Tâm lý học căn bản- sự chú ý

Đây là phần soạn cho giảng dạy về hiểu biết cơ bản về các chức năng tâm lý của con người mà một bác sĩ cần trình bày được. Sách Sức khỏe Tâm thần – tài liệu lưu hành nội bộ của Học việc Y dược học cổ truyền Việt Nam

Định nghĩa

Chú ý là sự tập trung của ý thức vào một (hay một nhóm) đối tượng, sự vật, hiện tượng nào đó và tương đối “thoát ly” khỏi các đối tượng khác.

Chú ý được xem là một trạng thái ý thức “chọn lọc” trong quá trình nhận thức.

Mặc dù phần lớn việc xử lý thông tin của chúng ta là có ý thức, nhưng phần lớn là vô thức và tự động – nằm ngoài ý thức của chúng ta. Ý thức có chọn lọc (chú ý)  của chúng ta, hướng sự ý thức khi đang nhận thức của chúng ta, cho phép chúng ta thu thập thông tin từ nhiều nguồn khi chúng ta suy ngẫm về quá khứ và lập kế hoạch cho tương lai. Chúng ta cũng chú ý khi chúng ta tìm hiểu một khái niệm hoặc hành vi phức tạp. Khi học đi xe đạp, ban đầu, chúng ta tập trung vào vận động của chân với bàn đạp, đồng thời, nhận ra các chướng ngại vật xung quanh mà chúng ta phải tránh và cách sử dụng phanh. Với việc luyện tập (luyện một kĩ năng), việc đạp xe trở nên bán tự động, giúp chúng ta không cần tập trung chú ý vào vận động của chân nữa, thậm chí, với một cung đường quen thuộc thì các chướng ngại vật không còn khiến chúng ta vất vả, mà tập trung những việc khác nữa. Khi làm như vậy, chúng ta trải nghiệm điều mà nhà tâm lý học đầu tiên William James gọi là “dòng ý thức” liên tục, với mỗi khoảnh khắc chảy sang khoảnh khắc tiếp theo. Theo thời gian, chúng ta còn xoay chuyển giữa các trạng thái ý thức khác nhau, bao gồm ngủ, thức và các trạng thái thay đổi khác nhau. (David G. Myers, 2014)

Người ta vẫn thấy: chăm chú nhìn, lắng tai nghe, … là những biểu hiện của chú ý. Chú ý không có đối tượng riêng, đối tượng của nó chính là đối tượng của tri giác mà nó “đi kèm”. Chú ý thường thể hiện qua những biểu hiện bề ngoài tại cơ quan giác quan… Nhưng những biểu hiện này chỉ là bề ngoài, vì sự chú ý thực sự luôn luân chuyển hoặc thay đổi theo quá trình nhận thức có ý thức, vì thế người ta có thể “vờ chú ý” hoặc “vờ không chú ý” khi nhấn mạnh vào biểu hiện giác quan không tương ứng với sự chú ý.

Vậy chú ý được coi là biểu hiện của các hoạt động nhận thức có ý thức.

Các loại chú ý

Việc phân loại này cần thiết cho việc mô tả lâm sàng, phản ánh sự tự nguyện của cá nhân. Có 3 loại chú ý: chú ý không chủ định, chú ý có chủ định và chú ý sau chủ định.

Chú ý không chủ định là loại chú ý không có mục đích tự giác, không cần có sự nỗ lực của bản thân. Chú ý không chủ định phụ thuộc vào đặc điểm của kích thích như:

– Tính chất bất ngờ, mới lạ của kích thích

– Cường độ kích thích

– Sự tương phản giữa vật kích thích và bối cảnh

Loại chú ý này thường nhẹ nhàng, ít căng thẳng, nhưng kém bền vững, khó duy trì lâu dài, do các quy luật về tri giác chi phối, không có tính tự nguyện (xử lý thông tin từ dưới lên).

Chú ý có chủ định là loại chú ý có mục đích định trước hoặc do tiếp thu mệnh lệnh (của người khác) và phải có sự nỗ lực của bản thân, còn gọi là sự chọn lọc chú ý- liên quan đến nhận thức, có tính tự nguyện, một cách hoạt động tư duy (xử lý thông tin từ trên xuống). Loại chú ý này thường có thể duy trì tương đối lâu dài nhưng căng thẳng, mệt mỏi.

Chú ý sau chủ định vốn là chú ý có chủ định, nhưng không đòi hỏi sự căng thẳng của ý chí, lôi cuốn con người vào nội dung và phương thức hoạt động tới mức khoái cảm (động lực thúc đẩy hay cảm xúc).

Ví dụ: khi bắt đầu đọc sách đòi hỏi phải có chú ý có chủ định, nhưng càng đọc ta càng bị lôi cuốn vào nội dung của cuốn sách,  nói cách khác, nội dung này đã mang lại cho chúng ta động lực, mà không cần sự nỗ lực cao, sự căng thẳng của ý chí. Như vậy, là chú ý có chủ định đã chuyển thành chú ý sau chủ định.

Các thuộc tính của chú ý

Các thuộc tính, hay nói cách khác, là các đặc điểm, có thể dùng để mô tả về sự chú ý của cá nhân tại một thời điểm.

Sức tập trung của chú ý là khả năng chú ý đến một phạm vi đối tượng tương đối hẹp. Phạm vi đối tượng càng hẹp thì sức tập trung chú ý càng cao, cường độ chú ý càng lớn và hiệu quả công việc cũng càng cao, phản ánh đối tượng càng rõ ràng, chính xác.

Hiện tượng “đãng trí bác học” là do quá trình tập trung vào một đối tượng nào đó, khiến chú ý không phân phối được sang các đối tượng khác hay phạm vi khác khi cần thiết.

Số lượng chú ý là số lượng các đối tượng (hay số lượng bộ phận của một đối tượng) được tri giác đồng thời với nhau. Nghĩa là trong cùng một lúc, mức độ sáng tỏ và rõ ràng của các mục tiêu ấy đều được cảm thụ như nhau.

Nếu không có tập luyện, thì việc chú ý đến nhiều đối tượng sẽ là sự phân phối chú ý là khả năng luân phiên sức tập trung chú ý (di chuyển chú ý rất nhanh) đến vài ba phạm vi đối tượng mà vẫn phản ánh từng phạm vi đó rõ ràng, chính xác như nhau. Đặc điểm này thường phản ánh sự thuần thục của hoạt động, chứ một hoạt động mới mẻ thường không thể có thuộc tính này của sự chú ý.

Sự bền vững của chú ý là duy trì chú ý lâu hay chóng vào một hay một số phạm vi đối tượng của hoạt động. Khả năng này phụ thuộc vào: cường độ kích thích, sự trưởng thành của hệ thần kinh, tính chất của hoạt động, khả năng nhận thức…

Người ta nghiên cứu thấy rằng trong sự bền vững của chú ý có sự dao động –  là sự sao nhãng, phân tách, hay nói chính xác là sự không tập trung chú ý vào đối tượng chính trong khoảng từ 3-15 giây theo những chu kỳ nhất định, nhưng không xa rời đối tượng của chú ý. Sự bền vững chú ý phát triển theo độ tuổi. Trẻ em có sức bền chú ý tương đối thấp, nên bố trí thời gian cho một giờ học ở trẻ mẫu giáo bé chỉ vào khoảng 10 phút.

Đăng bởi anhdo73

Hoạt động can thiệp đa ngành: Tâm lý lâm sàng, Tâm thần, Phục hồi chức năng, Y học cổ truyền

Bình luận về bài viết này