuật xã hội học. Điều này có thể được thực hiện bằng cách quan sát, nhưng thường được thực hiện hơn bằng cách hỏi trẻ xem bạn bè của chúng là ai, hoặc ai là người mà trẻ thích nhất và ít thích nhất, trong lớp hoặc nhóm đồng lứa của trẻ. Đối với trẻ vị thành niên, bên cạnh việc yêu cầu các đề cử về tình bạn, các nhà nghiên cứu có thể hỏi những câu hỏi như, “Có những người hay đi chơi với nhau ở trường không? Họ là ai?” để xem xét cấu trúc của các băng nhóm và đám bạn lớn hơn. Bằng cách kết hợp thông tin từ những người cung cấp thông tin khác nhau, có thể phát triển bản đồ nhận thức – xã hội về cấu trúc nhóm đồng lứa ở trẻ vị thành niên. Bên cạnh việc xem xét vị trí của một cá nhân trong nhóm, cũng có thể nhìn vào vị trí trung tâm của một nhóm hoặc nhóm trong mạng lưới nhóm đồng lứa rộng lớn hơn của trường học.

Những người ở trung tâm của một nhóm xã hội và có nhiều bạn bè được mô tả là nổi tiếng. Nhưng trên thực tế, các nhà nghiên cứu đã mô tả hai loại hòa nhập ngang hàng. Hòa nhập ‘được yêu thích’ là có nhiều bạn bè và không bị nhiều người khác ghét. Thông thường, một thiếu niên nổi tiếng sẽ nhận được nhiều đề cử là thích nhất và ít nếu có thì ít được yêu thích nhất khi bạn cùng lớp bị chất vấn. Những đứa trẻ hòa nhập về mặt này thường hợp tác, thích ứng tốt và tự tin. Một loại phổ biến khác được gọi là hòa nhập ‘được công nhận’. Đây là một thước đo khả năng hiển thị xã hội thu được bằng cách hỏi bạn cùng lớp không phải họ thực sự thích ai mà là họ nghĩ ai là những học sinh nổi tiếng nhất.

Có một sự chồng chéo giữa hai hình thức này, nhưng chỉ ở mức hạn chế. Những trẻ được đánh giá cao về cả mức độ hòa nhập được yêu thích và mức độ được công nhận được nhận thức thường là những trẻ có nhiều kỹ năng tiền xã hội và xã hội (tôi chưa rõ nội dung hai loại kĩ năng này), nhưng không quá hung hăng. Tuy nhiên, những trẻ khác, mà chỉ cao về mức độ được công nhận, có thể gây tranh cãi về mặt được yêu thích. Điều này có nghĩa là họ nhận được nhiều lượt đánh giá nổi tiếng nhất nhưng cũng có nhiều lượt đề cử ít được yêu thích nhất. Họ có thể ở trong một nhóm hoặc bè phái có địa vị cao, nhưng cũng có thể là một nhóm khá thống trị, hung hăng hoặc bắt nạt. Một số nghiên cứu cho thấy rằng điều này có thể phổ biến hơn ở trẻ em gái hơn là ở trẻ em trai. Một nghiên cứu ở Mỹ đã yêu cầu trẻ vị thành niên lớp 8 mô tả ý nghĩa của việc trở nên nổi tiếng. Trở nên ‘cool’ là phản ứng phổ biến nhất.

Tuy nhiên, nhiều chàng trai đề cập đến việc thể thao và hài hước. Nhiều cô gái được đề cập đến tính hấp dẫn, nhưng cũng đề cập đến tính xấu tính, hợm hĩnh và thô lỗ; sau đó là những đặc điểm của sự hung hăng trong quan hệ, có vẻ liên quan nhiều hơn đến mức độ hòa nhập được công nhận ở trẻ em gái.

Những thay đổi do ảnh hưởng ngang hàng

Ở mọi lứa tuổi, có xu hướng tương hợp với những người khác là đáng kể — đi theo những gì bạn bè của bạn nghĩ hoặc làm. Điều này có mạnh mẽ hơn ở tuổi vị thành niên không? Một số bằng chứng cho thấy rằng sự tương hợp với các bạn đồng lứa tăng lên đến khoảng 14 tuổi trước khi giảm trở lại, có lẽ đặc biệt là cho đến lúc các hành vi chống đối xã hội được quan tâm. Tuy nhiên, có những quan điểm trái chiều về điều này. Một quan điểm nhấn mạnh sự đánh giá của bạn đồng lứa và sợ bị từ chối. Những lo lắng về tình bạn với bạn bè đồng trang lứa lên đến đỉnh điểm vào giữa tuổi vị thành niên. Một nghiên cứu yêu cầu trẻ vị thành niên hoàn thành các câu chưa hoàn chỉnh về tình bạn trong một nhóm nhỏ và phân tích kết quả về nội dung cảm xúc của trẻ. Chủ đề lo lắng và sợ hãi bị bạn bè từ chối tăng từ lúc 11 lên 13 và sau đó là 15 tuổi, nhưng giảm đi lúc 17 tuổi. Một phát hiện tương tự cũng được thực hiện liên quan đến cảm giác bị xã hội từ chối hoặc tẩy chay bởi những người bạn cùng lứa tuổi. Nghiên cứu này đã sử dụng một mô hình phòng thí nghiệm có tên là Cyberball. Cyberball là một trò chơi chuyền bóng trên internet, trong đó người trẻ nghĩ rằng họ đang chơi với hai người chơi khác (thực tế là những người chơi khác được điều khiển bởi các thuật toán máy tính để bao gồm hoặc loại trừ người tham gia). Khí sắc và lo âu theo sau khi bị loại trừ được đánh giá. Một nghiên cứu đã so sánh vị thành niên sớm (11-13 tuổi), vị thành niên trung (14-15 tuổi) và trưởng thành (22-47 tuổi) chơi trò chơi này. Các trẻ vị thành niên tỏ ra đau khổ hơn khi bị xã hội loại trừ trong trò chơi, với sự lo âu tăng lên rõ rệt nhất ở nhóm vị thành niên sớm. Trong một mô hình liên quan, các cô gái vị thành niên cho thấy sự lo âu xã hội nhiều hơn đối với sự đánh giá của bạn bè, liên quan đến việc kích hoạt các vùng não liên quan đến xử lý cảm xúc.

Một quan điểm khác cho rằng một phần của sự phát triển nhận thức và xã hội của tuổi vị thành niên là sự gia tăng tính tự chủ và trưởng thành. Điều này có thể ngụ ý rằng ảnh hưởng ngang hàng có thể bị chống lại nếu nó đi ngược lại các giá trị của riêng một người. Một số nhà nghiên cứu đã xây dựng một thước đo về Khả năng chống lại ảnh hưởng của bạn bè (RPI), bao gồm các mục như ‘Một số người đi cùng bạn bè của họ chỉ để giữ bạn bè của họ vui vẻ, NHƯNG những người khác từ chối đi cùng bạn bè của họ chỉ để giữ cho bạn bè của họ vui vẻ’, với người được hỏi điều này đúng như thế nào về họ. Họ nhận thấy sự gia tăng RPI chung theo độ tuổi từ 9 đến giữa 20 và đặc biệt là từ 14 đến 18 tuổi (mặc dù dường như có một sự sụt giảm nhỏ ở 14 tuổi). Trẻ em gái đạt RPI cao hơn trẻ em trai. Nhìn chung, có vẻ như qua tuổi vị thành niên tiềm năng ngày càng tăng về tính tự chủ và khả năng chống lại ảnh hưởng của bạn bè, nhưng ảnh hưởng của nhóm đồng lứa là rất đáng kể, và nỗi sợ hãi về sự từ chối của nhóm đồng lứa là rất cao, đặc biệt là ở lứa tuổi vị thành niên.

Gây hấn và bắt nạt

Một mặt tiêu cực hơn của mối quan hệ đồng lứa được tìm thấy khi một người trẻ bị người khác phớt lờ hoặc từ chối. Loại trừ xã ​​hội, cũng như những nỗ lực tích cực hơn để làm tổn hại vị thế xã hội của một người nào đó trong một nhóm hoặc tình bạn của họ, có thể bằng cách lan truyền tin đồn xấu, được coi là một hình thức gây hấn được gọi là ‘gây hấn quan hệ’. Gây hấn thường được định nghĩa là hành vi nhằm mục đích làm tổn thương người khác, và theo truyền thống, hành vi này là hành vi thể xác hoặc bằng lời nói. Tất nhiên các kiểu gây hấn bằng lời nói và thể chất xảy ra ở tuổi vị thành niên, nhưng hành vi gây hấn quan hệ cũng phổ biến và tương đối nhiều hơn so với thời thơ ấu hoặc nhi đồng. Đó là một kiểu gây hấn tinh vi hơn; điều đó ít rõ ràng hơn đối với người lớn, và điều đó có thể được biện minh bởi những người làm điều đó về lựa chọn cá nhân của bạn bè hoặc chia sẻ thông tin về người khác.

Một số mức độ của hành vi gây hấn có thể được coi là quy chuẩn và thực sự là một phần của quá trình trưởng thành. Đó là điều cần phải đối phó trong suốt cuộc đời. Tuy nhiên, bắt nạt là một loại hành vi gây hấn gây ra những lo ngại đặc biệt. Bắt nạt thường được định nghĩa là hành vi gây hấn lặp đi lặp lại với sự mất cân bằng quyền lực. Nạn nhân, bởi vì họ yếu hơn về mặt thể chất hoặc tâm lý theo một cách nào đó, không thể sẵn sàng tự vệ. Những trẻ đặc biệt có nguy cơ bị bắt nạt ở trường bao gồm trẻ vị thành niên thiếu bạn tốt; trẻ nhút nhát hoặc không quyết đoán; hoặc những trẻ có một số loại khuyết tật. Quấy rối chủng tộc và tình dục cũng có thể được coi là các hình thức bắt nạt. Quấy rối tình dục thường liên quan đến trẻ em gái là nạn nhân, từ trẻ em gái hoặc trẻ em trai khác, thường liên quan đến ngoại hình hoặc danh tiếng. Điều này có thể là offline nhưng bây giờ ngày càng có thể là online. Con trai cũng có thể có nguy cơ bị bắt nạt quan hệ như vậy, nhưng thường là về các nhận xét xúc phạm về xu hướng tình dục giả định hoặc thực tế. Bắt nạt như vậy cũng có thể ảnh hưởng đến các bé gái, nhưng thường xuất hiện phổ biến và nghiêm trọng hơn đối với các bé trai.

Cách trẻ đương đầu với việc bị bắt nạt khác nhau, nhưng tìm kiếm sự giúp đỡ nói chung là một chiến lược tốt. Thật không may, sự sẵn sàng tìm kiếm sự giúp đỡ của giáo viên hoặc cha mẹ ở tuổi vị thành niên ít hơn nhiều so với thời thơ ấu. Các chương trình hỗ trợ đồng đẳng (trong đó học sinh được đào tạo để có thể đưa ra hướng dẫn hoặc tư vấn) có thể cung cấp một lộ trình thay thế để nhận được hỗ trợ, ít nhất là ban đầu. Trong hai mươi năm qua, nhận thức về bắt nạt học đường và ảnh hưởng của nó đã tăng lên rất nhiều. Nhiều trường học hiện có chính sách chống bắt nạt (một yêu cầu pháp lý ở một số quốc gia) và thực hiện các bước tích cực để giảm bớt hoặc đối phó với hành vi bắt nạt, bao gồm công việc tích hợp trong chương trình giảng dạy, các chiến lược phục hồi và các biện pháp trừng phạt theo mức độ.

Giới thiệu một số tác giả về tâm lý học

Đã có câu hỏi đặt ra với tôi từ các sinh viên y khoa: “Em muốn tìm hiểu về tâm lý. Em nên đọc sách nào?”. Gần 10 năm trôi qua, tôi mới đủ tự tin để trả lời câu hỏi này. Tôi đã không thể trả lời ngay, vì thật sự với những cuốn sách tôi đã đọc, tôi vẫn không nhận ra bộ mặt rõ nét của tâm lý lâm sàng. Tôi được chỉ cái mũi thế nào, cái mồm ra sao. Nhưng vì không có cả khuôn mặt, tôi vẫn cứ không chắc đó có thực sự là mũi không, có thực sự là mồm không (mặc dù những người chỉ cho tôi là những giáo sư, tiến sĩ đầu ngành của Việt Nam như thày Nguyễn Kim Việt, thày Nguyễn Sinh Phúc, thày Đinh Đăng Hòe… )

Cuốn sách đầu tiên mà tôi đọc, và hiểu ra bộ mặt của tâm lý nhận thức, nền tảng cho ứng dụng của của nó là tâm lý lâm sàng là cuốn “Tâm lý lâm sàng: sách dành cho sinh viên”, ấn bản năm 1995, của Michael W. Eysenck (mà nhờ có Covid 19, Đại học Oxford mở một phần thư viện online của họ cho độc giả- con trai đang học tại Anh đã hỗ trợ tôi việc này). Nó giúp tôi có thể ghép tổng hòa các nét trên khuôn mặt đã biết, vào một khuôn mặt đầy đủ, rõ ràng. Thậm chí từ khuôn mặt này, tôi được hướng dẫn để biết về bên dưới, các hoạt động của các bộ phận thực sự thế nào.

Vì vậy tôi giới thiệu ở đây 3 tác giả quan trọng, có nhiều sách để các bạn làm chuyên môn đọc và tham khảo.

Michael W. Eysenck tốt nghiệp Đại học College London. Sau đó, ông chuyển ngay đến Đại học Birkbeck của London để làm giảng viên, nơi ông đã hoàn thành bằng Tiến sĩ của mình về “von Restorff và hiệu ứng ‘giải phóng’ trí nhớ”. Nghiên cứu của ông trong vài năm tập trung vào các chủ đề khác nhau trong nghiên cứu trí nhớ (ví dụ: mức độ xử lý; sự phân biệt). Tuy nhiên, trong nhiều năm sau, nghiên cứu của ông chủ yếu tập trung vào lo âu và nhận thức (bao gồm cả trí nhớ). Hầu hết nghiên cứu này liên quan đến những quần thể khỏe mạnh nhưng một số đã giải quyết những thiên kiến trong nhận thức (bao gồm cả trong trí nhớ) ở những bệnh nhân lo âu. Nghiên cứu tập trung về trí nhớ đã được thực hiện tại Đại học Birkbeck của London và tại Đại học Royal Holloway của London, nơi ông là Giáo sư Tâm lý học từ năm 1987 (Trưởng khoa, 1987–2005). Tuy nhiên, nó đã được bắt đầu trong thời gian ông là Giáo sư thỉnh giảng tại Đại học Nam Florida. Ông đã xuất bản 40 cuốn sách về tâm lý học (nhiều cuốn liên quan đến trí nhớ của con người), bao gồm hai chuyên khảo nghiên cứu về lo âu và nhận thức. 

Tốt nghiệp ngành Tâm lý học tại Đại học College London, Alan Baddeley đã dành năm sau đó tại Princeton, nơi đầu tiên trong số năm lần lưu trú như vậy ở Mỹ. Ông đã trở lại một vị trí tại Đơn vị Tâm lý học Ứng dụng của Hội đồng Nghiên cứu Y khoa (APU) ở Cambridge, hoàn thành bằng Tiến sĩ, liên quan đến việc thiết kế các mã bưu chính. Ông tiếp tục kết hợp nghiên cứu ứng dụng, chẳng hạn như lặn- biển sâu, với các vấn đề lý thuyết như sự phân biệt giữa trí nhớ dài và ngắn hạn. Sau khi chuyển đến Đại học Sussex, ông và Graham Hitch đề xuất một mô hình đa thành phần của bộ nhớ hoạt động. Ông cũng bắt đầu làm việc với các bệnh nhân mất trí nhớ, tiếp tục cả hai dòng nghiên cứu này khi ông chuyển đến, đầu tiên là một vị trí tại Đại học Stirling, sau đó trở lại APU ở Cambridge. Sau 20 năm làm Giám đốc, ông chuyển đến Đại học Bristol đầu tiên, sau đó đến vị trí hiện tại ở York, nơi ông đã tiếp tục cộng tác với Graham Hitch. Ông đã được trao tặng bằng CBE vì những đóng góp của mình trong việc nghiên cứu trí nhớ, là thành viên của Hiệp hội Hoàng gia, của Học viện Anh và của Học viện Khoa học Y tế. Mô hình trí nhớ hoạt động của ông rất quan trọng trong chức năng tâm lý cơ bản nhất của con người là trí nhớ, cũng như cơ chế hoạt động của nó giúp chúng ta hình dung được sự phối hợp các chức năng tâm lý khác nhau như tri giác, học tập, và đặc biệt là chức năng điều hành.

ROBERT S. FELDMAN là Giáo sư Tâm lý học và Phó Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Khoa học Xã hội và Hành vi tại Đại học Massachusetts ở Amherst. Feldman, người giành được giải thưởng Giáo viên Xuất sắc của Trường, cũng đã giảng dạy các khóa học tại Cao đẳng Mount Holyoke, Đại học Wesleyan và Đại học Virginia Commonwealth. Feldman, người khởi xướng Chương trình kèm cặp cho trẻ vị thành niên, dạy môn tâm lý học nhập môn cho các lớp có quy mô từ 20 đến gần 500 học sinh. Ông cũng đã từng là thành viên giảng dạy Hewlett và thành viên giảng dạy trực tuyến cao cấp, và anh ấy thường nói chuyện về việc sử dụng công nghệ trong giảng dạy. Ông đã bắt đầu các khóa học đào tạo từ xa về tâm lý học tại Đại học Massachusetts. Feldman cũng tích cực tham gia vào việc thúc đẩy lĩnh vực tâm lý học. Ông là thành viên Hội đồng quản trị của Liên đoàn Khoa học Hành vi, Tâm lý và Nhận thức, đồng thời cũng nằm trong Hội đồng Quản trị của Quỹ vì Sự Tiến bộ của Khoa học Hành vi và Não bộ. Là thành viên của Hiệp hội Tâm lý Hoa Kỳ và Hiệp hội Khoa học Tâm lý, Feldman đã nhận được bằng B.A. với bằng Danh dự Cao từ Đại học Wesleyan và bằng M.S. và Ph.D. từ Đại học Wisconsin – Madison. Ông từng đoạt giải thưởng Giảng viên và Học giả Nghiên cứu Cấp cao Fulbright, và đã viết hơn 100 cuốn sách, chương sách và bài báo khoa học. Sách của ông bao gồm ‘Các nguyên tắc cơ bản về hành vi phi ngôn ngữ’, ‘Phát triển hành vi phi ngôn ngữ ở trẻ em’, ‘Tâm lý xã hội’, ‘Phát triển trong suốt cuộc đời’ và ‘P.O.W.E.R. Học tập: Các chiến lược để thành công trong trường đại học và cuộc sống’, và chúng đã được dịch sang một số ngôn ngữ, bao gồm tiếng Tây Ban Nha, tiếng Pháp, tiếng Bồ Đào Nha, tiếng Hà Lan, tiếng Trung và tiếng Nhật. Các mối quan tâm nghiên cứu của ông bao gồm sự trung thực/ lừa dối và sử dụng hành vi phi ngôn ngữ trong quản lý ấn tượng, và nghiên cứu của anh ấy đã được hỗ trợ bởi các khoản tài trợ từ Viện Sức khỏe Tâm thần Quốc gia và Viện Nghiên cứu Phục hồi và Khuyết tật Quốc gia. Tài liệu chính để tôi biên soạn sách “Sức khỏe tâm thần” cho năm học 2019-2020, tài liệu lưu hành nội bộ cho sinh viên năm thứ 3, là từ cuốn “Tâm lý học căn bản” của ông, bản dịch của Minh Đức- Hồ Kim Chung. (Đối chiếu với thông tin trên, bản dịch tiếng Việt không thấy được liệt kê, và bản dịch này có nhiều từ Hán Việt nên khi đọc tôi cứ có cảm giác mình đang đọc sách từ trước năm 1975)

Hi vọng các nhà chuyên môn và các bạn muốn tìm hiểu nền tảng tâm lý lâm sàng có thể tham khảo và tìm thông tin hữu ích.

Vị thành niên- bài 3 phần 1

Bài 3 phần 1: Thay đổi mối quan hệ — cha mẹ và bạn bè đồng trang lứa

Bài viết này vẫn biên soạn dựa chủ yếu theo tác giả Peter K. Smith. Tác giả Peter K. Smith đề cập đến khá nhiều các nghiên cứu ở cộng đồng người châu Á hơn so với các tác giả khác mà tôi tham khảo, nên các số liệu có vẻ gần gũi hơn với chúng ta chăng?

Tuy nhiên, tôi không đi vào trình bày ngay về các lý thuyết tâm lý để mô tả các khái niệm hay các chức năng tâm lý cơ bản, điều mà nếu bạn đọc là nhà chuyên môn sẽ quan tâm. Nhưng các cha mẹ Việt, những người ít được trang bị kiến thức tâm lý học cơ bản, sẽ cảm thấy khó theo dõi. Tôi sẽ đề cập đến các lý thuyết của Jean Piaget, Lawrence Kohlberg, and Erik Erikson trong một hệ thống bài viết khác, mà tôi đã bắt đầu khi biên soạn trong giáo trình “Sức khỏe tâm thần”, cho năm học 2019-2020, tài liệu lưu hành nội bộ cho sinh viên năm thứ 3.

Tuổi mới lớn là giai đoạn có nhiều thay đổi trong mối quan hệ với cha mẹ cũng như với bạn bè đồng trang lứa. Một quan điểm truyền thống, đơn giản là các mối quan hệ với bạn bè đồng trang lứa trở nên có ảnh hưởng hơn, và mối quan hệ với cha mẹ ít hơn trong những năm nhi đồng. Điều này bao hàm sự kiện: vị thành niên ngày càng trở nên độc lập với cha mẹ và dành nhiều thời gian hơn trong các nhóm đồng trang lứa trong cùng độ tuổi. Tuy nhiên, bức tranh không thể tránh khỏi phức tạp, và thay đổi trong các bối cảnh văn hóa và giai đoạn lịch sử khác nhau.

Cha mẹ

Một thay đổi trong mối quan hệ với cha mẹ, nói chung là sự gần gũi về tình cảm. Các độc giả là nhà chuyên môn sẽ liên hệ với chức năng tâm lý cơ bản của thời thơ ấu là ‘mối quan hệ gắn bó’. Sự thay đổi đã được ghi lại rõ ràng trong một nghiên cứu ở Hoa Kỳ, báo cáo xếp hạng về mức độ gần gũi của những người trẻ tuổi với cha mẹ, ở độ tuổi 10, 16 và 25. Các phát hiện cho thấy rõ ràng rằng trẻ vị thành niên không đánh giá mình gần gũi với cha mẹ như những đứa trẻ nhi đồng hoặc thanh niên. Xếp hạng về mức độ gần gũi với mẹ cao hơn so với mức độ gần gũi với cha, nhưng đối với cả cha và mẹ, mức độ gần gũi đã giảm ở năm 16 tuổi, khoảng 1 hoặc 1,5 điểm trên thang điểm 7. Một khía cạnh thú vị của nghiên cứu này là một khía cạnh bổ sung mang tính lịch sử. Có dữ liệu cho hai nhóm theo năm sinh: một tập hợp dữ liệu cho những người sinh năm 1925–39 (là vị thành niên trong những năm 1940–50) và một nhóm thứ hai dành cho những người sinh trong giai đoạn 1950–59 (là vị thành niên niên trong những năm 1960–70). Có một khoảng cách gần gũi hơn ở nhóm trước, có lẽ bởi vì so với những năm 1940 và 1950, những năm 1960 có sự kiện đáng chú ý là phản đối xã hội xung quanh Chiến tranh Việt Nam, trong đó những người trẻ tuổi đóng một vai trò nổi bật.

[Không nên phóng đại sự xa cách này với cha mẹ. Với cha mẹ Việt, đối tượng mà tôi làm việc khá nhiều trong chủ đề trẻ vị thành niên, tôi nhận thấy, sự xa cách này thực sự gây tổn thương cha mẹ Việt trong những năm đầu thập niên trước, và giảm đi ở cuối thập niên. Có thể cha mẹ Việt đã bắt đầu quen hơn với đặc điểm tâm lý này, điều mà không xảy hoặc rất ít xảy ra ở Việt Nam thời kì trước mở cửa. ]

Trong nghiên cứu trên, xếp hạng trung bình về mức độ gần gũi vẫn ở mức tích cực. Kết quả cho thấy rằng hầu hết trẻ vị thành niên luôn duy trì mối quan hệ tốt với cha mẹ và vẫn coi cha mẹ như những nguồn hỗ trợ và tư vấn về mặt tinh thần. Tuy nhiên, những thay đổi trong giai đoạn này là có thật và nhiều bậc cha mẹ có thể trải nghiệm được. Những thay đổi này có thể liên quan đến việc sắp đến tuổi dậy thì, vì chúng dường như liên quan chặt chẽ đến thời gian dậy thì hơn là tuổi theo thời gian. Chúng cũng liên quan đến những thay đổi của não tại thời điểm này và những thay đổi về nhận thức, đặc biệt là việc tìm kiếm danh tính và quyền tự chủ. Sự thay đổi sinh lý đã có những ảnh hưởng rõ nét đến các chức năng tâm lý với sự công nhận bằng chứng này. Các chỉ số về những thay đổi tâm lý bao gồm các vấn đề xung quanh niềm tin và sự bộc lộ; và xung đột giữa cha mẹ và trẻ vị thành niên.

Tin tưởng và bộc lộ

Người trẻ tin tưởng ở mức độ nào ở cha mẹ để họ sẵn sàng bộc lộ những lo lắng và băn khoăn của họ, và nhận hoặc xin lời khuyên? Một sự khác biệt phổ biến được thực hiện ở đây là giữa ‘mối quan tâm thận trọng’ và ‘mối quan tâm cá nhân’. Các mối quan tâm thận trọng liên quan đến các hành vi nguy cơ như dùng chất hoặc nói chuyện với người lạ trên internet. Mối quan tâm cá nhân liên quan đến những lựa chọn bình thường không có rủi ro, chẳng hạn như lựa chọn bạn bè hoặc cách dành thời gian giải trí của một người. Khi được hỏi, trẻ vị thành niên thường nói rằng họ nên nói chuyện với cha mẹ về những mối quan tâm thận trọng, trong khi nói về những mối quan tâm cá nhân không được coi là quá cần thiết. Nhưng hành vi thực tế của họ thường không tương ứng với những gì họ cảm thấy phải làm. Họ ít bộc lộ về những mối quan tâm thận trọng của họ, bởi vì họ sợ bị từ chối, trừng phạt hoặc áp đặt. Họ sẽ cố gắng tránh nói dối cha mẹ, nhưng để tránh bộc lộ đầy đủ các hoạt động rủi ro, họ có thể sử dụng các chiến lược như né tránh vấn đề, một chiến lược mang tính phòng vệ, chỉ nói nếu được hỏi trực tiếp và bỏ qua các chi tiết quan trọng. Chiến lược phòng vệ được thực thi ở đây phản ánh sự phát triển nhận thức đang trên đà, mà chưa đầy đủ. Giáo dục tâm lý cho trẻ ở giai đoạn này chắc chắn nên đề cập đến- một chương trình mà tôi kì vọng có thể thực hiện cho các trẻ ở tầm lớp 8 và lớp 10.

Một nghiên cứu đã so sánh những phát hiện này, từ nhiều kết quả nghiên cứu ở Hoa Kỳ, với hành vi của trẻ vị thành niên khoảng 16 tuổi ở Nhật Bản. Một mô hình rất giống nhau đã được tìm thấy. Trẻ cảm thấy có nghĩa vụ bộc lộ các vấn đề thận trọng hơn (ở Nhật Bản, những vấn đề này bao gồm uống rượu sake và đi đến các trung tâm trò chơi điện tử), nhưng thực tế bộc lộ những vấn đề này ít thường xuyên hơn so với các vấn đề cá nhân, do trẻ cảm thấy ít tính nghĩa vụ hơn. Mặc dù cấu trúc của các phát hiện khá giống nhau, tỷ lệ bộc lộ thực tế và bộc lộ nghĩa vụ ở người Nhật thấp hơn đáng kể so với trẻ vị thành niên Hoa Kỳ, có lẽ vì mối quan tâm lớn hơn đó là tránh phá vỡ sự hòa hợp gia đình trong văn hóa Nhật Bản, một sự tương đồng với văn hóa Việt Nam.

Xung đột giữa cha mẹ và trẻ vị thành niên

Một biểu hiện khác của sự xa cách giữa cha mẹ và con cái là sự gia tăng các xung đột. Một đánh giá cho rằng tần suất xung đột cao nhất ở giai đoạn đầu tuổi vị thành niên, trong khi cường độ xung đột cao nhất ở những năm giữa tuổi vị thành niên. Một số nghiên cứu đã được thực hiện về những xung đột như vậy là gì. Ví dụ, một nghiên cứu về trẻ vị thành niên người Mỹ gốc Phi 11-14 tuổi ở Hoa Kỳ cho thấy xung đột thường xuyên nhất là về làm việc nhà (21%), lựa chọn hoạt động (17%) hoặc các vấn đề về mối quan hệ giữa các cá nhân, chẳng hạn như lựa chọn bạn bè (17%), tiếp theo là tình trạng phòng ở của trẻ (13%), bài tập ở trường (10%), thời gian đi ngủ (9%), ngoại hình (6%), và tiền (5%). Một nghiên cứu tương tự sau đó đã được thực hiện với những đứa trẻ 11-18 tuổi ở Hồng Kông và ở Thâm Quyến, Trung Quốc. Ở cả hai địa điểm, mô hình xã hội hóa truyền thống của Trung Quốc chú trọng nhiều hơn đến nghĩa vụ gia đình và trách nhiệm đối với người lớn tuổi hơn so với ở các nước phương Tây. Cha mẹ Việt có thể thấy bản thân mình cũng có phần nào tương tự. Nhưng chúng ta cũng cần chú ý, Hồng Kông thuộc Anh trong nhiều năm lịch sử, còn Thâm Quyến thuộc Trung Quốc, và có sự khác biệt văn hóa, ngay cả trong những năm đầu Hồng Kông thuộc về Trung Quốc. Tuy nhiên, nhiều xung đột lại xảy ra về việc lựa chọn hoặc quy định các hoạt động (sử dụng điện thoại, xem TV, giờ đi ngủ) và làm việc nhà. Một số xung đột cũng là về tiền bạc và ngoại hình / sức khỏe. Ở Thâm Quyến, có nhiều xung đột hơn về thành tích (học tập, làm bài tập về nhà), tập trung nhiều hơn vào tầm quan trọng của điểm tốt ở trường; có ít xung đột giữa các cá nhân hơn về mối quan hệ với cha mẹ, anh chị em và bạn bè, có lẽ vì hầu hết trẻ vị thành niên ở trong các gia đình một con và không có anh chị em nào để cãi vã.

Các nghiên cứu này đã sử dụng các cuộc phỏng vấn với một số lượng lớn những người trẻ tuổi để hỏi về các xung đột. Theo một cách tiếp cận khác, các nhà nghiên cứu ở Hà Lan đã thực hiện một nghiên cứu chuyên sâu với chỉ mười bảy cô gái, trong hơn một năm. Họ 15 tuổi khi nghiên cứu bắt đầu, và họ được yêu cầu ghi chép nhật ký về những xung đột với mẹ của mình. Họ đã làm điều này trong chu kì hai tuần, sáu tuần một chu kì. Họ có thể ghi lại các cuộc xung đột online hoặc viết vào một tập sách nhỏ, và họ nhận được một phần thưởng nhỏ cho mỗi tuần hoàn thành. Đầu tiên, các nhà nghiên cứu đã phân loại tổng số 147 xung đột được ghi nhận thành 5 loại chính: tự chủ (ví dụ: khi nào đi ngủ, khi nào làm bài tập về nhà; 51%); không giống tôi (sự khác biệt giữa cách cô gái nhìn nhận bản thân và cách cô ấy được mẹ cô ấy nhìn và phản ứng; 20%); sự phụ thuộc (con gái muốn giúp đỡ hoặc lời khuyên từ mẹ; 13%); không công bằng (con gái cảm thấy mình bị đối xử bất công; 9%); và các xung đột trong phạm vi nhỏ (ví dụ: chải tóc đau đớn, làm mất hộp bánh sandwich; 7%). Những xung đột này tạo ra một loạt các phản ứng cảm xúc, chẳng hạn như cảm thấy tức giận, thất vọng, xấu hổ, bị hiểu lầm, không được coi trọng. Nói chung, những cô gái có nhiều xung đột hơn trong năm cho biết có nhiều trạng thái cảm xúc khác nhau hơn. Nhưng các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng đối với một số ít các cô gái thuộc nhóm cho biết có nhiều xung đột nhất, thì điều này không đúng. Những cô gái này cho biết có xung đột trong nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng có cùng trạng thái cảm xúc. Những cô gái này và mẹ của họ dường như bị ‘bắt’ trong một khuôn mẫu cứng nhắc là tái hiện cùng một loại xung đột, với cùng kết quả, trong suốt cả năm. Khi làm việc với cha mẹ Việt, tôi cũng thấy hiện tượng này. Tuy nhiên, đối với hầu hết các cô gái, có nhiều sự thay đổi và linh hoạt hơn.

Những nghiên cứu này cho thấy rằng cha mẹ của trẻ vị thành niên có một ranh giới tốt để thực hiện— một số quy tắc là quan trọng, không thay đổi, nhưng thảo luận và linh hoạt để thừa nhận cảm xúc và mong muốn của chính trẻ cũng cần thiết. Đối với các cha mẹ Việt, trong thời gian qua, do ảnh hưởng của khuynh hướng giáo dục thuận theo tự nhiên, một số cha mẹ bỏ qua việc thiết lập ranh giới này, một trong những lý do dẫn đến một số rối loạn của trẻ, trong đó điển hình là vấn đề lạm dụng internet. Tôi cũng sẽ đề cập tường tận hơn trong bài viết về chẩn đoán ‘nghiện game’. Ở đây lưu ý các cha mẹ và nhà chuyên môn, trong DSM 5, phần phân loại chính thức không có chẩn đoán này, mà nó chỉ xuất hiện trong phần phân loại mang tính văn hóa, do các nhà Tâm thần học Trung Quốc đề nghị.

Một lĩnh vực mà xung đột giữa cha mẹ và vị thành niên thường khó tránh là xung quanh giờ đi ngủ của trẻ vị thành niên.

Lịch đi ngủ ở tuổi vị thành niên

Mô hình giấc ngủ thay đổi qua tuổi vị thành niên theo hai cách quan trọng. Đầu tiên là cái được gọi là sở thích chậm trễ: trẻ vị thành niên đi ngủ muộn hơn và dậy muộn hơn vào buổi sáng, đặc biệt là vào cuối tuần. Điều này đã được cho là một hệ quả tự nhiên của những thay đổi sinh học liên quan đến tuổi dậy thì. Một cơ chế điều hòa nhịp ngày đêm ở vùng dưới đồi duy trì trạng thái tỉnh táo muộn hơn vào buổi tối so với trường hợp thời thơ ấu, một xu hướng bắt đầu đảo ngược ở giai đoạn đầu của tuổi vị thành niên, thâm chí có thể diễn ra sớm hơn, do ảnh hưởng của sinh hoạt chung trong gia đình. Thay đổi thứ hai là một phần của xu hướng liên tục hơn từ thời thơ ấu trở đi và đến tuổi trưởng thành là giảm thời lượng ngủ. Tuy nhiên, trẻ vẫn cần ngủ nhiều hơn người lớn, và việc đi ngủ muộn có nghĩa là họ thường ngủ ít hơn mức cần thiết.

Paul Kelley, một nhà nghiên cứu trước đây là giáo viên chủ nhiệm tại một trường trung học ở miền bắc nước Anh, đã lập luận rằng lịch trình của người lớn không phản ứng với những thay đổi trong cách ngủ mà trẻ vị thành niên đang trải qua. Kết quả của thời gian bắt đầu đi học bình thường là 9 giờ sáng và trẻ thường thiếu ngủ, gây hậu quả bất lợi cho việc học, cáu gắt ở trường vào buổi sáng và tăng khả năng xung đột với giáo viên. Trong khi là một hiệu trưởng, ông đã thử hiệu quả của việc bắt đầu đi học lúc 10 giờ sáng và báo cáo kết quả rất tích cực, cả về mặt học tập và bầu không khí trong trường thay đổi theo chiều hướng tốt hơn. Các trường quốc tế ở Việt Nam hiện nay bắt đầu khung giờ 8g30. Và như tôi biết, Anh, Mỹ và Pháp cũng vẫn bắt đầu với khung giờ này, có thể là do sự hợp lý tương quan với hoạt động chung của xã hội. 

Gia đình và trường học

Nghiên cứu về giờ đi ngủ minh họa cách thức thực hành gia đình có thể ảnh hưởng đến cuộc sống ở trường. Một nghiên cứu ở Mỹ đã sử dụng dữ liệu nhật ký hàng ngày trong khoảng thời gian hai tuần để kiểm tra điều này. Cha mẹ và trẻ vị thành niên (khoảng 15 tuổi) đã báo cáo về các xung đột, và trẻ vị thành niên cũng báo cáo về tâm trạng hàng ngày với các vấn đề ở trường (chẳng hạn như đi học muộn hoặc bị điểm kém). Xung đột giữa cha mẹ và trẻ vị thành niên dự đoán các vấn đề ở trường vào cùng một ngày và kéo dài đến hai ngày sau đó. Ngược lại, các vấn đề ở trường cũng dự đoán xung đột ở nhà. Điều thú vị là, xung đột giữa phụ huynh với nhau không dự đoán được các vấn đề ở trường học, ít nhất là không nằm trong phạm vi thời gian của nghiên cứu này; ảnh hưởng chỉ giới hạn trong xung đột với trẻ vị thành niên. Tâm trạng tiêu cực được báo cáo bởi trẻ vị thành niên dường như chiếm phần lớn cái mà các tác giả gọi là ‘hiệu ứng lan tỏa’ giữa gia đình và trường học.

Các mạch trong đào tạo y khoa

  • Chương trình đào tạo bác sĩ 6 năm chỉ là chương trình lý thuyết. Thực hành của nó vẫn chỉ là lý thuyết về thực hành, không thể là thực hành thực sự vì:

+ trong bối cảnh yêu cầu khối lượng kiến thức đã lớn hơn và chuyên khoa hóa sâu hơn so với thời mình học đại học 89-95, sinh viên cần có đủ thời gian để học lý thuyết

+ kiến tập là nguyên tắc chủ đạo: cái này là theo thế giới. Và mình cho là ảnh hưởng đến đạo đức hành nghề. Môn Y Đức thì không đi dạy cái này, chứ đạo đức hành nghề đã là một nội dung rất quan trọng trong nhiều ngành. Hiện đã có thực hành nghề 18 tháng để đảm bảo nội dung thực hành thực sự.

  • Trong các ngành lâm sàng nội, mình lấy 2 ngành đứng ở vị trí là ngành điều trị, vì nội dung bệnh học của nó lấy từ các ngành lâm sàng còn lại, đó là Hồi sức cấp cứu và Phục hồi chức năng. Nội dung phân chia đương nhiên không thể là tuyệt đối, và không có phân chia cứng nhưng đại thể có thể tạm chia:

+ các ngành lâm sàng xoay quanh Hồi sức cấp cứu: Tim mạch, Hô hấp, Thận tiết niệu, Nội tiết chuyển hóa, Tiêu hóa, .

+ các ngành lâm sàng xoay quanh Phục hồi chức năng (trong YHCT thì Châm cứu và Xoa bóp bấm huyệt cũng thuộc PHCN là chính): Cơ xương khớp, Thần kinh, Tâm thần

Hi vọng sẽ có thêm hiểu biết về đào tạo Y khoa mang tính quốc tế để tham khảo.

vấn đề khuôn mẫu

https://vnexpress.net/warren-buffett-neu-ly-do-khien-mot-doanh-nghiep-that-bai-4274637.html

Nhân đọc bài viết này, tôi muốn đề cập đến một khía cạnh của nó.

Trong nhiều năm, chúng ta nói chung, đi riêng một con đường. Khi chúng ta hòa nhập thế giới, các vấn đề khoa học tự nhiên bộc lộ rõ các chệch hướng. Tuy nhiên, nó có vẻ dễ dàng được chỉnh sửa theo cách riêng của nó, vì ít bị (chỉ là ít) ảnh hưởng của các yếu tố xã hội. Mà các yếu tố xã hội mới là sự khác biệt ‘khó ưa’, vì bản thân nó nằm trong chính chúng ta. Thế mà muốn đi với nhau, con đường phải giống nhau. Mà để giống nhau, dễ hơn cả là đi từ vẻ bề ngoài.

Một lập luận đáng chú ý là “hình thức và nội dung luôn có sự thống nhất với nhau”. Nếu chỉ đơn giản dùng lập luận này thì dĩ nhiên việc áp dụng các ‘quy trình’ là điều kiện cần và đủ. Xong thật ra, nó chỉ là điều kiện cần. Các CEO mà Warren nói tới đạt điều này. Điều kiện đủ, hay nội dung khó hơn nhiều

Vậy bản chất sự sai lầm này là gì? Đó là xem điều kiện cần như là “đã đủ”. Bề ngoài chỉ là điều kiện cần. Bản thân nó không thể làm ‘đủ’.

Vị thành niên- Bài 2

Bài 2: dậy thì- sự thay đổi ở cơ thể và não bộ

Bài viết này vẫn biên soạn dựa chủ yếu theo tác giả Peter K. Smith. Tuy nhiên có một ví dụ có thể khá thú vị, khi chúng ta đang bàn bạc về khía cạnh liên quan đến giới tính trong tuổi vị thành niên, bạn đọc có thể tham khảo:

https://vnexpress.net/co-be-chuyen-gioi-nho-tuoi-nhat-nuoc-anh-4274559.html

Đọc tiếp “Vị thành niên- Bài 2”

Vị thành niên

Khoa Sức khỏe vị thành niên, được đặt tên bao gồm “vị thành niên”, cũng là một cách đặt tên đặc thù cho các khoa lâm sàng, vì đã có tiền lệ là khoa “Sơ sinh”, khoa “Lão” …, nghĩa là đặt tên theo một giai đoạn phát triển của cuộc đời, mới ra đời ở Bệnh viện Nhi Trung Ương, có nghĩa là nó chưa được phổ biến ở Việt Nam. 

Đọc tiếp “Vị thành niên”

Về vấn đề can thiệp trẻ tự kỉ hiện nay ở Việt Nam

Can thiệp trẻ tự kỉ ở VN hiện nay đã phổ biến hơn cách đây chục năm rất nhiều, nghĩa là dịch vụ được cung cấp khá rộng rãi. Điều này mang lại lợi ích cho trẻ và phụ huynh, không chỉ là kinh tế, hiệu quả mà còn là tạo ra một tâm lý tốt, giúp các gia đình ứng phó dễ dàng hơn với “thử thách của Chúa”.

Đọc tiếp “Về vấn đề can thiệp trẻ tự kỉ hiện nay ở Việt Nam”