24 GIỜ TRONG ĐỜI MỘT NGƯỜI ĐÀN BÀ- phần 2

Tôi đã gây ra tiếng động hay tôi đã vô tình nói gì chăng? Tôi không biết nữa. Người đang ngủ bỗng mở trừng mắt. Tôi hoảng sợ, vội lùi bước. Anh ta ngạc nhiên nhìn chung quanh, như tôi vừa làm trước đó, và anh ta như khó nhọc lắm mới vượt khỏi cảnh hỗn độn và sâu thẳm vô biên. Anh cố gắng lắm mới nhìn một lượt được hết gian phòng lạ này và khi nhìn đến tôi, anh ngừng lại, vẻ kinh hoàng. Nhưng trước khi anh ta nói hay tỉnh hẳn, tôi cũng đã lấy lại được bình tĩnh. Không thể để anh nói câu nào, hỏi gì, có một cử chỉ thân mật nào; không thể để bất cứ việc gì đã xảy ra hôm qua và đêm qua, được nhắc lại, được giải thích và được bàn cãi.

– Tôi phải đi đây, – tôi vội nói với anh ta. – Còn anh, anh ở lại đây và mặc quần áo vào. Đến trưa, tôi sẽ gặp anh ở cửa casinô. Ở đó, tôi sẽ lo liệu cho đủ những thứ anh cần.

Và trước khi anh ta có thể nói được một câu, tôi đã bỏ đi để khỏi phải trông thấy gian phòng này; tôi chạy và không quay đầu lại khỏi căn nhà, mà đến tên nhà cũng như tên người lạ đã qua đêm với tôi, tôi cũng không biết.

Bà C… ngừng kể để trấn tĩnh lại. Nhưng vẻ căng thẳng và day dứt đã không còn trong giọng nói của bà. Như một chiếc xe, thoạt đầu leo dốc khó nhọc bao nhiêu, sau khi lên đến đỉnh, lại xuống dốc nhẹ nhàng, mau lẹ bấy nhiêu, câu chuyện của bà như được chắp cánh và bà kể tiếp, phơi phới:

– Thế là tôi chạy về nơi tôi ở, qua những đường phố sáng rực ánh ban mai, cơn giông đã xua tan khỏi bầu trời mọi đám mây, như lúc này đây, mọi cảm giác đau đớn đã tiêu tan trong tôi. Tuy vậy, ông đừng quên điều tôi đã kể cho ông nghe qua rồi nhé, từ ngày chồng tôi chết, tôi hoàn toàn từ bỏ cuộc sống. Các con tôi không cần đến tôi, tôi không lo cho bản thân tôi nữa, mà cuộc sống không mục đích rõ rệt quả là một sai lầm. Và đây là lần đầu tiên, thật bất ngờ, tôi đã có một sứ mạng, tôi đã cứu được một người, tôi đã tận dụng tất cả sức lực của tôi để giành giật anh ta ra khỏi sự tự huỷ hoại mình. Bây giờ chỉ còn phải chiến thắng một chướng ngại vật nhỏ để hoàn thành sứ mạng đó.

Tôi về đến khách sạn của tôi; người gác ngạc nhiên nhận thấy tận chín giờ sáng tôi mới về; cái nhìn của người đó không làm tôi bận tâm; nỗi hổ thẹn hay sự buồn phiền cũng không còn ở tôi nữa; mà ý muốn được sống đột ngột trở lại với tôi; ý thức mới về cuộc đời mình đã trở nên hữu ích, làm máu trong người tôi chảy dồi dào và nồng nàn hơn. Về đến phòng, tôi vội vàng thay quần áo tang mà không biết (mãi sau này, tôi mới để ý) để mặc bộ khác sáng sủa hơn; tôi ra ngân hàng rút tiền, tôi vội ra ga hỏi giờ tàu chạy với một quyết tâm làm bản thân tôi cũng phải ngạc nhiên; ngoài ra tôi còn giải quyết một vài vịêc khác và vài cuộc hẹn hò. Tôi chỉ còn phải bảo đảm cho việc trở về nước và cứu sống hoàn toàn một con người mà số mệnh đã trao cho tôi.

Thật ra bây giờ tôi cần phải có nghị lực để gặp lại anh ta. Bởi vì hôm qua, tất cả đã xảy ra trong bóng tối, trong một cơn lốc, như khi hai hòn đá bị cuốn theo dòng thác bỗng va phải nhau, chúng tôi chỉ thoáng quen, mới nhìn qua mặt nhau, và tôi cũng không dám chắc là người lạ kia có thể nhận ra được tôi. Hôm trước còn là một sự tình cờ, một cơn say, một sự điên rồ ma quái của hai kẻ lạc lõng, còn hôm nay tôi phải tìm đến anh ta một cách cởi mở hơn, bởi vì hôm nay, dưới ánh sáng khắc nghiệt của ban ngày, tôi bắt buộc phải sáp lại gần anh ta với thân thể, với bộ mặt của tôi, với tư cách là một con người.

Nhưng tất cả những điều đó đã xảy ra dễ dàng hơn tôi tưởng. Đúng giờ hẹn, tôi vừa tới casinô, thì một người trẻ tuổi, từ một chiếc ghế dài đã đứng dậy và chạy tới trước tôi. Có một cái gì tự nhiên, thơ trẻ, chất phác, sung sướng trong vẻ ngạc nhiên cũng như trong mỗi cử chỉ thật ý nhị của anh ta, anh như bay lại với tôi, trong ánh mắt anh, có một tia vui với vẻ biết ơn và kính trọng và khi mắt anh cảm thấy mắt tôi bối rối trước sự hiện diện của anh, chúng khiêm nhường cúi xuống. Chao! Lòng biết ơn, thật hiếm thấy bộc lộ ở đàn ông! Và chính những người chịu ơn nhiều nhất lại không tìm ra cái vẻ cần phải có; họ nín lặng, lúng túng; họ xấu hổ và ra vẻ bối rối để che giấu tình cảm của họ. Nhưng ở đây, trong con người này, mà Chúa, như một nhà điêu khắc bí mật, đã tạo ra những cử chỉ có khả năng thể hiện mọi tình cảm một cách nhạy bén, đẹp đẽ, uyển chuyển, dáng điệu biết ơn sáng toả như vẻ nhiệt tình ánh lên qua cơ thể.

Anh ta cúi xuống hôn tay tôi, cái đầu trẻ thơ kéo thành một đường thẳng với thân người, sùng kính. Anh cứ ở yên như vậy tới một phút, kính cẩn hôn những ngón tay tôi mà chỉ dám khẽ chạm vào chúng, rồi anh lùi lại, hỏi thăm sức khoẻ tôi, nhìn tôi với vẻ cảm kích, lời nào của anh ta cũng lễ độ đến nỗi chỉ vài phút sau, tôi không còn e ngại gì nữa.

Và như do nơi tinh thần tôi được nhẹ nhõm, cảnh vật quanh chúng tôi cũng sáng lên, hoàn toàn êm dịu, lặng lẽ và trong trẻo đến mức, từ chỗ chúng tôi đứng, chúng tôi thấy rõ màu trong sáng của từng viên sỏi dưới những làn sóng nhỏ viền ven bờ; nhà casinô, cái vực thẳm độc địa, sừng sững hiện lên với vẻ rực rõ chói chang trên bầu trời trong trẻo tươi mát, cái quán hôm qua chúng tôi còn nép sát vào nhau dưới mái hiên để tránh cơn mưa tầm tã đã trở thành một quầy bán hoa rực rỡ, ở đó có hằng hà sa số những bó lớn hoa và lá đủ màu sắc sặc sỡ, trắng, đỏ, xanh, do một cô hàng hoa mặc áo blu màu tươi sáng đứng bán.

Tôi mời người lạ đó ăn trưa ở một quán nhỏ tại đây, chàng trai kể cho tôi nghe câu chuyện về cuộc phiêu lưu bi thảm của anh ta. Đó là sự xác nhận hoàn toàn linh cảm đầu tiên của tôi khi tôi trông thấy trên tấm thảm xanh, những bàn tay run rẩy và sôi nổi một cách nóng nảy của anh. Anh ta thuộc dòng dõi một gia đình quý tộc lâu đời của Ba Lan thuộc Áo; anh ta theo đuổi sự nghiệp ngoại giao, anh học ở Viên và một tháng trước đây, anh đã thi kì sát hạch đầu tiên với kết quả đặc biệt rực rỡ. Để ăn mừng ngày này, bác anh, một sĩ quan cao cấp thuộc Bộ Tổng tham mưu, người đã cho anh trọ học tại nhà ông, đưa anh đi xe ngựa đến công viên Prater rồi cả hai bác cháu cùng đến trường đua ngựa. Ông bác đánh bạc gặp vận đỏ, ông được ba lần liền, sau đó túi đầy một mớ giấy bạc. Kiếm được như vậy, cả hai đã ăn tối tại một nhà hàng sang trọng. Hôm sau, phần thưởng về thành công trong kì sát hạch đối với nhà ngoại giao tương lai là một món tiền bằng một tháng lương, do ông bố thưởng. Hai ngày trước, món tiền này đối với anh ta là rất lớn; giờ đây, với cách kiếm tiền dễ dàng, nó trở thành vô nghĩa và nhỏ. Cho nên sau bữa ăn trưa, anh quay lại trường đua, đánh cá một cách say mê và cuồng nhiêt, và thật hạnh phúc cho anh (nói bất hạnh cho anh thì đúng hơn) là sau cuộc đua chót, anh rời khỏi Prater với số tiền nhân lên gấp ba.

Từ đó, nỗi đam mê cờ bạc đến điên dại, lúc thì ở trường đua ngựa, lúc ở các quán cà phê hay ở các câu lạc bộ, đã xâm chiếm anh, làm tiêu tan thời gian, việc học hành, tâm thần và nhất là các nguồn thu nhập của anh. Anh còn suy nghĩ, ngủ yên được, lại càng không tự chủ được mình; có một lần, vào ban đêm, sau khi đã thua cháy túi, anh từ câu lạc bộ trở về nhà, khi cởi quần áo, anh thấy một tờ giấy bạc nhàu nát còn sót ở áo gilê của mình, thế là, không kìm giữ được mình nữa, anh lại mặc quần áo đi mò mẫm khắp nơi, cho đến khi gặp tại một quán cà phê nào đó những người chơi bài đô-mi-nô và anh ngồi luôn với họ cho đến tảng sáng.

Một ngày, chị anh, đã có gia đình, đã giúp anh trả những món nợ vay của những kẻ chuyên cho vay lấy lời, lúc nào cũng sẵn sàng ứng tiền trước cho người kế thừa một dòng họ có tiếng tăm lớn. Rồi một thời gian, vận đỏ đã đến với anh, nhưng sau đó là vận đen liên tục, và anh càng thua thì những cam kết không giữ đúng, lời hứa danh dự không đảm bảo được, đòi hỏi những món tiền lớn để tự cứu lấy mình. Trước đó, từ lâu, anh đã cầm đồng hồ, quần áo của mình và cuối cùng hành động đáng sợ đã xảy ra: anh ăn cắp của bà bác già của anh, hai chiếc nút áo lớn có nạm kim cương mà bà ít dùng tới, ở trong tủ của bà. Anh cầm một chiếc lấy một số tiền lớn, ngay tối hôm đó, nhờ đánh bạc, đã được nhân lên gấp bốn. Nhưng đáng lẽ phải rút lui, anh liều đánh tất cả số tiền đó và anh đã thua.

Khi anh ra đi, vụ đánh cắp chưa ai biết; thế là anh cầm món đồ châu báu thứ hai và ngẫu hứng anh được một mạch tới Môngtơ Cáclô, mong giành được tại bàn rulét một món tiền lớn hằng mơ ước. Anh đã bán cái rương, quần áo, cái dù của anh; bây giờ anh chỉ còn cây súng ngắn với bốn viên đạn và một cây thập tự nhỏ gắn kim cương của bà mẹ đỡ đầu anh, công chúa X…, đã cho anh, mà anh không muốn rời. Rồi buổi trưa, anh cũng bán cây thập tự đó lấy năm mươi phrăng chỉ để ngay chiều ấy thưởng thức niềm vui run rẩy của bài bạc, của cái sống hay cái chết.

Anh kể tất cả những điều đó với vẻ duyên dáng quyến rũ của anh, vốn biết làm cho mọi vật trở nên linh hoạt. Và tôi nghe, chăm chú, bùi ngùi, rung động và nghẹn ngào, nhưng không một lúc nào, tôi có ý nghĩ khinh thường con người đang ngồi cùng bàn với tôi, chẳng qua cũng chỉ là một tên kẻ cắp. Nếu hôm trước, có ai chỉ bóng gió nói rằng tôi, một người đàn bà có quá khứ không chê trách được, vẫn đòi hỏi ở những ai quan hệ với mình, phải có tư cách đàng hoàng, nề nếp, lại có ngày ngồi thân mật bên một chàng trai trẻ, hoàn toàn xa lạ, chỉ hơn tuổi con mình một chút, lại là kẻ đã đánh cắp kim cương, tôi sẽ cho người đó là điên.

Và không một lúc nào, tôi thấy có cảm giác kinh sợ khi nghe chuyện anh ta kể, anh ta kể tất cả, tự nhiên và say sưa đến mức hình như hành động của anh có vẻ là hậu quả của một cơn sốt, một cơn bệnh hơn là một việc phạm pháp xấu xa. Sau đó, đối với một người như tôi, trong đêm qua đã trải qua những sự kiện quá bất ngờ, dồn dập như thác đổ, cái từ “không thể có được” bỗng mất hết ý nghĩa. Trong mười giờ ấy, kinh nghiệm tôi học được từ thực tế lớn hơn nhiều so với kinh nghiệm mà bốn mươi năm cuộc đời trưởng giả đã dạy cho tôi.

Nhưng có một điều làm tôi thấy kinh sợ trong cuộc thú tội này, đó là cái ánh bừng bừng trong cặp mắt anh, đã làm rung động tấ cả các cơ bắp trên mặt anh, khi anh nói về nỗi mê say cờ bạc. Chỉ việc kể chuyện một cách tự nhiên cũng kích thích anh rồi và bộ mặt sinh động của anh mô tả rất rõ ràng những giai đoạn căng thẳng diễn ra lần lượt trong anh, bằng những nét vui mừng hay đau khổ. Vô tình, bàn tay anh, những bàn tay đẹp tuyệt vời, nóng nảy, khớp ngón mềm mại, đã trở lại với bản chất của nó, như tại bàn bạc, thành những sinh vật tham lam, dữ tợn và lén lút; trong khi anh ta kể, tôi thấy những khớp đốt của chúng bỗng rung lên, cong vội lại và co quắp nắm chặt lấy nhau rồi lại duỗi ra để cuối cùng ấp lấy nhau.

Và tới lúc anh thú nhận ăn cắp những chiếc khuy, chúng làm điệu bộ kẻ cắp, nhảy nhót, nhanh như chớp, (vô tình tôi đã rùng mình); tôi thấy rõ ràng những ngón tay lao như điên vào món đồ trang sức, giấu vội nó vào lòng bàn tay. Và tôi thấy hãi hùng không sao kể xiết là con người này đã bị nỗi đam mê cờ bạc đầu độc cho đến giọt máu cuối cùng.

Trong câu chuyện, điều làm tôi xúc động và khiếp đảm quá chừng, đó chỉ là sự lệ thuộc của một người trẻ, bản chất vô tư vào một nỗi đam mê điên dại. Cho nên tôi thấy bổn phận đầu tiên là thân mật khuyên nhủ con người tạm thời chịu ơn tôi này, hãy rời ngay Môngtơ Cáclô tức khắc, nơi mà sự cám dỗ còn rất nguy hiểm, anh ta cần phải về với gia đình, ngay trong ngày nay, trước khi việc đánh cắp các khuy áo bị lộ và tương lai anh sẽ vĩnh viễn bị tan nát. Tôi hứa sẽ cho anh tiền đi đường và tiền chuộc lại món đồ trang sức, nhưng với điều kiện, anh phải lên tàu ngay trong hôm nay và anh phải thề danh dự với tôi là anh sẽ không bao giờ sờ tới một lá bài hay chơi bất cứ một trò đỏ đen nào.

Tôi sẽ không bao giờ quên sự biết ơn nồng nhiệt thoạt đầu khiêm tốn, sau đó rạng rỡ, của người lạ này, con người đã tuyệt vọng, khi nghe tôi nói; tôi sẽ không bao giờ quên vẻ anh ta như uống từng lời của tôi khi tôi hứa sẽ giúp anh; và bỗng nhiên anh đưa hai bàn tay anh lên bàn để nắm lấy tay tôi trong một cử chỉ vừa là quý mến, vừa là chịu ơn một cách thiêng liêng. Trong đôi mắt sáng của anh, tới lúc đó còn mơ hồ, thấy long lanh những giọt lệ; toàn thân anh run lên mạnh mẽ, cảm động vì sung sướng.

Tôi đã nhiều lần cố gắng mô tả cách biểu thị duy nhất của sắc mặt và dáng điệu của anh; nhưng cử chỉ ấy, tôi không sao miêu tả nổi, vì đây là một vẻ sung sướng ngây ngất, siêu phàm chưa từng thấy được trên mặt người, chỉ có thể so sánh với cái bóng trắng mà người ta tưởng nhìn thấy lúc tỉnh mộng, khi nghĩ rằng trước mặt ta là một thiên thần vừa biến mất.

Tại sao tôi lại che giấu điều này nhỉ? Tôi không thể cưỡng lại sự kích động của cảnh đó. Lòng biết ơn làm người ta sung sướng, vì ít khi nó hiện lên cho ta thấy được; sự thanh lịch tạo ra điều tốt lành và với tôi, vốn là một người lạnh lùng, mực thước, vẻ phấn khởi đến như vậy là một điều mới mẻ, tốt lành và thú vị. Giống như con người bị dao động và rã rời này, cảnh vật sau trận mưa hôm qua, cũng hoan hỉ một cách diệu kì.

Khi chúng tôi ra khỏi khách sạn, biển hoàn toàn lắng dịu, long lanh, tuyệt đẹp, xanh vút lên tận chân trời. Chỉ có những điểm trắng ở những chỗ chim hải âu bay trên một màu xanh khác, màu xanh của bầu trời. Ông biết phong cảnh ở Riviêra rồi nhỉ? Nó luôn gợi lên một cảm giác đẹp đẽ nhưng tẻ nhạt, giống như một bưu thiếp in phong cảnh, nó phơi bày trước mắt ta một cách mềm mại những màu sắc luôn gay gắt, kiểu một người đẹp mơ màng, uể oải, gần giống tính cách của phương Đông để cho mọi người ngắm nhìn mà vẫn dửng dưng.

Nhưng thỉnh thoảng có những ngày, rất hiếm, vẻ đẹp đó bừng lên, hiện ra lộng lẫy, với những màu sắc rực rỡ, chói ngời, cuồng nhiệt, và người ta phải choáng ngợp trước vẻ sang giàu của những bông hoa, loè loẹt, nổ bung ra, nồng nàn, đầy gợi cảm. Một ngày hưng phấn như vậy đã tiếp theo cảnh hỗn loạn không sao kiềm chế được của đêm giông tố, đường phố được cọ rửa như mới, bóng lên, sáng lạn, bầu trời màu xanh lam và trong khóm lá xanh, nhựa tràn trề, những chùm hoa rực lên nhưng những ngọn đuốc. Núi bỗng như rõ nét và sát lại nhau hơn trong bầu không khí êm dịu tràn ngập ánh nắng, chúng tụ lại thật gần cái thành phố sáng láng được rửa chùi kỹ càng; trong mỗi ánh mắt, người ta cảm thấy lời chào mời sôi nổi, và những khích lệ của tạo vật làm tự nhiên lòng người thấy hồi hộp:

– Chúng ta lên xe đi một vòng quanh đường núi đi, – tôi nói.

Anh ta gật đầu, hân hoan; hình như từ khi tới đây, lần đầu tiên, chàng trai mới nhìn và để ý đến phong cảnh. Cho tới lúc này, anh ta chỉ biết gian phòng ngột ngạt của casinô, với mùi nước hoa lẫn mùi mồ hôi, với cảnh ồn ào của những con người xấu xí, nét mặt nhăm nhúm, và chỉ biết một đại dương rầu rĩ, xám xịt và hỗn độn. Nhưng giờ đây, bờ biển mênh mông xoè ra hình rẻ quạt, tràn ngập ánh nắng, trải trước mắt chúng tôi và chúng tôi nhìn cảnh bao la với niềm hạnh phúc. Chúng tôi cho xe đi chầm chậm (lúc đó chưa có ô tô) trên con đường lộng lẫy, ngang qua vô số những biệt thự, núp dưới bóng lá xanh của những cây thông, xòe tán, người ta luôn có ham muốn thầm kín: được sống tại đây, an nhàn, thoả mãn, xa lánh nơi trần tục, thích biết bao!

Trong cuộc đời, tôi đã có lúc nào sung sướng hơn lúc này không? Bên cạnh tôi, trong xe, chàng trai này, hôm qua còn bị định mệnh và cái chết siết chặt, bây giờ được những tia nắng sáng của mặt trời tạo cho một ánh hào quang, như trẻ hơn đến vài tuổi. Anh như trở lại thành đứa trẻ nhỏ, một đứa bé xinh xắn, mê chơi, có đôi mắt nồng nàn đồng thời đầy vẻ lễ độ; điều làm cho tôi thấy vui thích hơn cả là sự ân cần tinh tế, linh hoạt của anh ta: đường đi qua dốc, ngựa kéo xe lên một cách khó nhọc, anh nhanh nhẹn nhảy xuống đẩy phía sau. Tôi nói tên một bông hoa dọc đường đi, anh chạy ngay hái bông hoa đó. Anh ta nhấc và đặt cẩn thận trên thảm cỏ xanh một con cóc nhỏ do theo trận mưa hôm qua, đang khó nhọc lê lết trên đường để nó khỏi bị xe cán; trong lúc ấy, anh kể những chuyện vui, có duyên nhất, đầy vẻ hào hứng; tôi tưởng như cách cười của anh ta cũng là một hành động chuyển hoán bởi vì không cười, anh sẽ buộc phải hát, phải nhảy hay phải làm trò hề vì trong thái độ đột nhiên phấn khởi của anh, có không biết bao nhiêu hạnh phúc và cảm hứng.

Khi lên tới đỉnh dốc, chúng tôi từ từ đi ngang qua một thôn nhỏ, anh bất thần kính cẩn bỏ mũ. Tôi ngạc nhiên: anh ta là người ngoại quốc, giữa những người xa lạ, anh chào ai vậy? Anh hơi đỏ mặt khi tôi hỏi và anh nói, gần như có vẻ tạ lỗi, rằng chúng tôi vừa đi qua một nhà thờ, và ở Ba Lan, quê hương anh, cũng như ở tất cả các nước sùng đạo, ngay từ nhỏ, người ta đã có thói quen ngả mũ trước nhà thờ và nơi chính điện.

Sự tôn kính trước những nơi thờ phụng ấy làm tôi xúc động sâu sắc; cùng lúc đó, tôi cũng nhớ tới cây thập tự mà anh ta đã nói với tôi, và tôi hỏi anh ta có phải là người mộ đạo không; khi anh ta khiêm nhường nhận là anh hi vọng được cứu rỗi tâm hồn, một ý nghĩ bỗng vụt đến với tôi:

– Dừng lại, – tôi kêu người đánh xe và tôi vội vã xuống xe.

Anh ta theo tôi, ngạc nhiên và hỏi:

– Chúng ta đi đâu vậy?

Tôi chỉ nói:

– Cứ theo tôi!

Tôi đi trở lại, anh ta theo tôi, về phía nhà thờ, một giáo đường nhỏ nơi thôn dã, xây bằng gạch. Trong bóng tối mờ mờ, những bức tường ở phía trong được quét với màu xám, mộc mạc, cửa để mở và một luồng ánh sáng vàng, tròn, nổi bật lên, rõ ràng, trong bóng tối; ở đó hiện lên đường viền xanh mờ của một bàn thờ nhỏ. Hai cây nến như hai con mắt mờ mờ, trong ánh chiều tà, nồng lên một mùi nhang, thơm nóng. Chúng tôi đi vào trong, anh bỏ mũ nhúng tay vào bình nước phép, làm dấu và quỳ gối. Anh ta vừa đứng lên là tôi nắm lấy cánh tay anh.

– Lại đây, – tôi nói một cách cương quyết – tới chỗ bàn thờ này hay tới một bức tranh đối với anh là thiêng liêng này, anh sẽ thề những lời mà tôi đọc cho anh.

Anh ta ngạc nhiên nhìn tôi gần như khiếp sợ nhưng anh ta hiểu ra ngay và anh đến gần một cái khám xây trong đó có một pho tượng, làm dấu và ngoan ngoãn quỳ gối.

– Hãy nhắc lại theo tôi – tôi nói mà chính mình cũng hồi hộp run lên – nhắc lại theo tôi “Tôi xin thề (anh ta nhắc lại “tôi xin thề” và tôi nói tiếp) từ nay tôi sẽ không bao giờ chơi cờ bạc nữa, bất kể môn bài gì và tôi cũng không bao giờ liều cuộc sống và danh dự của mình trước nguy cơ của nỗi đam mê đó”.

Anh ta run run nhắc lại những lời ấy; âm thanh của tiếng nói vang lên một cách mạnh mẽ và rành mạch trong cảnh tĩnh mịch tuyệt đối này. Rồi có một lúc im lặng, đến nỗi có thể nghe thấy tiếng lá cây rì rào khi gió thoảng qua. Bỗng anh ta quỳ gối như một kẻ ăn năn sám hối và anh nói bằng tiếng Ba Lan, với một vẻ ngây ngất tôi chưa từng thấy ở anh, những lời vội vã, nối tiếp nhau, mà tôi không hiểu gì. Nhưng chắc đây là một lời nguyện mến Chúa, một lời nguyện tạ ơn, ăn năn vì cuộc xưng tội giông bão này làm anh cứ khúm núm gục mãi xuống nhắc lại mỗi lúc một say sưa, mỗi lúc một sôi nổi, vẫn một câu nói đó cứ được thốt ra với một lòng nhiệt thành vô hạn. Từ trước đến nay cũng như từ đó về sau, tôi chưa bao giờ được nghe ai cầu nguyện như vậy, ở bất cứ nhà thờ nào trên trái đất này. Bàn tay anh nắm cứng lấy chiếc ghế quỳ bằng gỗ, một cơn bão lòng làm toàn thân anh rung lên, có lúc làm anh đứng phắt dậy, có lúc đẩy anh quỳ sụp xuống. Anh ta không nhìn thấy, không cảm thấy gì hết; hình như tất cả những gì ở trong anh đang diễn ra tại một thế giới khác, tại nơi luyện ngục, cho tinh khiết, hoặc trong một nỗi hăm hở hướng về một thiên cầu trong sáng hơn.

Sau cùng anh từ từ đứng dậy, làm dấu một lần nữa và quay lại một cách khó nhọc, đầu gối anh rung lên, mặt anh tái nhợt như một người kiệt sức. Nhưng khi trông thấy tôi, mắt anh sáng lên, một nụ cười trong sạch, thật sự thành kính làm bộ mặt anh đang cúi xuống rạng rỡ lên, anh lại gần tôi, cúi rất thấp, theo kiểu Xla-vơ, và nắm lấy hai bàn tay tôi, kính cẩn đặt nhẹ môi lên đó.

– Chúa đã phái bà đến với tôi. Tôi vừa tạ ơn Người.

Tôi không biết nói gì. Nhưng tôi cầu mong từ trên chiếc bục nhỏ, tiếng đàn ông bỗng vang lên vì tôi cảm thấy đã thành công hoàn toàn: con người này đã được vĩnh viễn cứu sống.

Chúng tôi ra khỏi nhà thờ để trở lại với ánh sáng chói chang và xán lạn của tháng năm này; chưa bao giờ tôi thấy thế giới lại đẹp như hôm nay. Chúng tôi còn đi xe trong hai giờ nữa, chầm chậm, lên tận đỉnh núi, theo con đường dài ngoạn cảnh, mỗi đoạn ngoặt lại phơi bày một phong cảnh mới. Nhưng chúng tôi không nói gì nữa. Sau khi tình cảm đã được khích lệ như vậy, lời lẽ nào cũng yếu ớt, vô ích. Và khi mắt tôi vô tình gặp mắt anh, tôi phải quay đi, ngượng ngùng; được nhìn thấy phép màu của mình làm cho tôi quá xúc động.

Khoảng năm giờ chiều, chúng tôi trở về Môngtơ Cáclô. Lúc đó, tôi hẹn gặp những người họ hàng thân thuộc không thể bỏ lỡ được. Thật tình, tôi cũng muốn có một lúc tạm nghỉ, một sự hưu dưỡng sau khi tình cảm bị kích thích mạnh mẽ. Vì đó là quá nhiều hạnh phúc. Tôi cảm thấy cần phải có một sự khuây khoả cho tình trạng ngất ngây sôi nổi phi thưòng như tôi chưa từng biết trong cuộc đời mình. Vì vậy, tôi yêu cầu người đang chịu ơn tôi tới khách sạn nơi tôi ở, chỉ một lát thôi. Và tại đấy, trong phòng của tôi, tôi đưa cho anh ta số bạc cần thiết để đi đường và để chuộc lại món đồ trang sức. Chúng tôi đồng ý với nhau là trong khi tôi đến chỗ hẹn của tôi, anh ta sẽ đi lấy vé xe lửa rồi buổi tối, hồi bảy giờ, chúng tôi sẽ gặp nhau tại sân ga, nữa giờ trước trước giờ khởi hành của chuyến tàu sẽ đi qua Giên rồi đưa anh về nhà. Khi tôi đưa ra cho anh năm tờ giấy bạc, môi anh ta tái nhợt một cách lạ kì:

– Không… không đưa tiền… Tôi xin bà… Không đưa tiền! – Anh ta nói qua hai hàm răng mím lại, còn những ngón tay run rẩy của anh rụt lại vẻ hoảng hốt, lập cập.

– Không đưa tiền… Không đưa tiền. Tôi không thể trông thấy tiền được – anh nhắc lại một lần nữa, như bị sợ hãi và ghê tởm và hoảng hốt. Nhưng tôi đã xoa dịu sự lo ngại của anh, nói rằng đây chỉ là tiền cho mượn và nếu anh thấy bứt rứt, anh chỉ cần làm giấy biên nhận cho tôi.

– Phải… Phải… một giấy biên nhận – Anh ta quay mặt đi, lẩm bẩm nói; anh vò nhàu những tờ giấy bạc như một vật gì nhầy nhụa, làm bẩn những ngón tay anh rồi bỏ tiền vào túi mà không thèm nhìn và anh viết vài chữ, bằng những nét vội vã trên một tờ giấy. Khi anh ngước mắt lên, trán anh lấm tấm mồ hôi: có cái gì đang đấu tranh mãnh liệt ở trong anh để toát ra ngoài cơ thể; anh vừa đưa vội cho tôi mảnh giấy thì toàn thân anh run lên mạn mẽ, đột nhiên anh quỳ xuống hôn gấu áo tôi (làm tôi hoảng hốt lùi lại). Cử chỉ không sao kể lại được: sự sôi nổi chưa từng thấy trong anh ta làm tôi run lên. Một cơn rùng mình kì lạ chạy suốt cơ thể tôi, tôi thấy bối rối và chỉ ấp úng nói được:

– Tôi cảm ơn anh đã tỏ ra biết ơn đến như vậy, nhưng xin anh hãy đi ngay đi. Tối nay, bảy giờ, tại sân ga, chúng ta sẽ tạm biệt nhau.

Anh ta nhìn tôi, một ánh dịu dàng làm ướt mắt anh; tôi tưởng như anh muốn nói điều gì trong giây lát, anh có vẻ muốn lại gần tôi. Nhưng sau đó, anh chỉ cúi gập người một lần nữa, thật thấp, rất thấp và anh rời khỏi phòng.

* *

Bà C… lại ngưng kể một lần nữa. Bà đứng dậy đi ra cửa sổ, bà nhìn ra ngoài và đứng thật lâu, không nhúc nhích. Trông từ phía sau, tôi thấy lưng bà như hơi rung lên nhè nhẹ. Bỗng nhiên bà quay lại, vẻ quả quyết, bàn tay bà, cho đến lúc này bình thản và lạnh lùng, bỗng phác một cử động mạnh mẽ, một cử động gay gắt như muốn xé một vật gì. Rồi bà nhìn tôi, vẻ gay gắt, gần như táo bạo và nói tiếp ngay:

– Tôi đã hứa với ông là sẽ hoàn toàn thành thật. Và tôi nhận thấy lời hứa đó cần thiết đến chừng nào vì bây giờ đây, trong khi cố gắng thuật lại, lần đầu tiên, mạch lạc, tất cả những gì đã xảy ra trong giờ phút ấy và tìm những lời lẽ chính xác để thể hiện một tình cảm lúc ấy còn bí ẩn và mơ hồ, đến nay, tôi mới hiểu rõ những điều mà tôi không biết hoặc không muốn biết, nên tôi muốn nói với nghị lực và quyết tâm, sự thật do bản thân tôi và cho ông; thế là vào lúc đó, khi người con trai rời khỏi phòng và chỉ còn lại mình tôi, tôi có cảm giác (như một cơn ngất xỉu mạnh đã ập đến với tôi) như tim tôi đã bị vật rắn đập mạnh. Một cái gì đó làm tôi đau đến chết, và tôi không biết (hoặc tôi từ chối không chịu biết) tại sao thái độ dịu dàng kính nể như vậy của người chịu ơn tôi lại làm tôi đau đớn như vậy.

Nhưng giờ đây, khi tôi cố làm cho quá khứ hiện lên tự đáy lòng mình, có thứ tự và có nghị lực, và việc ông có mặt tại đây không dung thứ một sự che giấu, một sự trốn tránh hèn nhát nào của nỗi hổ thẹn; giờ đây tôi mới hiểu rõ ràng điều làm tôi đau đớn lúc đó là sự thất vọng… sự thất vọng thấy… chàng trai đó đã bỏ đi quá ngoan ngoãn… không có một cố gắng nào để giữ lấy tôi, để ở lại gần tôi… thấy anh ta phục tùng một cách khiêm tốn và kính cẩn, tuân theo yêu cầu của tôi mời anh đi, thay vì… thay vì thử kéo mạnh tôi sát gần anh… thấy rằng anh ta tôn sùng tôi chỉ như một vị thánh xuất hiện trên đường của mình… và anh ta.. anh ta không cảm thấy rằng tôi là một người đàn bà.

Đối với tôi, đó là một thất vọng… một thất vọng mà tôi không tự thú nhận với mình ngay lúc bấy giờ cũng như sau này, nhưng tâm trạng của người đàn bà cảm thấy điều đó không cần lời lẽ, không cần ý thức rõ rệt. Bởi vì… bây giờ, tôi không tự huyễn hoặc mình nữa… Nếu lúc đó, người đàn ông ấy ôm lấy tôi, nếu anh ta yêu cầu tôi đi theo anh, tôi sẽ đi với anh tới cùng trời cuối đất, tôi sẽ làm nhục tên tuổi của tôi và của các con tôi. Tôi sẽ bỏ ngoài tai những lời thuyết phục của mọi người và của lí trí trong tôi, tôi sẽ trốn đi với anh ta, như cái bà Hăngriét đã bỏ trốn theo chàng trai người Pháp mà mới hôm trước bà ta còn chưa quen… Tôi sẽ không hỏi là đi đâu, đi bao nhiêu lâu, tôi sẽ không đoái nhìn lấy một lần, về phía sau, về cuộc đời đã qua của tôi… tôi sẽ hi sinh cho người đàn ông này tiền bạc, tên tuổi, tài sản, danh dự của tôi… Tôi có thể đi ăn xin và chắc chắn không có điều gì hèn hạ ở trên đời này mà tôi không dám chấp nhận; vì anh, tôi có thể vứt bỏ tất cả những gì mà người ta gọi là liêm sỉ và giữ gìn; nếu anh ta chỉ tiến thêm một bước về phía tôi và nói một lời, nếu anh ta tìm cách chiếm lấy tôi, trong giây phút ấy, tôi sẽ sa ngã và tôi sẽ ràng buộc mãi với anh ta.

Nhưng tôi đã nói với ông rồi… Con người lạ lùng này không nhìn thấy tôi lấy một lần, nhìn vào người đàn bà ở trong tôi… Còn tôi thì nóng lòng muốn tự buông thả mình biết chừng nào, tự buông thả mình hoàn toàn; tôi cảm thấy điều đó khi chỉ còn lại với chính mình, khi nỗi đam mê mới giây lát qua; còn kích thích bộ mặt rạng rỡ, giống như thiên thần của anh ta, đã truyền sang tôi và nó thổn thức trong cảnh trống vắng của tôi một cõi lòng bị ruồng bỏ. Tôi đứng lên một cách khó nhọc, cuộc hẹn hò càng làm tôi khó chịu thêm. Hình như trên đầu tôi là một cái mũ sắt nặng và chật, sức nặng của nó làm tôi loạng choạng, ý nghĩ của tôi cũng rời rạc và lảo đảo như bước chân tôi, khi tôi gặp bà con họ hàng của tôi tại một khách sạn k hác.

Ở đó, tôi ngồi yên, ủ rũ, trong lúc mọi người chuyện trò sôi nổi, tôi thấy sợ hãi mỗi lần vô tình, ngước mắt lên, tôi bắt gặp những bộ mặt thẫn thờ, giá lạnh hoặc như mang mặt nạ (tôi so sánh những bộ mặt đó với bộ mặt của chàng trai, hình như được bóng tối và ánh sáng của một đám mây làm linh hoạt hẳn lên). Tôi cảm thấy như mình đang ở giữa một đám người đã chết, cuộc họp thiếu sinh khí vô cùng; khi tôi bỏ đường vào tách của tôi và nói vài câu, tâm trí tôi để tận đâu đâu, và ở trong tôi luôn luôn xuất hiện, như do máu huyết sục sôi đẩy lên cái khuôn mặt mà việc ngắm nó, đã mang lại cho tôi niềm vui mãnh liệt và tôi sẽ chỉ còn được nhìn thấy một lần cuối, trong một hay hai giờ nữa (ý nghĩ này thật khủng khiếp). Có lẽ vô tình, tôi đã thở dài hay rên rỉ vì chị họ chồng tôi bỗng cúi xuống hỏi tôi làm sao, có phải tôi khó ở không, vì trông tôi tái ngắt, vẻ tư lự. Câu hỏi bất ngờ này đã được tôi chộp lấy, coi đó là cơ hội để nói ngay rằng, quả thật tôi bị nhức đầu, vì vậy tôi xin phép được lặng lẽ cáo lui.

Được tự do, tôi vội quay ngay về khách sạn. Vừa tới phòng, và chỉ còn một mình, tôi cảm thấy trống rỗng, bị bỏ rơi và ý muốn được gần chàng trai, từ nay tôi phải xa lìa mãi mãi, lại xiết chặt lấy tôi, cuồng nhiệt. Tôi đi lại trong phòng, vô cớ mở các hộc tủ, tôi thay quần áo, ru-băng và đứng trước gương, tôi tự hỏi mình, với con mắt dò xét xem trang điểm như vậy, tôi có thể làm anh ta phải chú ý đến tôi không. Đột nhiên tôi hiểu mình muốn gì: tôi phải làm gì để không phải xa anh ta nữa! Và trong một giây mãnh liệt, ý muốn đó trở thành quyết tâm.

Tôi chạy tìm người gác của khách sạn, báo cho người đó biết là tôi sẽ đi ngay hôm nay bằng chuyến tàu tối. Và bây giờ, cần phải làm gấp: tôi kéo chuông gọi chị hầu phòng để chị ấy giúp tôi sửa soạn hành lí, vì thời gian cấp bách; trong khi chúng tôi cùng vội vã lèn quần áo và đồ dùng hằng ngày của tôi vào rương, tôi mường tượng trước sự bất ngờ này sẽ diễn ra sao: tôi sẽ theo anh ta ra tàu như thế nào và tới phút cuối cùng, phút chót khi anh ta đưa tay ra cho tôi chào vĩnh biệt lần cuối, tôi bỗng theo chàng trai còn ngạc nhiên này lên tàu ra sao, để ở bên anh ta đêm nay, đêm mai, đến bao giờ tùy ở anh.

Một nỗi mê say sung sướng và hoan hỉ cuồn cuộn trong tôi, thỉnh thoảng tôi phá lên cười, ném quần áo vào rương, làm chị hầu phòng vô cùng ngạc nhiên, tôi thấy là tinh thần tôi không được ổn định; khi người chở đồ đưa hành lí đi, thoạt tiên tôi nhìn người đó với vẻ ngạc nhiên, tôi khó mà nghĩ đến những việc thiết thực khi sự hưng phấn tràn trề trong tâm hồn tôi.

Thời gian hối thúc, có thể đã hơn bảy giờ, chỉ còn chừng hai mươi phút là đến giờ tàu chạy. Tôi tự an ủi mình và nghĩ rằng đây không phải là một cuộc chia tay hay vĩnh biệt vì tôi đã quyết định sẽ theo anh trong chuyến đi chừng nào anh còn cho phép tôi theo. Người chở đồ đem hành lí của tôi đi, tôi vội đến văn phòng khách sạn để thanh toán tiền. Người quản lí đã trả lại tiền lẻ cho tôi và tôi sẵn sàng ra đi, thì một bàn tay vỗ nhẹ vào vai tôi. Tôi giật mình. Đó là bà chị họ chồng tôi, bà đến thăm tôi vì lo ngại về cơn đau giả bộ của tôi. Mắt tôi tối sầm lại. Tôi không biết làm gì với bà ta nữa, mỗi giây trì hoãn là một sự chậm trễ tai hại, nhưng phép lịch sự buộc tôi phải nghe bà nói và trả lời bà, ít nhất trong một thời gian.

– Cô phải đi nằm đi, – bà ta nói khẩn khoản, – rõ ràng là cô bị cảm rồi.

Rất có thể là như vậy, vì tôi thấy thái dương của tôi đập cực kì mạnh, đôi lúc thoáng qua mắt tôi những bóng mờ báo trước cơn ngất xỉu. Nhưng tôi phản đối, tôi có làm ra vẻ biết ơn, trong lúc mỗi lời nói lại làm tôi như bị lửa đốt, tôi muốn đá phăng sự chăm sóc không thích hợp này. Nhưng con người vô duyên cứ ở lại, ở lại hoài, ở lại mãi. Bà ta đưa dầu Côlônhơ cho tôi xức, còn muốn tự tay xoa lên thái dương tôi, trong khi tôi đếm từng phút, trong đầu, tôi chỉ thấy hình ảnh chàng trai và tôi đang nghĩ một cớ nào đó để thoát khỏi sự chăm sóc đau khổ này. Càng bồn chồn, tôi lại càng tỏ ra khả nghi với bà ta, cuối cùng, với vẻ cứng rắn, bà ta định buộc tôi phải trở về phòng và nằm nghỉ.

Thế là trong lúc đang bị khuyên giục như vậy, tôi chợt nhìn đồng hồ ở giữa phòng lớn: đã bảy giờ hai mươi tám phút mà tàu chạy lúc bảy giờ ba mươi lăm. Bỗng nhiên, bằng một cử chỉ mạnh, với sự lạnh lùng tàn nhẫn của một kẻ tuyệt vọng, tôi chìa tay ra cho bà chị họ và không một lời giải thích, tôi nói:

– Xin từ biệt, em phải đi đây.

Rồi không buồn để ý đến cái nhìn sửng sốt của bà, cũng không quay đầu lại, tôi vội vã rảo bước ra đường, trước con mắt ngạc nhiên của những người làm, rồi tôi chạy ra phố, về phía nhà ga.

Trông thấy người chở đồ chờ ở đó với hành lí đang giơ tay thúc giục, từ xa, tôi hiểu là đã đến giờ rồi. Lòng giận dữ một cách mù quáng, tôi lao tới cửa sắt ra sân ga, nhưng người nhân viên ở đó đã ngăn tôi lại. Tôi đã quên mua vé. Trong khi tôi làm dữ cố buộc bằng được người đó phải để cho tôi ra tận đường sắt, tàu bắt đầu chuyển bánh; tôi nhìn đăm đăm, chân tay run rẩy, cố tìm ít nhất một cái nhìn từ cửa sổ toa tàu, ít nhất một cử chỉ từ biệt, một cái chào. Nhưng do tàu chạy nhanh tôi không còn có thể trông thấy mặt anh ta được nữa. Những toa tàu lăn mỗi lúc một nhanh và sau một phút, chỉ còn lại trước đôi mắt đã mờ đi của tôi, một đám mây đen u ám khói.

Không biết tôi đứng sững ở đó bao nhiêu lâu, vì người mang đồ cho tôi ngỏ lời với tôi nhiều lần vẫn vô ích, mãi sau người đó mới dám chạm vào cánh tay tôi. Cử chỉ sau cùng làm tôi giật mình kinh sợ. Anh ta hỏi tôi có phải đem hành lí trở lại khách sạn không. Phải mất vài phút, tôi mới trấn tĩnh trở lại, không thể làm như vậy được, sau cuộc ra đi lố bịch, quá vội vã đó, tôi không thể quay trở lại đó (ý tôi cũng muốn như vậy) bao giờ được nữa. cho nên, sốt ruột muốn được ở một mình, tôi ra lệnh cho anh ta đưa hành lí của tôi tới phòng gửi đồ.

Sau đó, giữa cảnh hỗn độn, xáo trộn của đám người ầm ĩ chen chúc nhau tại phòng lớn ở ga, cứ thưa dần, tôi cố suy nghĩ, suy nghĩ một cách tỉnh táo, tìm cách thoát khỏi nỗi ám ảnh đau đớn, ê chề của sự giận dữ, luyến tiếc và tuyệt vọng, bởi vì (sao lại không tự thú nhận?) ý nghĩ đã bỏ lỡ cuộc gặp gỡ cực kì quan trọng này, do tôi gây ra, để làm tôi não lòng một cách cay cực, gay gắt và tàn nhẫn. Tôi muốn thét lên vì lưỡi dao thép được nung đỏ ấy, thọc sâu vào trong tôi không lúc nào nguôi, làm tôi đau đớn không sao chịu nổi.

Có lẽ chỉ những người hoàn toàn xa lạ với sự mê say mới biết đến, trong những giai đoạn thật đặc biệt, sự bùng nổ đột ngột như núi lở, như giông bão của nỗi mê say đó; thế là những sức lực được chứa chấp hàng năm trời đã ập xuống, cuồn cuộn trong vực sâu thăm thẳm của trái tim con người. Trước kia, chưa bao giờ tôi cảm thấy ngạc nhiên và nôn nóng, bất lực như ở giây phút này; lúc mà, sẵn sàng hành động điên cuồng (sẵn sàng vứt ngay xuống vực thẳm chỉ một lần thôi những tiếng tăm của cuộc đời ổn định, những nghị lực được chứa chấp và dồn nén cho tới lúc đó), tôi bỗng thấy ở trước mắt mình, một bức tường ngu độn mà nỗi mê say của tôi vấp phải một cách vô ích.

Những gì tôi làm sau đó cũng ngu ngốc như vậy; đó là một sự điên rồ, một điều dại dột, tôi gần như hổ thẹn mà kể lại như vậy, (nhưng tôi đã hứa với tôi và với ông là không giấu ông điều gì) tôi… đã tìm gặp lại anh ta, có nghĩa là tôi cố gợi lại từng thời gian tôi đã trải qua với anh ta… Tôi bị lôi cuốn tới những nơi mà, mới hôm qua, chúng tôi đã ở cùng nhau, tới chiếc ghế dài ở công viên mà tôi đã lôi kéo anh ta, tới phòng đánh bạc mà tôi đã thấy anh ta lần đầu tiên, và tới cả cái khách sạn rẻ tiền, chỉ để sống lại với quá khứ, một lần, một lần nữa thôi. Và ngày mai, tôi muốn dùng xe ngựa đi dọc con đường ven núi để cho từng lời nói, từng cử chỉ được sống lại trong tôi, một lần nữa. Tâm trí hỗn loạn của tôi thật điên rồ, thơ dại biết chừng nào! Nhưng ông hãy nghĩ rằng các sự việc đó đã ập xuống tôi như sét đánh: tôi không cảm thấy gì ngoài đòn đánh đột ngột, đòn duy nhất đã làm tôi ngất đi. Giờ đây, thoát khỏi nơi hỗn loạn đó một cách phũ phàng, tôi muốn sống lại một lần nữa để được cảm thụ những cảm xúc thoáng qua đó, cho đúng tới từng chi tiết nhỏ, bằng cách lùi về quá khứ, nhờ sự tự lừa dối mình một cách tuyệt diệu mà ta gọi là hồi ức… Sự thật ấy là những điều mà người ta chỉ có hiểu hay không mà thôi. Có lẽ phải có một trái tim nóng bỏng mới lí giải được những điều ấy.

Như vậy là thoạt tiên tôi đến phòng đánh bạc để tìm cái bàn anh ta đã ngồi, để thấy lại, bằng tưởng tượng, bàn tay anh ta giữa những bàn tay khác. Tôi bước vào phòng: tôi nhớ rõ, cái bàn mà tôi thấy anh ta lần đầu tiên, là bàn bên trái, ở phòng thứ hai. Từng cử chỉ của anh đều ở trong trí óc tôi, rõ ràng; dù nhắm mắt, đưa thẳng tay ra phía trước, như người mộng du, tôi cũng tìm được chỗ anh ta đứng. Thế là tôi bước vào và đi ngang qua phòng. Và kìa… sau khi đi qua cửa, mắt tôi nhìn về phía đám đông ồn ào, kìa… một điều gì khác lạ đã xảy ra… Kìa, đúng ở chỗ mà tôi nghĩ tới, ở đấy, anh ta đang ngồi (ảo giác do cơn sốt mà có chăng!) đúng là anh, chính anh… Anh… nhưng hệt như tôi vừa thấy anh trong mơ… y hệt như anh ta mới ngày hôm qua, mắt chăm chú nhìn hòn bi, nhợt nhạt như bóng ma… nhưng anh ta… anh ta đấy… không sao chối cãi được.

Tôi muốn thét lên, vì nỗi kinh hoàng của tôi lớn quá. Nhưng tôi nén được sự kinh hãi trước hình ảnh vô lí này và tôi nhắm mắt lại.

– Mình điên rồi… mình mê hoảng… mình bị sốt, – tôi tự nhủ, – nhất định không thể thế này được, mình có ảo tưởng rồi… anh ấy đã lên xe lửa, cách đây nửa giờ rồi.

Và tôi lại mở mắt ra. Nhưng thật là hãi hùng, y hệt như trước, anh ta ngồi đó, bằng xương, bằng thịt, không sao chối cãi lại được. Tôi nhận ra những bàn tay này, trong hàng triệu bàn tay khác… Không, tôi không mơ, đúng là anh ta. Anh ta không đi như anh ta đã hứa với tôi. Con người điên rồ này đã ở lại, anh ta đã tới đây, trên tấm thảm xanh, số tiền tôi đã cho anh để trở về nhà, và quên cả mình, trong cơn mê say, anh ta đã đến đánh bạc tại bàn này, trong khi tim tôi tan nát, tuyệt vọng cố tìm anh.

Tôi giật mình, xô tới. Cơn phẫn nộ trào lên mắt, một cơn phẫn nộ điên dại làm tôi không sao chịu nổi, tôi sôi lên muốn tóm cổ con người bội ước này đã hèn hạ lừa dối lòng tin, tình cảm, sự tận tuỵ của tôi. Nhưng tôi còn tự kiềm chế được. Tôi tiến tới bàn anh, ngay trước mặt anh, thật từ từ, có tính toán (phải mất không biết bao nhiêu nghị lực, tôi mới làm được như vậy); một ông khách đánh bạc lễ phép nhường chỗ cho tôi. Hai mét thảm xanh ngăn cách chúng tôi và tôi có thể, như trên ban công nhà hát, quan sát thoải mái bộ mặt anh, vẫn bộ mặt mà hai giờ trước đây, tôi còn thấy rạng rỡ lòng biết ơn, sáng lên trong ánh hào quang của ơn trời, còn bây giờ thì đã lại trở thành con mồi run rẩy của ngọn lửa tàn khốc của sự đam mê. Đôi bàn tay, những bàn tay mà mới trưa nay tôi còn thấy ghì chặt lấy chiếc ghế quỳ để thốt lên lời thề thiêng liêng nhất, thì giờ đây như nhưng con dơi mê say hút máu nó lại nắm chặt, co quắp số bạc ở quanh nó. Vì anh đang được, anh ta phải được một số tiền lớn, rất lớn: trước mặt anh, là một mớ hỗn độn những đồng giơ-tông, những đồng lu-i vàng, giấy bạc, một đống lộn xôn những thứ khác nữa quăng ra đấy để những ngón tay tất bật, run rẩy của anh ngập vào trong đó, một cách khoái lạc. Tôi thấy những ngón tay đó cầm lên rồi gấp lại, vuốt ve những tờ giấy bạc một cách âu yếm rồi đột nhiên, sau đấy, vơ một nắm, ném chúng vào một ô vuông. Ngay lập tức, những cánh mũi lại phập phồng từng đợt một, tiếng rao của người hồ lì, làm mắt anh sáng rực vẻ tham lam, rời khỏi đống bạc để theo dõi sự chuyển động cuồng nhiệt của hòn bi, và tôi tưởng như tâm hồn anh trào ra ngoài, khuỷu tay anh như bị đóng đinh vào tấm thảm xanh. Trạng thái con người hoàn toàn bị cờ bạc làm điên cuồng đắm đuối đối với tôi còn ghê tởm hơn, đáng sợ hơn ngày hôm qua, vì mỗi cử chỉ của anh đã giết chết trong tôi hình ảnh xán lạn, trên cái nền vàng, mà tôi vẫn nhẹ dạ ôm ấp trong mình.

Chúng tôi cứ ngồi như vậy, cách nhau có hai mét. Tôi chăm chú nhìn anh ta, anh cũng không để ý thấy tôi. Anh không nhìn tôi hay bất cứ ai, mắt anh chỉ liếc trên đống tiền và nó do dự lo lắng nhìn theo hai hòn bi đang lăn: cái vòng tròn màu xanh điên loạn ấy đã độc chiếm mọi cảm xúc của anh ta, đang cứ hổn hển theo dõi ván chơi. Với anh ta, toàn thế giới, cả nhân loại hòa nhập vào ô vuông có trải dạ này. Và tôi biết rằng, tôi có thể ngồi ròng rã hàng giờ ở đây, anh ta vẫn không ngờ là có tôi.

Nhưng tôi không thể kéo dài hơn nữa; tôi quyết định thật nhanh và tôi đi một vòng quanh bàn, tôi đến sau lưng anh, tay tôi nắm chặt lấy vai anh, cái nhìn của anh chao đi trong một giây, anh nhìn thẳng vào tôi, tròng mắt đục mờ như nhìn người xa lạ, y hệt người say bị lôi ra khỏi cơn mê ngủ, mắt còn bị hơi men tối tăm và u ám làm mù quáng. Rồi anh ta cũng nhận ra tôi; miệng anh run rẩy mở ra; anh ta nhìn tôi với vẻ sung sướng, lẩm bẩm nói khẽ một cách thân mật vừa mê mẩn vừa bí ẩn:

– Đang tốt lắm… Tôi cảm thấy ngay điều đó khi tôi vừa tới, khi thấy ông ta đã ở đây rồi… Tôi thấy ngay mà…

Tôi không hiểu anh ta định nói gì, tôi chỉ để ý thấy ván bạc làm anh say sưa, làm con người điên rồ này quên cả lời thề thốt, nơi hẹn hò, vũ trụ và tôi. Nhưng ngay trong trạng thái bị ma ám này, ánh mắt ngây ngất của anh ta nhìn tôi, vẫn dễ thương đến nỗi tôi miễn cưỡng phải chú ý lời anh nói và chăm chú hỏi anh ta định nói ai:

– Nói cái ông tướng già người Nga chỉ còn một cánh tay kia, – anh ta thì thầm, ghé sát vào tôi để không ai nghe được điều bí mật kì diệu ấy, – người mặc áo có vạch trắng bên sườn, có người hầu đứng sau lưng đó. Tối hôm qua, tôi đã để ý, ông ta chỉ có được. Chắc ông ta có cách đánh và tôi chỉ hơi theo ông… Hôm qua, ông ta chỉ có được, có điều hôm qua, tôi đã sai lầm, là cứ tiếp tục chơi khi ông ấy đi rồi: đó là lỗi của tôi… Hôm qua, ông ta có lẽ được tới hai chục ngàn phrăng và hôm nay cũng vậy, lần nào đánh, ông cũng được… bây giờ tôi chỉ đặt tiền theo ông… bây giờ…

Nói được nửa chừng, anh ta bỗng ngưng lời vì người hồ lì đã xướng to: “Đặt tiền đi!” – Chàng trai quay nhìn sang bên một cách khó nhọc, chú ý tới ông già người Nga ngồi, nghiêm trang và bình thản, râu bạc trắng – đang thận trọng đặt một đồng tiền vàng, rồi sau một lát do dự, lại đặt một đồng thứ hai vào ô thứ tư. Lập tức hai bàn tay nóng hổi ở trước tôi, nhào vào đống tiền và ném một mớ tiền vàng cũng vào chỗ đó. Và một phút sau, khi người hồ lì kêu to: “Số không”, còn bàn cào của người đó quét cả bàn bạc bằng một động tác tròn trịa, chàng trai nhìn sửng sốt cả đống tiền biến đi như có phép màu. Ông nghĩ rằng có lẽ anh ta sẽ quay lại nhìn tôi chăng; không, anh ta đã quên hẳn tôi; tôi đã biến mất không còn nữa, đã bị xoá nhoà khỏi cuộc sống của anh; tất cả các giác quan căng thẳng của anh đều tập trung vào vị tướng người Nga, ông này hoàn toàn lạnh lùng, cầm trong tay hai đồng tiền vàng mới, hãy còn do dự không biết nên đặt vào số nào.

Tôi không thể tả lại với ông nỗi cay đắng, sự tuyệt vọng của tôi. Nhưng ông cũng có thể tưởng tượng được điều tôi cảm thấy đối với người mình đã hiến cả cuộc đời mà lại coi không bằng con muỗi, bị một bàn tay uể oải, xua đuổi với vẻ thờ ơ. Một lần nữa, cơn thịnh nộ điên rồ lại trào lên trong tôi. Tôi bóp mạnh cánh tay anh ta, làm anh phải đứng phắt dậy:

– Anh phải ra khỏi đây! – Tôi nói thầm, thật nhỏ, nhưng với giọng ra lệnh. – Anh hãy nhớ lời anh thề tại nhà thờ, anh là kẻ bội ước đáng khinh.

Anh ta nhìn tôi, mặt tái nhợt, động lòng vì những lời của tôi. Mắt anh bỗng có vẻ như mắt chó bị đòn, môi anh run lên. Anh như sực nhớ lại quá khứ và có vẻ ghê tởm với chính mình…

– Vâng… vâng… – anh nói lắp bắp. – Trời … trời đất ơi!… Tôi xin đi đây, xin tha lỗi cho tôi.

Và tay anh, đã gom cả đống tiền, thoạt đầu mau lẹ với những cử chỉ khoáng đạt và dứt khoát, sau uể oải dần như rõ ràng có một lực tương phản níu lại. Anh lại nhìn viên tướng Nga đúng lúc ông ta đặt tiền.

– Một chút nữa thôi… – anh nói và ném năm đồng tiền vàng vào cùng một ô vuông. – Chỉ một ván này nữa thôi… Tôi xin thề với bà là sau đây, tôi sẽ đi… chỉ một ván này nữa thôi… chỉ một…

Rồi giọng nói của anh ta tắt dần. Hòn bi lại bắt đầu lăn, lôi anh theo vòng quay của nó. Một lần nữa con người bị ma ám này lại tuột khỏi tay tôi, anh đã thoát ra khỏi bản thân anh ta, bị cuốn theo viên bi tròn nhỏ xíu cứ nhảy tưng tưng trong cái lòng chảo nhẵn lì.

Người hồ lì xướng số lên, cái bàn cào chộp lấy năm đồng tiền vàng ở trước mặt anh, anh đã thua. Nhưng anh không quay lại. Anh đã quên tôi, lẫn lời thề, cùng lời anh vừa hứa với tôi chừng mười phút trước. Bàn tay thèm khát của anh lại co quắp thọc vào đống bạc đã vơi dần và cái nhìn say mê của anh hoàn toàn bị chi phối bởi người đối diện – mang phước đến cho anh, đã hấp dẫn ý chí của anh một cách huyền bí.

Tôi không thể kiên nhẫn được thêm. Tôi lay anh một lần nữa, mạnh hơn trước:

– Đứng dậy ngay đi! Ngay lập tức… anh đã nói đây là ván cuối cùng mà…

Thế là điều bất ngờ đã xảy ra. Anh ta quay phắt lại; bộ mặt đang nhìn vào tôi không phải là của một người khiêm nhường và e thẹn, mà là của một kẻ điên dại, một kẻ đang lên cơn nóng giận, mắt long lên, môi run run, dữ tợn.

– Để yên cho tôi nhờ! – Anh ta nóng nảy thét lên. – Hãy cút đi! Bà chỉ đem vận xui đến cho tôi. Bao giờ cũng vậy, cứ có bà là tôi thua! Hôm qua đã thế, lại hôm nay nữa! Bà xéo đi!

Tôi choáng người một lát. Nhưng sau đó, trước cơn điên của anh ta, nỗi giận của tôi nổi lên đùng đùng.

– Tôi đem vận xui đến cho anh hả? – Tôi la mắng anh. – Đồ nói dối, đồ ăn cắp, anh đã thề với tôi rồi mà!…

Nhưng tôi đã ngừng nói ở đó, vì anh chàng rồ dại đã nhảy chồm lên, đẩy lùi tôi lại, không cần để ý tiếng ồn ào đang lớn dần.

– Để yên cho tao nhờ! – Hắn lớn tiếng thét lên không giữ ý chút nào nữa. – Mày không phải là quản lí tiền nong của tao. Đây… đây… đây… tiền của mày đây! – Và hắn ném cho tôi vài tờ giấy bạc một trăm phrăng… – Còn bây giờ, hãy để cho tao được yên thân.

Hắn la hét, y như một người điên, không để ý gì đến sự có mặt của hàng trăm con người xung quanh. Tất cả nhìn, xì xào, nói bóng gió đủ điều, cười cợt và từ phòng bên, nhiều người tò mò cũng kéo tới. Tôi tưởng như mình bị lột hết quần áo và đang đứng trần truồng trước những kẻ hết sức tò mò này.

– Xin bà yên lặng cho, thưa bà! – Người hồ lì vừa hách dịch nói lớn vừa gõ bàn cào xuống bàn. Những lời của tên khốn kiếp đó là nói với tôi. Bị mất thể diện, bị sỉ nhục, tôi cứ đứng đấy trân trân trước sự tò mò râm ran, rì rào như một con điếm vừa mới được người ta cho tiền. Hai, ba trăm con mắt xấc xược cứ ở đó nhìn thẳng vào mặt tôi. Và… trong khi tránh né, cúi gập người lại trước sự sỉ nhục và hổ thẹn nhơ nhớp, tôi nhìn sang bên, thì kìa, trước mắt tôi, tôi đã trông thấy đôi mắt gần như lơ láo vì kinh ngạc. Đó là bà chị họ tôi đang ngơ ngác nhìn tôi, miệng há hốc, tay giơ lên, như sợ hãi khủng khiếp. Tôi như bị đòn roi quất mạnh; trước khi bà ta làm được gì, bình tĩnh lại được, tôi đã lao ra khỏi phòng, tôi còn đủ sức để đến thẳng chiếc ghế dài, nơi hôm qua con người bị quỷ ám này đã gục tại đấy và tôi cũng yếu đuối, mệt lả và rã rời như hắn, tôi buông mình nằm xuống tấm gỗ cứng đờ và khắc nghiệt.

Giờ đây, hai mươi bốn năm trời đã trôi qua, nhưng nghĩ đến lúc tôi đứng ở đó, bị lăng nhục bởi những lời sỉ vả của hắn, dưới con mắt của hàng ngàn người lạ, máu tôi như bị đóng băng lại trong huyết quản. Và tôi lại khiếp sợ nghĩ rằng cái mà chúng ta gọi một cách hoa mĩ là linh hồn, tinh thần, tình cảm, đau khổ, đều là chất mềm yếu, khốn nạn và nhu nhược vì tất cả những cái đó, ngay trong phút bộc phát đến cao độ cũng đủ sức đập tan cái thân thể đang đau đớn, cái thể xác bị dày vò – vì, dù sao, máu vẫn tiếp tục chảy và người ta vẫn còn sống được sau những giờ phút ấy, thay vì phải chết, phải gục xuống như cái cây bị sét đánh.

Đau khổ chỉ làm chân tay tôi rã rời trong một thời gian, thời gian chịu đựng đòn đó, tôi rơi xuống chiếc ghế dài, không thở được nữa, hết hơi sức, và có thể nói tôi như tiền vị đê mê của cái chết không sao tránh được. Nhưng như tôi vừa nói, mọi đau khổ đều hèn nhát, nó lùi bước trước sức mạnh của ý chí muốn sống, vốn được cột chặt vào xác thịt của chúng ta, mạnh hơn nỗi ham muốn được chết bị ràng buộc trong tâm trí chúng ta.

Điều không sao giải thích được đối với bản thân tôi là sau khi tình cảm bị nghiền nát như vậy, dù sao tôi cũng trỗi dậy được, tuy rằng không biết để làm gì. Tôi chợt nhớ là hành lí của tôi còn để ở ga, từ lúc đó, tôi chỉ còn một ý nghĩ: là đi, đi khỏi nơi đây, chỉ cần đi xa tòa nhà đáng nguyền rủa này, tòa nhà độc địa này. Tôi chạy ra ga mà không để ý tới ai hết; tôi hỏi giờ chuyến tàu đầu tiên đi Pari, nhân viên nhà ga nói: mười giờ, và tôi đã đăng kí ngay hành lí của tôi.

Tôi qua đêm trên tàu, tôi tới Pari, từ đó tôi chuyển từ ga này, qua ga khác, và tôi đến thẳng Bulônhơ, rồi từ Bulônhơ đến Đuvrơ, từ Đuvrơ đến Lơnđơn và từ Lơnđơn về nhà con trai tôi, tất cả với tốc độ một cuộc bay không nghỉ ngơi, không suy tưởng đến gì, trong bốn mươi tám giờ không ngủ, không nói, không ăn: bốn mươi tám tiếng trong lúc đó những bánh xe chỉ kèn kẹt nhắc đi nhắc lại: đi! đi! đi!

Sau cùng, khi tôi bước vào trang viên của con trai tôi, không ai chờ đón tôi hết, tất cả mọi người đều kinh hãi: hình như trong con người, trong đôi mắt tôi, có cái gì đang phản lại tôi. Con trai tôi bước tới để hôn tôi, tôi giật mình lùi lại – ý nghĩ để nó đụng vào đôi môi mà tôi cho là ô uế, làm tôi không sao chịu nổi. Tôi gạt mọi câu hỏi, tôi chỉ đòi được đi tắm, vì đối với tôi đó là một nhu cầu cần thiết để tẩy sạch thân xác tôi (không kể tới bụi bặm của chuyến đi) cho hết những gì còn bám dính tới nỗi đam mê của tên điên khùng, của con người tồi tệ đó. Rồi tôi lê bước về phòng, và tôi ngủ suốt mười hai hay hai mươi bốn giờ, một giấc ngủ của thú vật, nặng như chì, như trước đó hay sau này, chưa bao giờ, tôi ngủ như vậy, một giấc ngủ đã làm cho tôi hiểu thế nào là nằm trong quan tài và chết. Những người thân của tôi lo cho tôi như lo cho người bệnh. Những sự âu yếm của họ chỉ làm tôi đau đớn thêm, tôi thấy nhục nhã, tôi thấy xấu hổ đối với sự kính trọng, sự ân cần của họ, tôi phải luôn tự kiểm soát mình để khỏi bỗng nhiên kêu lên là tôi đã lừa gạt, quên lãng, gần như bỏ rơi tất cả mọi người do một cơn đam mê điên dại và vô nghĩa.

Sau đó, tôi ngẫu hứng đến một thành phố nhỏ ở Pháp. Ở đây tôi không quen biết ai, vì tôi bị ám ảnh bởi ý nghĩ: tất cả mọi người cứ thoáng trông vẻ ngoài của tôi, ngay từ cái liếc mắt đầu tiên, là đã thấy ngay nỗi tủi nhục và sự thay đổi của tôi, do chỗ tôi cảm thấy bị phản bội, bị bôi nhọ tới tận nơi sâu kín nhất của tâm hồn. Đôi lúc khi thức dậy, buối sáng, ở trên giường, tôi sợ mở mắt đến kinh hãi. Kỉ niệm về cái đêm mà chợt tỉnh giấc, tôi thấy mình bên cạnh một người lạ, một người đàn ông ở trần, bỗng nhiên ám ảnh tôi và thế là, như lần đầu tiên, tôi chỉ mong muốn có một điều: được chết ngay tức khắc.

Dù sao thời gian cũng có một uy lực rất lớn và tuổi tác đã làm lắng dịu một cách kì lạ tất cả mọi tình cảm. Người ta cảm thấy gần với cái chết hơn, bóng của nó làm đường đi tối lại, mọi việc có vẻ không còn tươi sáng nữa, chúng không tác động bao nhiêu đến những nơi thầm kín của con người như trước kia và cũng mất đi nhiều uy lực hiểm nghèo. Dần dà, tôi cũng hồi phục lại khỏi cơn choáng đã thử thách tôi, và nhiều năm sau, có lần, trong một buổi họp mặt, tôi gặp một người tuỳ viên phái đoàn Áo, một người Ba Lan trẻ, và khi tôi hỏi về gia đình con người đã cùng nằm một giường với tôi trong một đêm, anh ta trả lời rằng, một nhân viên phái đoàn cũ, lại chính là anh em họ với anh ta, đã tự tử mười năm trước đây tại Môngtơ Cáclô, tôi cũng không chau mày. Điều đó không làm tôi đau đớn chút nào: có lẽ đó còn là điều tốt với tôi (chối cãi tính ích kỉ của mình làm gì) bởi vì như vậy nguy cơ có thể gặp lại người ấy một lần nữa đã tan biến: bằng chứng chống lại tôi chỉ còn là kí ức của bản thân tôi. Từ đó, tôi trở nên thanh thản hơn. Nói cho cùng thì già đi chẳng qua chỉ là không còn sợ quá khứ của mình nữa.

Và bây giờ ông đã hiểu tại sao tôi bỗng quyết định kể số phận của tôi cho ông nghe khi ông bênh vực bà Hăngriét và ông say sưa giữ ý kiến rằng hai mươi bốn giờ có thể làm thay đổi hoàn toàn cuộc đời người đàn bà, tôi cảm thấy như những lời đó nhằm vào tôi: tôi biết ơn ông vì đây là lần đầu tiên, có thể nói là tôi được minh oan và thế là tôi nghĩ rằng, có lẽ giải thoát tâm hồn mình bằng cách thú tội, cái gánh nặng và nỗi ám ảnh vĩnh cửu của quá khứ sẽ mất đi và mai đây, tôi có thể sẽ trở lại nơi đó, đi vào gian phòng mà tôi đã gặp số phận của tôi, không còn oán hận cả anh ta lẫn tôi. Thế là khối đá đè nặng lên tâm hồn tôi sẽ được nhấc lên, tất cả sức nặng của nó sẽ đè xuống quá khứ, đè chặt lấy quá khứ không cho nó thức dậy nữa, như trong hầm mộ.

Đối với tôi, được kể lại cho ông nghe chuyện này, thật là hạnh phúc. Bây giờ, tôi thấy nhẹ nhõm, gần như vui vẻ… Tôi xin cảm ơn ông.

Nghe tới đó, thấy bà đã nói xong, tôi đứng ngay dậy. Vẻ hơi lúng túng, tôi muốn nói một điều gì, nhưng có lẽ bà tôi đã biết ý tôi, bà cắt ngang:

– Không, tôi xin ông, ông đừng nói gì… Tôi không muốn ông trả lời tôi hay nói điều gì… Xin cảm ơn ông đã nghe tôi nói và chúc ông lên đường bình an.

Bà đứng trước mặt tôi và bà chìa tay từ biệt tôi. Không chủ tâm, tôi nhìn mặt bà và thật là một điều cảm động khác thường khi thấy bà già này đứng trước tôi, nhã nhặn đồng thời lại hơi bối rối. Có phải đấy là sự phản ánh nỗi đam mê đã nguội lạnh rồi chăng? Có phải đó là vẻ thẹn thùng cứ tăng dần, bỗng nhiên cứ làm má bà cứ ửng hồng mãi đến tận chân tóc bạc trắng không? Chỉ biết rằng bà vẫn ở đó, như một thiếu nữ nết na bị kí ức làm xáo động và hổ thẹn với chính lời thú tội của mình. Tự nhiên, tôi thấy cảm động và muốn được bày tỏ sự kính trọng của tôi bằng một lời nói. Nhưng tôi cứ nghẹn lại. Tôi chỉ có thể cúi thấp xuống, kính cẩn hôn bàn tay héo hắt của bà cứ run lên nhè nhẹ như lá mùa thu.

24 GIỜ TRONG ĐỜI MỘT NGƯỜI ĐÀN BÀ- phần 1

Truyện dài này mình đọc từ những năm 80 thế kỉ trước, khi đó còn là thiếu nữ (một từ thơ mộng dành cho vị thành niên nữ). Cảm nhận về tác phẩm thực sự là khác biệt.

Tại ngôi nhà trọ ở Riviêra, nơi tôi trú ngụ lúc đó (mười năm trước chiến tranh [chiến tranh thế giới lần thứ nhất]), một cuộc tranh luận dữ dội đã nổ ra tại bàn chúng tôi, đe doạ trở thành một cuộc cãi lộn ác liệt, với những lời lẽ hằn học và nhục mạ. Trí tưởng tượng của nhiều người thường không sắc bén lắm. Chuyện gì không dính dáng đến mình thì có như đóng chốt vào đầu cũng không làm họ mảy may xúc động; chuyện không quan trọng lắm nhưng xảy ra trước mắt, lại nằm trong tầm cảm xúc của họ thì họ sôi lên sùng sục. Thế là trong một chừng mực nào đó, để bù lại việc chỉ quan tâm đại khái đến những sự kiện bên ngoài, họ trở nên hùng hổ một cách vô lối và quá đáng.

Lần đó thì đúng như vậy, giữa những thực khách hoàn toàn là trưởng giả, ăn cùng một bàn, sau bữa cơm thường nói với nhau những câu chuyện phiếm và những lời bông đùa nhẹ nhàng, không sâu sắc, thông thường thì họ tản đi ngay: cặp vợ chồng người Đức thì dạo chơi và chụp ảnh, ông người Đan Mạch béo tròn, tiêu khiển bằng thú đi câu tẻ nhạt, bà mệnh phụ người Anh thanh lịch trở về với sách của bà, đôi vợ chồng người Ý rông đi Môngtơ Caclô chơi, còn tôi thì nhàn tản trên chiếc ghế ngoài vườn hoặc làm việc. Nhưng lần này, chúng tôi đeo dính lấy nhau, tranh cãi dai dẳng và nếu có ai trong chúng tôi bỗng đứng phắt dậy thì không phải để cáo lui một cách lễ độ như thường lệ, mà là trong cơn bực bội, nóng nảy đầy vẻ cáu kỉnh như tôi đã kể.

Thật ra, sự kiện khuấy động đến mức đó, những người ăn cùng bàn với nhau, kể cũng khá kì cục. Căn nhà trọ, nơi bảy chúng tôi ở, một biệt thự riêng biệt, vẻ ngoài thật đẹp (phong cảnh nhìn từ của sổ ra bờ biển, mép đá lô nhô, quả là tuyệt vời), đúng ra chỉ là một nhà phụ, rẻ tiền hơn, của đại khách sạn Palát, chỉ có cái vườn ngăn cách, nên lúc nào chúng tôi cũng có thể quan hệ được với những khách trọ trên Palát. Ngày hôm trước, tại khách sạn, đã xảy ra một vụ tai tiếng về đủ mọi mặt.

Số là, trong chuyến tàu trưa, đúng ra là mười hai giờ hai mươi phút (tôi phải chỉ giờ thật chính xác vì điều này quan trọng đối với việc đang xảy ra lẫn câu chuyện làm chúng tôi phải bàn cãi sôi nổi), một thanh niên người Pháp đã tới khách sạn và thuê một căn phòng trông ra biển: chỉ điều đó cũng cho thấy là chàng ta dư dả. Chàng được mọi người thích thú chú ý tới không chỉ ở phong độ thanh lịch kín đáo mà chính là ở vẻ đẹp cao quý, thật dễ thương; trên khuôn mặt nhỏ nhắn như thiếu nữ, là một bộ râu vàng óng như tơ, mượt mà trên môi, nồng nàn gợi cảm; trên vầng trán rất trắng là những gợn tóc nâu xoăn bồng bềnh; cái nhìn dịu dàng của chàng như mơn trớn, tất cả ở chàng tạo ra một vẻ êm êm đẹp đẽ, đáng yêu nhưng không có gì là giả tạo, điệu bộ. Nói cho đúng, thoạt tiên, trông chàng từ xa những ta thoáng nhớ tới những bộ mặt bằng sáp màu hồng, dáng điệu kiểu cách, tay cầm chiếc can lịch sự, tượng trưng cho cái đẹp của nam giới, được bày tại tủ kính các tiệm lớn, bán quần áo thời trang. Nhưng càng nhìn gần thì mọi cảm giác hợm hĩnh đều biến mất vì ở chàng, vẻ nhã nhặn là tự nhiên như thuộc bản chất con người (điều này thật hiếm). Đến đâu, chàng cũng khiêm tốn, thân mật chào tất cả mọi người và thật thích thú khi nhận thấy ở hoàn cảnh nào, sự ân cần của chàng cũng bộc lộ hoàn toàn thoải mái. Một phu nhân đi ra nơi giữ quần áo, chàng sốt sắng đến lấy áo choàng giúp; với mỗi đứa trẻ, chàng đều có một ánh mắt thân mật, một lời nói vui; chàng vừa cởi mở lại vừa tế nhị; tóm lại, hình như chàng là một trong những con người được ưu đãi; và do đức tính làm vui lòng mọi người bằng bộ mặt tươi cười và vẻ duyên dáng trẻ trung nên chàng lại có một nét tao nhã mới. Sự hiện hữu của chàng có vẻ như một ân huệ đối với khách trọ tại Palát, phần đông đều có tuổi và sức khoẻ kém; do dáng điệu hùng dũng của tuổi thanh niên, do bộ điệu nhanh nhẹn hoạt bát, do vẻ tươi tỉnh trong bản chất dễ thương, làm ngay cả một số người mà có cái vẻ uy nghi, chàng vẫn dễ dàng giành được tình cảm của tất cả. Hai giờ sau khi tới, chàng đã chơi quần vợt với hai cô con gái nhà kĩ nghệ béo mập và giàu sụ ở thành phố Lyông là Annét, mười hai tuổi, và Blăngsơ, mười sáu tuổi. Mẹ hai cô gái, bà Hăngriet, mảnh mai, dịu hiền và rất kín đáo, khẽ mỉm cười trông hai cô gái nhỏ, còn thật ngây thơ, làm dáng làm điệu một cách vô thức với chàng trai ngoại quốc. Buổi chiều, chàng vừa chơi cờ vua giải trí với chúng tôi, vừa kể vài giai thoại vui vui một cách tế nhị, chàng dạo chơi nhiều lần khá lâu trên sân với bà Hăngriet; chồng bà này, như thường lệ, chơi đôminô với một ông bạn kinh doanh; tôi còn thấy chàng chuyện trò rất muộn với vẻ mật thiết đáng ngờ, trong bóng tối của phòng giấy với cô thư kí của khách sạn.

Hôm sau, chàng theo ông bạn Đan Mạch của tôi đi câu cá và tỏ ra có những hiểu biết phi thường về môn này; sau đó chàng bàn luận về chính trị rất lâu với nhà kĩ nghệ ở Lyông; và chàng cũng tỏ ra là người nói chuyện có duyên vì người ta nghe thấy tiếng cười của ông mập át cả tiếng sóng. Sau bữa trưa, (để hiểu rõ tình hình, tôi phải kể thật chính xác từng giai đoạn thời gian biểu của chàng) chàng đã cùng bà Hăngriet, chỉ có hai người, uống cà-phê ở ngoài vườn; chàng lại chơi quần vợt với các con gái của bà, rồi chuyện trò với hai vợ chồng người Đức ở phòng lớn. Hồi sáu giờ, khi đi bỏ thư, tôi gặp chàng ở ga. Chàng vội đến gần tôi, kể là chàng buộc phải cáo lỗi vì bị gọi về gấp nhưng sau hai ngày, chàng sẽ trở lại đây.

Thật vậy, chiều hôm đó, chàng không có mặt ở phòng ăn, nhưng có thiếu chăng chỉ là thiếu sự hiện diện của con người đó, vì ở tất cả mọi bàn, người ta chỉ nói về chàng, ca ngợi tính tình dễ thương và vui vẻ của chàng.

Ban đêm, tôi đang ngồi trong phòng, đọc cho xong một cuốn sách, lúc đó có lẽ đã mười một giờ, bỗng, qua cửa sổ mở, tôi nghe thấy những tiếng kêu, những tiếng gọi lo âu ở ngoài vườn; rõ ràng, bên khách sạn, có một sự náo động khác thường. Vì lo lắng hơn là vì tò mò, tôi xuống ngay năm mươi bậc thang; ở dưới, tôi thấy khách trọ và nhân viên khách sạn đang trong tình trạng hỗn độn và náo động. Bà Hăngriet sau khi đi dạo trên sân dọc bờ biển như các buổi chiều, đã không trở về, trong lúc ông chồng thì như thường lệ, vẫn chơi đôminô với ông bạn ở Namuya, mọi người lo là có tai nạn. Giống như một con bò rừng, con người ở thành phố Lyông, vốn nặng nề, mập mạp, lao dọc theo phía bờ biển và trong đêm tối, tiếng gào: “Hăngriet! Hăngriet!” của ông ta, do xúc cảm mà giọng lạc đi, âm thanh đó gợi lên một cảm giác rùng rợn như tiếng gầm rống của một con thú khổng lồ thời nguyên thuỷ, trước giờ chết. Nhân viên khách sạn, bồi phòng chạy đi chạy lại tấp nập, lên xuống thang gác, người ta đánh thức khách trọ, gọi điện đến sở cảnh sát. Nhưng giữa cảnh ồn ào đó, con người to lớn ấy, áo gi-lê cởi phanh, cứ đi qua lại, lảo đảo bước những bước dài, ông thổn thức kêu to trong đêm, một cách điên dại, chỉ một cái tên: “Hăngriet! Hăngriet!”. Ngay lúc ấy, những đứa nhỏ ở trên lầu, đã thức dậy và trong bộ quần áo ngủ, chúng đứng bên cửa sổ gọi mẹ, còn người cha chạy tới cho chúng yên lòng.

Rồi bỗng xảy ra một điều thật hãi hùng, không sao kể lại được vì tạo vật, khi bị căng mạnh trong những cơn khủng hoảng đặc biệt, thường làm cho thái độ của người ta có một vẻ bi thảm lạ thường, không một hình ảnh, lời lẽ nào có thể diễn tả nổi, kể cả cái sức mạnh sấm sét ở trong nó. Bỗng nhiên, con người nặng nề, to lớn, bước xuống các bậc thang rin rít với bộ mặt đã thay đổi hẳn, đầy vẻ mệt mỏi, nhưng dữ tợn, ông ta cầm một lá thư trong tay: “Gọi tất cả mọi người về đi!”.

Ông ta nói với người quản lí bằng một giọng vừa đủ nghe: “Gọi tất cả mọi người về, không cần tìm nữa, vợ tôi đã bỏ tôi rồi”.

Trước những kẻ đứng xúm quanh ông, tò mò nhìn ông, bỗng nhiên ngượng ngùng, bẽn lẽn và hãi hùng giãn ra, con người bị đánh đến tử thương này có một dáng điệu căng thẳng phi thường. Ông ta còn đủ sức bước lảo đảo qua mặt chúng tôi, không nhìn ai, để đi tắt đèn trong phòng đọc sách. Người ta nghe tiếng tấm thân nặng nề, đồ sộ của ông gieo phịch xuống một chiếc ghế phô tơi, rồi một tiếng nấc man rợ, thú vật, chỉ có ở những người chưa từng khóc bao giờ. Nỗi đau khổ thông thường ấy, gợi lên trong mỗi chúng tôi, ngay cả với người vô tình nhất, một tác động lạ kì. Không người bồi bàn nào của khách sạn, không một khách trọ nào, tò mò tới xem, dám hé môi cười, hoặc thốt ra một lời thương cảm. Câm nín, mỗi người chúng tôi, như cảm thấy hổ thẹn vì để bộc lộ tình cảm mình một cách sôi sục, lặng lẽ trở về phòng. Khi chỉ còn một mình trong căn phòng tối tăm, cái sản phẩm của nhân loại bị vùi dập này đã thoi thóp, nức nở, quá cô đơn với chính mình, tại ngôi nhà mà ánh đèn đang tắt dần, chỉ còn lại những tiếng rì rào, những tiếng thì thầm, những tiếng động yếu ớt cứ tàn lụi dần.

Người ta phải thấy rằng một sự kiện như sét đánh ấy, diễn ra trọn vẹn trước mắt chúng tôi, đã gây xúc động mạnh đến những người quen với buồn chán và những trò giải trí vô tư. Nhưng cuộc tranh luận nổ ra sau đó, tại bàn chúng tôi, lại kịch liệt và suýt biến thành ẩu đả; dù cho nó bắt nguồn từ sự việc lạ lùng này; bản thân nó chỉ là những vấn đề những nguyên tắc đối chọi nhau, những quan điểm khác nhau về cuộc đời, chống lại nhau một cách gay gắt. Thật vậy, do một cô hầu gái thóc mách đã đọc được bức thư (ông chồng gục xuống trong cơn phẫn nộ bất lực, đã vò nát và quẳng bức thư xuống sàn nhà) người ta sớm biết rằng bà Hăngriet bỏ đi không phải một mình, mà với chàng trai người Pháp (cảm tình của nhiều người đối với chàng từ lúc đó, đã mất đi rất nhanh). Thoạt tiên, người ta thấy ngay là cái bà Bôvary nhỏ nhắn này đã đổi ông chồng béo ị, dân tỉnh lẻ, lấy một chàng trai trẻ, thanh lịch, đẹp đẽ. Nhưng điều làm mọi người ngạc nhiên nữa là trong đó, từ nhà kĩ nghệ, các con gái của ông, đến cả bà Hăngriet đều chưa bao giờ gặp chàng Lôvơlêxơ [như nhân vật Sở Khanh] này; và như vậy là một cuộc trò chuyện ban đêm dài hơn hai giờ trên sân thượng, và một giờ uống cà-phê với nhau ở ngoài vườn đã đủ để xô đẩy một người đàn bà mẫu mực, chừng ba mươi tuổi, bỏ chồng và hai con gái để đi trong đêm, phiêu lưu theo một chàng trai thanh lịch, trước đó hoàn toàn xa lạ với bà.

Những người ăn cùng bàn với chúng tôi đều đồng tình rằng, sự việc, bề ngoài rõ ràng, thật ra chỉ là một sự lừa dối xảo trá và thủ đoạn quỷ quyệt của cặp tình nhân; chắc chắn bà Hăngriet đã có những quan hệ bí mật từ rất lâu với chàng trai này và gã đi “mò gái” đến đây, chỉ quyết định những chi tiết cuối cùng của cuộc đào tẩu này, vì – người ta suy luận như vậy – hoàn toàn không thể có chuyện một người đàn bà nết na, chỉ sau hai giờ quen biết đã chuồn theo trai ngay khi nghe tiếng huýt sáo gọi đầu tiên. Ở đây, tôi thích có ý kiến khác; tôi kiên quyết bảo vệ rằng, một người đàn bà lấy chồng, qua nhiều năm chung sống với chồng, chỉ thấy thất vọng và buồn tẻ, cuộc chung sống như vậy đã ngấm ngầm chuẩn bị nội tâm người đàn bà đó trở thành cái mồi cho bất cứ người đàn ông táo bạo nào; điều như vậy không những có thể xảy ra mà chắc chắn là có nữa. Do sự phản đối bất ngờ của tôi, cuộc tranh luận đã mau chóng được tất cả bàn cãi, và điều nó trở nên sôi nổi là cả hai cặp vợ chồng người Đức lẫn Ý đều tỏ vẻ khinh miệt rất kênh kiệu, không chịu chấp nhận sự hiện hữu của tiếng sét ái tình, họ cho đó là một điều điên rồ và một sự tưởng tượng lãng mạn vô duyên.

Tóm lại, nhắc đi nhắc lại mãi những chi tiết của một cuộc cãi vã kéo dài từ đầu giờ dần đến cuối giờ dậu chẳng ích lợi gì; chỉ những khách chuyên được mời ăn tiệc nói chuyện mới sắc sảo, còn những luận điệu mà những người ngồi cùng bàn, khi ăn, ngẫu nhiên viện ra để tranh cãi giữa bầu không khí hăng say, thường chẳng có gì đặc sắc, có thể nói là vơ quàng vơ xiên nữa. Cũng khó có thể cắt nghĩa tại sao chúng tôi lại dễ xúc phạm nhau đến như vậy trong lúc tranh luận; tôi cho rằng hai ông chồng bực tức vì họ chỉ viện lẽ chính các bà vợ của họ không thể bị cám dỗ và sa ngã đến thế.

Đáng buồn là họ không có cái gì hay hơn để phản đối tôi và nói rằng chỉ ai phán xét tâm hồn phụ nữ căn cứ vào những cuộc chinh phục bất thần và dễ dãi của kẻ độc thân mới nói vậy. Điều đó bắt đầu làm tôi khó chịu và khi bà người Đức cho thêm thứ gia vị nghiêm chỉnh vào bài học này, nói rằng có những người phụ nữ đoan trang, lại có cả những đồ “đĩ thoã” và theo bà ta, bà Hăngriet phải thuộc loại này, tôi hoàn toàn mất hết bình tĩnh. Đến lượt tôi, tôi tấn công lại. Tôi tuyên bố rằng, không thừa nhận sự việc này, chứng tỏ, một người đàn bà, nhiều lúc trong đời mình, có thể bị phó mặc cho những uy lực thần bí mạnh hơn cả ý chí của họ, rằng trí thông minh của họ chỉ che giấu nỗi lo sợ chính bản năng của con người, nỗi lo sợ cái bản tính tin thờ ma quỷ trong con người ta. Và nhiều người thích cho là mình rắn rỏi hơn, trong sạch hơn những kẻ “dễ bị chinh phục”.

Về phần tôi, tôi cho rằng một người đàn bà xử sự một cách tự do và đắm đuối, theo bản năng của mình còn thành thật hơn những người vẫn phản bội chồng ngay khi còn nằm trong tay chồng, mắt nhắm nghiền, như ta thường thấy. Đại khái, tôi nói như vậy; và khi cuộc đấu khẩu trở nên nảy lửa, mọi người càng công kích bà Hăngriet tội nghiệp kia, tôi càng say sưa bênh vực bà ta (thật ra, trong thâm tâm, tôi cũng thấy là tôi đã đi quá xa!). Sự nồng nhiệt ấy như khiêu khích hai cặp vợ chồng kia; và thành bộ tứ không hài hoà lắm, họ nhào vào tôi kịch liệt đến nỗi ông già Đan Mạch, vẻ hào hứng, tay cầm đồng hồ bấm giờ, như trọng tài một trận đá banh, thỉnh thoảng phải gõ những ngón tay xương xẩu xuống bàn, ra vẻ cảnh cáo và nói: “Xin các vị, hãy bình tĩnh nào!”

Nhưng làm như vậy cũng chỉ có tác dụng chốc lát. Đã ba lần, một đối thủ của tôi hùng hổ chồm lên và bà vợ ông ta vất vả lắm mới làm ông ta bớt nóng. Tóm lại, chỉ chừng mười phút nữa, là cuộc tranh luận giữa chúng tôi có thể kết thúc bằng đấm đá nhau nếu, bỗng nhiên bà C…, bà mệnh phụ già người Anh, tóc bạc trắng, đầy vẻ sang trọng, không mặc nhiên đã trở thành người chủ toạ danh dự của bàn chúng tôi mà không phải bầu. Đối với ai, bà cũng tỏ ra nhã nhặn, bà ngồi thẳng trên ghế, nói ít nhưng đã nói thì cực kì thú vị và dễ nghe; chỉ nhìn vẻ ngoài của bà cũng thấy dịu dàng; ở con người quý phái, kín đáo này, toả ra một vẻ điềm đạm, thư thái tuyệt vời. Bà giữ một khoảng cách nhất định đối với tất cả; đối với từng người, bà lại có sự chú ý riêng biệt một cách tế nhị; bà thường hay ngồi ở ngoài vườn với sách vở; đôi lúc bà chơi dương cầm và rất ít khi người ta thấy bà ở giữa một đám đông hay bị cuốn hút vào một cuộc nói chuyện ồn ào. Người ta ít chú ý đến bà, nhưng đối với chúng tôi, bà có một uy quyền khác lạ. Bởi vì, khi bà can thiệp lần đầu tiên vào câu chuyện của chúng tôi, tất cả chúng tôi có cái cảm giác nặng nề là đã quá lớn tiếng và không tự kiềm chế được bản thân mình.

Bà C… đã tranh thủ phút tạm ngưng bực tức khi ông người Đức chồm khỏi ghế, bị nhẹ nhàng kéo về chỗ cũ. Bà bất chợt ngước đôi mắt nâu và sáng, do dự nhìn tôi một lát để sau đó tự đặt vấn đề với sự chính xác của một nhà chuyên môn.

– Nếu tôi hiểu đúng ý ông, thì ông nghĩ rằng bà Hăngriet… rằng một người đàn bà, dù không muốn, cũng không có thể bị xô đẩy vào một cuộc phiêu lưu bất ngờ? Ông nghĩ rằng có những hành động mà một người đàn bà như vậy, cho là không thể nào tới với họ một giờ trước đó, và bà ta không phải chịu trách nhiệm về hành động ấy.

– Thưa bà tôi đã nghĩ đúng như vậy.

– Vậy thì mọi sự phán xét về đạo đức sẽ hoàn toàn không có giá trị, mọi vi phạm những quy luật về luân lí sẽ được bảo vệ. Nếu ông thật sự chấp nhận, coi án mạng vì tình không phải là tội phạm như người Pháp vẫn nói, thì duy trì toà án để làm gì? Cũng không cần nhiều thiện chí lắm (mà ông thì có quá nhiều thiện chí, bà mỉm cười nói thêm) để tìm thấy trong mỗi vụ trọng tội, một sự đam mê nào đó, và tìm ra một lời biện bạch.

Giọng nói trong trẻo, hơi vui vẻ, đã làm tôi thấy ấm lòng lạ thường; tự nhiên bắt chước thái độ khách quan của bà, tôi nửa đùa, nửa nghiêm túc trả lời:

– Chắc chắn là toà án sẽ nghiêm khắc hơn tôi về những vấn đề này; họ có sứ mệnh phải bảo vệ đến cùng những phong tục và các điều quy ước chung; điều đó buộc họ phải kết án thay vì tha lỗi. Nhưng tôi, một người bình thường, tôi không hiểu tại sao tôi lại phải tự đảm nhận vai trò công tố viên. Tôi muốn làm người chuyên đi bảo vệ hơn. Bản thân tôi, tôi thích hiểu con người hơn xét xử họ.

Bà C… nhìn thẳng vào tôi một lát bằng cặp mắt sáng và nâu, rồi bà ngập ngừng. Tôi sợ bà không hiểu rõ tôi và tôi định nhắc lại bằng tiếng Anh điều tôi đã nói. Nhưng với vẻ nghiêm nghị đặc biệt và như trong một kì sát hạch, bà tiếp tục hỏi:

– Thế ông không thấy rằng, một người đàn bà, bỏ cả chồng con để đi theo một kẻ nào đó, chưa biết có xứng đáng với tình yêu của mình không, là đáng khinh và bỉ ổi ư? Ông có thể tha thứ một hành vi liều lĩnh và nhẹ dạ đến thế của một người đàn bà không còn trẻ nữa, mà lẽ ra, bà ta phải biết học cách tự trọng lấy mình, dù chỉ vì các con?

– Thưa bà, tôi xin nhắc lại – tôi khăng khăng – là tôi từ chối không có một sự phán xét hay lên án ở trường hợp này. Nhưng trước mặt bà, tôi có thể bình thản thừa nhận rằng lúc nãy, tôi có hơi nói quá. Cái bà Hăngriet tội nghiệp kia, chắc chắn không phải là một nữ anh hùng; bà ta không có cả bản chất của một con ngưòi phiêu lãng, bà ta còn kém một người đa tình nồng nhiệt. Theo tôi hiểu về bà ấy, bà ta chỉ là một người đàn bà yếu đuối, bình thường, mà tôi có đôi chút kính nể vì bà ta đã can đảm làm theo ý muốn của mình, nhưng tôi còn thương xót bà ta hơn vì ngày mai, nếu không phải là đã xảy ra hôm nay rồi, bà ta sẽ đau khổ một cách sâu sắc. Có thể bà ta đã hành động ngốc nghếch, dù sao bà ấy cũng quá hấp tấp, nhưng tư cách của bà không có gì là hèn hạ, thấp kém và trước sau, tôi cũng không cho ai được quyền khinh rẻ người đàn bà đáng thương và đau khổ này.

– Thế ông, ông còn có đủ sự kính nể, lòng tôn trọng đối với bà ấy không? Ông có phân biệt người đàn bà nết na mới hôm trước ông còn gặp, với người hôm qua đã đi theo một gã đàn ông hoàn toàn xa lạ không?

– Thưa không, tôi không có chút phân biệt nào dù là nhỏ nhất.

– Thật vậy sao?

Tự nhiên, bà nói bằng tiếng Anh, cuộc nói chuyện làm bà có vẻ thú vị lạ thường. Sau một giây lát suy nghĩ, cái nhìn trong sáng của bà lại nhằm vào tôi.

– Nếu ngày mai, ông gặp bà Hăngriet ở Nixơ chẳng hạn, khoác tay với chàng trai ấy, ông có chào bà ta không?

– Tất nhiên là có chứ.

– Ông có nói chuyện với bà ấy không?

– Tất nhiên là có!

– Nếu ông… nếu ông có vợ, ông có giới thiệu vợ ông với người đàn bà ấy, như không có gì xảy ra không?

– Tất nhiên là có.

– Ông sẽ làm như vậy thật ư? – Bà lại nói với vẻ ngạc nhiên, hồ nghi và sửng sốt.

– Nhất định tôi sẽ làm như vậy? – Tôi đáp lại bằng tiếng Anh mà không để ý thấy nữa.

Bà C… nín lặng. Bà vẫn chìm lắng trong suy nghĩ và đột nhiên nhìn vào tôi, bà nói, như ngạc nhiên về sự dũng cảm của chính mình:

– Tôi không biết tôi có làm như vậy không? Có lẽ tôi cũng phải làm như vậy.

Và với vẻ tự tin không sao mô tả nổi, mà chỉ người Anh mới biết dùng để chấm dứt cuộc nói chuyện một cách dứt khoát nhưng không đột ngột, thô lỗ, bà đứng dậy, thân mật chìa tay ra cho tôi. Nhờ có bà can thiệp, yên tĩnh đã trở lại, về phần chúng tôi, chúng tôi thầm biết ơn bà, vì dù còn là đối thủ của nhau, chúng tôi vẫn có thể chia tay nhau có lễ độ và không khí căng thẳng nguy hiểm cũng tan dần sau vài lời bông lơn vớ vẩn.

Mặc dù cuộc tranh cãi chấm dứt một cách lịch sự, giữa những địch thủ và tôi vẫn còn một chút lạnh nhạt do chỗ điều qua tiếng lại hằn học và sôi nổi. Cặp vợ chồng người Đức tỏ ra dè dặt, còn ông người Ý, những ngày sau đó, cứ luôn hỏi tôi với vẻ giễu cợt, xem tôi có tin tức gì về “cái bà Hăngriet không?” Dù cho chúng tôi có giữ lễ độ đến chừng nào, đã có sự đổ vỡ không sao cứu vãn nổi trong quan hệ trung thực và thẳng thắn giữa chúng tôi. Vẻ lạnh lùng châm biếm của các đổi thủ cũ của tôi, lại càng làm nổi bật hơn sự nhã nhặn thật đặc biệt mà bà C… dành cho tôi sau cuộc tranh cãi đó. Bình thường bà cực kì dè dặt, và ngoài bữa ăn, hầu như không bao giờ bà nói chuyện với những người ngồi cùng bàn, bây giờ, bà nhiều lần tìm cơ hội để trò chuyện với tôi, ở ngoài vườn; có thể nói bà đã tôn tôi lên bằng cách tách riêng tôi ra, bởi vì dáng điệu dè dặt, quý phái của bà làm cho cuộc nói chuyện riêng có tính chất như một đặc ân. Thật ra, tôi phải nói là bà đã tìm đến tôi, bà không bỏ qua cơ hội nào để bắt chuyện với tôi, điều đó rõ ràng đến nỗi, nếu đấy không phải là một bà già tóc bạc trắng, tôi có thể có những ý nghĩ kiêu căng và kì cục. Nhưng mỗi lần nói chuyện như vậy, câu chuyện của chúng tôi, không sao tránh khỏi là trở lại từ đầu, về bà Hăngriet. Bà C… có vẻ ngấm ngầm khoái trá, buộc tội người đàn bà đã quên bổn phận của mình, là không đứng đắn, là vô luân. Nhưng đồng thời bà cũng có vẻ vui vì tôi, trước sau như một, vẫn dành cảm tình cho người đàn bà mảnh mai và dịu dàng đó, và không gì có thể làm tôi chối bỏ tình cảm ấy. Bà luôn lái câu chuyện về cái hướng đó. Cuối cùng, tôi không biết nghĩ ra sao về sự cố tình lạ lùng và hơi bệnh hoạn ấy.

Tình hình đó kéo dài độ năm hay sáu ngày, không có một lời nào của bà để lộ lý do cho thấy đề tài câu chuyện ấy quan trọng với bà đến như vậy. Nhưng rồi tôi cũng thấy rõ điều quan trọng đó, trong một cuộc đi dạo, khi tôi vô tình nói với bà rằng thời gian ở lại đây của tôi đã sắp chấm dứt và tôi dự tính sẽ rời khỏi đây vào ngày mốt. Thế là khuôn mặt bà, thường vẫn bình thản, bỗng có một vẻ căng thẳng khác lạ, như một bóng mây đi ngang qua cặp mắt nâu của bà:

– Đáng tiếc thật! Tôi còn biết bao nhiêu điều muốn bàn luận với ông, – bà nói.

Từ lúc đó, một vẻ bối rối, một vẻ xao xuyến cho thấy rằng, miệng nói, nhưng bà nghĩ tới một điều gì đã làm bà bận tâm nhiều, làm bà xao lãng trong câu chuyện với tôi. Rồi tình trạng lơ đãng cũng làm bà ngượng ngùng, vì sau một lát đột ngột lặng thinh, bà bất chợt đưa tay cho tôi và nói:

– Tôi thấy tôi không thể trình bày rõ ràng điều tôi định nói với ông. Tôi muốn viết cho ông hơn.

Rồi bà rảo bước nhanh hơn thường lệ, về phía khách sạn.

Quả nhiên, trước bữa ăn chiều một chút, tôi thấy trong phòng tôi, một lá thư viết bằng một thứ chữ rắn rỏi, và rõ ràng. Đáng buồn là tôi hay lơ là với những thư từ nhận được trong thời thanh niên, nên tôi không sao chép lại được nguyên văn lá thư đó, – tôi chỉ có thể ghi lại đại khái nội dung của nó – trong thư bà hỏi tôi xem tôi có cho phép bà kể cho tôi nghe một đoạn đời của bà.

Bà viết, sự kiện ấy lâu đến nỗi nó không còn thuộc về cuộc sống hiện tại của bà và do ngày mốt, tôi đã đi rồi, bà thấy dễ dàng nói về một việc đã hai mươi năm nay cứ luôn làm bà phải bận tâm và cắn rứt bà. Cho nên nếu một cuộc nói chuyện như vậy không làm phiền tôi, bà mong tôi đến tìm bà vào một giờ bà định.

Bức thư đó, tôi chỉ nói sơ qua nội dung, hấp dẫn lạ thường; riêng việc bà viết bằng tiếng Anh, đã cho thấy nó rất rõ ràng và đầy quả quyết. Tuy nhiên tôi trả lời cũng không dễ dàng, và tôi đã xé ba tờ nháp mới đạt tới hình thức cuối cùng.

“Tôi coi việc bà tin tôi đến như vậy là một vinh dự cho tôi và tôi xin hứa sẽ đáp lại một cách thành thật trường hợp bà yêu cầu tôi. Tất nhiên tôi xin bà hãy chỉ nói những điểm bà muốn bộc lộ với tôi, đúng với sự thật hoàn toàn. Tôi xin thưa với bà, tôi coi sự tin cậy của bà là một điều quý trọng đặc biệt”.

Ngay buổi chiều, lá thư nhỏ của tôi đã ở bên phòng bà và sáng hôm sau, tôi nhận được câu trả lời:

“Ông nói rất có lý; sự thật nửa vời không có giá trị gì, bao giờ cũng nên là một sự thật hoàn toàn. Tôi sẽ cố nghiền ngẫm hết sức để không giấu giếm chút gì với bản thân tôi và với ông. Sau bữa ăn, ông hãy đến phòng tôi (với tuổi sáu mươi bảy, tôi không sợ bị hiểu lầm), vì ở ngoài vườn hay nơi nào có người, tôi không thể nào nói được. Ông hãy tin là tôi quyết định không phải dễ đâu”.

Chiều ngày đó, chúng tôi gặp nhau tại bàn và đã trò chuyện vui vẻ với nhau về những chuyện khác. Nhưng, ở ngoài vườn, bà đã tránh gặp tôi, với vẻ lúng túng rõ ràng; tôi vừa ái ngại vừa cảm động khi thấy bà già tóc bạc trắng này lướt vội dọc lối đi có trồng thông, e lệ như một thiếu nữ.

Buổi chiều, đúng giờ hẹn, tôi gõ cửa phòng bà, cửa mở ngay tức khắc. Gian phòng chìm trong bóng hoàng hôn, mờ mờ, chỉ có một cây đèn nhỏ đặt trên bàn, toả ra một chùm ánh sáng vàng. Bà C… mời tôi tới chiếc ghế phôtơi và không chút lúng túng, bà ngồi trước mặt tôi; tôi thấy mỗi cử chỉ của bà đều có tính toán; nhưng có một phút im lặng, rõ ràng là không định trước – phút im lặng trước một quyết định khó khăn, phút im lặng kéo dài rất lâu, và tôi không dám lên tiếng, sợ phá vỡ nó, vì tôi cảm thấy lúc này đây, một ý chí mạnh mẽ đang đấu tranh kiên cường chống một sức đề kháng cũng mạnh mẽ. Tại phòng khách ở tầng dưới, thỉnh thoảng lại vọng lên, những âm thanh yếu ớt, rời rạc của bản luân vũ, tôi lắng nghe, tập trung đến căng thẳng để sự im lặng đó bớt nặng nề. Bà ta như cũng thấy khó chịu với sự yên tĩnh nhọc nhằn, trái với tự nhiên này, vì bỗng nhiên bà thu mình lại như để lao tới và bà bắt đầu:

– Chỉ câu đầu tiên là khó khăn. Đã hai hôm nay, tôi chuẩn bị để cho thật rõ ràng và chân thật; tôi hi vọng sẽ đạt được kết quả. Có lẽ ông chưa hiểu được vì sao tôi lại kể tất cả chuyện này cho ông, là người xa lạ đối với tôi; nhưng không một ngày nào, không một giờ nào, tôi lại không nghĩ đến việc này; xin ông hãy tin ở tôi, một bà già, khi tôi nói với ông rằng, việc cứ phải chăm chú suốt đời chỉ nhìn vào một điểm, vào một ngày của đời mình, thật không sao chịu nổi. Vì tất cả những điều tôi sắp kể với ông chỉ chiếm thời gian hai mươi bốn giờ trong sáu mươi bảy năm, và tôi thường tự nhủ đến phát điên lên là: “Nếu trong khoảng thời gian dài đó, người ta có một lúc cuồng dại, chỉ một lần thôi, thì đã sao!”. Nhưng người ta không thể gạt bỏ cái mà chúng ta gọi bằng một từ ngữ rất mơ hồ là lương tâm; khi tôi nghe ông cân nhắc trường hợp Hăngriet một cách khách quan như vậy, tôi nghĩ rằng cái lối cứ luôn nhìn về dĩ vãng rồi không ngừng buộc tội mình, là vô lí, nó sẽ chấm dứt nếu tôi được nói chuyện thoải mái với một người khác về cái ngày duy nhất trong đời mình. Nếu tôi theo đạo Thiên Chúa thay vì theo đạo Anglican [Đạo Tin lành, vì nó được công nhận đầu tiên ở Anh], việc xưng tội đã từ lâu tạo cơ hội chuộc lại điều bí mật của tôi; nhưng điều an ủi đó tôi cũng không có được, cho nên hôm nay tôi thử làm cái việc kì quặc là tự giải tội cho mình bằng cách coi ông là người tâm phúc. Tôi hiểu rằng tất cả những cái đó thật lạ lùng, nhưng ông đã chấp nhận không do dự đề nghị của tôi và tôi xin cảm ơn ông.

Như tôi đã nói với ông, tôi chỉ đơn giản kể cho ông nghe một ngày trong cuộc đời tôi thôi; ngoài cái đó ra, không có gì là quan trọng mà còn nhàm chán đối với người khác, không phải là tôi. Cuộc đời tôi cho đến năm tôi bốn mươi hai tuổi hoàn toàn bình thường. Cha mẹ tôi là những nhà quý tộc giàu có, nhiều ruộng đất ở Êcốt. Cha mẹ tôi có những nhà máy lớn và những trang trại lớn; chúng tôi sống lối sống của giới quý tộc địa phương – gần suốt năm, trên đất đai của mình, và ở Lơnđơn, trong Mùa ăn chơi. Năm mười tám tuổi, tôi quen chồng tôi trong một cuộc giao tế; anh là con thứ hai của gia đình ông R… vốn có tiếng tăm, và anh đã phục vụ mười năm ở Ấn Độ. Chúng tôi lấy nhau ngay và sống cuộc đời vô tư của giai cấp chúng tôi: ba tháng ở Lơnđơn, ba tháng tại đất đai của chúng tôi; thời gian còn lại là từ khách sạn này đến khách sạn khác ở Ý, Tây Ban Nha và Pháp. Không một gợn nhỏ nào khuấy động cuộc hôn nhân của chúng tôi; chúng tôi sinh được hai con trai, nay đã trưởng thành. Tôi được hơn bốn mươi tuổi thì chồng tôi chết hơi đột ngột. Qua những năm sống ở vùng nhiệt đới, ông ấy đã mắc phải một chứng bệnh gan. Tôi đã mất ông ấy sau hai tuần đau khổ ê chề. Con trai lớn của tôi đã đi làm, đứa nhỏ còn đi học. Thế là chỉ qua một đêm, tôi đã hoàn toàn cô đơn và cảnh cô độc ấy đối với tôi, vốn được mọi người thương mến là một nỗi đau khổ ghê gớm. Tôi tưởng không thể ở thêm một ngày trong căn nhà trống trải, mỗi đồ vật đều gợi cho tôi cái chết bi thảm của người chồng yêu dấu; cho nên tôi quyết định sẽ đi du lịch thật nhiều trong những năm tới, chừng nào các con tôi chưa cưới vợ.

Từ lúc đó, trong thâm tâm, tôi coi đời tôi không còn mục đích gì và hoàn toàn vô ích. Người đã chia sẻ từng giờ, từng ý nghĩ với tôi trong suốt hai mươi ba năm trời đã chết; các con tôi không cần đến tôi, tôi sợ làm xáo trộn tuổi trẻ của chúng do tính tình ủ rũ và nỗi buồn của tôi, bản thân tôi không ham muốn gì hết. Thoạt đầu tôi đến Pari, trong cảnh nhàn cư, đi lướt qua các cửa hàng và các nhà bảo tàng; nhưng thành phố và đồ vật đối với tôi thật là xa lạ, tôi tránh mọi người, vì bộ đồ tang của tôi chỉ đem lại cho tôi những cái nhìn thương hại, làm tôi chẳng thích thú gì. Giờ đây, tôi không thể nào kể lại được những tháng ngày lông bông buồn tẻ, u uất, đã trôi qua ra sao; tôi chỉ biết rằng ý nghĩ muốn được chết luôn ám ảnh tôi; nhưng tôi không đủ sức tự xô đẩy mình tới cái kết thúc mong mỏi đau khổ ấy.

Năm góa bụa thứ hai của tôi, nghĩa là năm tôi ở tuổi bốn mươi hai, trong cảnh lầm lũi lẩn trốn trước cuộc sống vô nghĩa đối với tôi, thời gian thì không biết làm gì cho hết, tôi đã đi Môngtơ Cáclô, hồi tháng ba. Thành thật mà nói, đó là do buồn chán, muốn thoát khỏi cảnh trống rỗng đang dày vò tâm hồn mình như một cơn ói mửa và muốn tìm ra ít nhất là sự khuây khoả do những kích thích nhỏ bên ngoài đem lại. Tôi càng ít nhạy cảm bao nhiêu thì lại càng thấy cần lao vào nơi mà cuộc sống tỏ ra quay cuồng nhất; đối với người không còn quan tâm đến gì sâu sắc thì chỉ hoạt động say mê của những người khác, như sân khấu hay âm nhạc, mới tác động được tới trí não.

Do đó tôi thường đi đến casinô. Điều kích thích đối với tôi là được nhìn thấy hạnh phúc hay thất vọng hiện lên trên mặt người khác một cách cuồng nhiệt, còn tôi thì không một luồng sinh khí nào có thể lay động nổi. Ngoài ra, chồng tôi, tuy không hời hợt, nhưng cũng thích lui tới nơi đổ bác và tôi vẫn trung thành với những thói quen cũ của anh một cách kính tín vô thức. Ở đó bắt đầu cái thời gian hai mươi bốn tiếng hồi hộp hơn tất cả các trò bài bạc trên đời và làm số phận tôi bị đảo lộn tới hàng năm trời.

Buổi trưa, tôi dùng bữa với công tước M… một người bà con trong gia đình. Sau bữa chiều, tôi chưa mệt mỏi đến nổi phải đi ngủ. Thế là tôi vào sòng bạc, không đánh, mà tha thẩn từ bàn này đến bàn khác, chỉ nhìn một cách đặc biệt những con bạc tụ tập lộn xộn ở đó. Tôi nói “một cách đặc biệt” vì đó là cách mà người chồng quá cố của tôi đã bày cho tôi vào một ngày mà chán không muốn nhìn nữa, tôi phàn nàn về sự buồn nản vừa phải trông mãi, một cách ngớ ngẩn, vẫn những khuôn mặt ấy: những bà già nhăn nheo, ngồi lì hàng giờ ở đó, trước khi liều quăng ra một đồng giơ-tông, những con bạc xảo trá và những “ả điếm đàng” của trò bài lá – tất cả cái xã hội tứ chiếng từ khắp nơi kéo đến; và như ông cũng biết đấy, cái xã hội ấy không đẹp đẽ và lãng mạn như bức tranh thường mô tả họ trong các truyện khốn khổ, trong đó họ được coi như bông hoa của sự hào hoa phong nhã, như giới quý tộc châu Âu. Và tôi nói với ông về lúc đó, là cách đây hai mươi năm, lúc mà tiền còn bằng vàng, bằng bạc, đủ trọng lượng, lăn được, lúc mà những tờ giấy bạc sột soạt, những đồng Napôlêông, những đồng năm phrăng to bự quay cuồng lộn xộn, lúc mà nhà casinô còn thú vị hơn bây giờ nhiều và ở cái thành trì tráng lệ của đổ bác, được xây lại theo thời trang, đám công chúng trưởng giả gồm các du khách du lịch của hãng Cúc đã uể oải vung phí những đồng giơ-tông vô tri vô giác. Nhưng trong thời kì ấy, tôi thấy vẻ đơn điệu của những bộ mặt dửng dưng đó không có gì hấp dẫn, cho đến một ngày, chồng tôi, vốn say mê đặc biệt việc coi tướng tay, đã chỉ cho tôi một cách nhìn mới, quả là thú vị, kích thích và cuốn hút hơn nhiều so với cách đứng uể oải tại chỗ mà xem, đó là cách không bao giờ nhìn vào mặt, mà chỉ nhìn vào cái khuôn vuông trên bàn, và ở chỗ ấy, lại chỉ nhìn những bàn tay của con bạc, chỉ nhìn từng cử động của những bàn tay đó thôi.

Tôi không biết, có lúc nào ông vô tình ngắm những cái bàn màu xanh lá cây, riêng cái khoảng vuông màu xanh nhạt, trong cái khoảng đó, hòn bi tròn lảo đảo lăn từ số này sang số khác như một người say rượu và những tấm giấy xoay lộn, những đồng tiền tròn bằng vàng, bạc rơi như hạt giống xuống những ô vuông để sau đó, cái bàn cào của người hồ lì, y hệt một lưỡi liềm, hái tiền bằng một động tác sắc gọn, hoặc đẩy đi, như một bó lúa, về phía người thắng. Điều duy nhất, biến đổi trong cảnh này là những bàn tay, vô số những bàn tay, sáng sủa , sôi nổi, hoặc chờ đợi quanh chiếc bàn xanh, tất cả có vẻ đang rình rập, bên hang ổ, khác nhau ở nơi cổ tay áo, mỗi bàn tay đều giống một con thú sắp chồm lên, cái nào cũng có hình dáng, màu sắc của nó, có những cái trống trơn, có những cái đeo nhẫn và dây chuyền, kêu lanh canh, cái thì lông lá như thú dữ, cái khác mềm mại, và ẩm nhớp như con lươn, nhưng tất cả đều căng thẳng một cách thầm kín và rung lên, bồn chồn.

Cờ bạc biểu lộ con người, đó là một từ sáo mòn, tôi biết vậy; nhưng ở đây, tôi nói: bàn tay của từng người trong canh bạc, còn biểu lộ con người đó rõ hơn nữa. Bởi vì tất cả, hoặc hầu hết tất cả những ai chơi trò đỏ đen đều sớm học được cách chế ngự nét mặt của mình; ở phía trên nơi cổ áo sơ mi, họ lạnh lùng đeo chiếc mặt nạ thản nhiên; họ buộc những nét hằn quanh miệng họ phải biến mất; họ đẩy lui cảm xúc của họ trong hàm răng nghiến chặt, họ giấu nỗi lo âu đối với bản thân họ, họ làm giảm nét gân guốc của cơ bắp trên mặt họ bằng một vẻ thờ ơ giả tạo, làm như cao sang lắm. Nhưng chính vì họ tập trung chú ý che giấu những gì hiện lên rõ nhất trong con người, nghĩa là trên mặt, họ đã quên mất bàn tay, họ quên là có những người chỉ quan sát những bàn tay đó thôi và qua chúng đã đoán được những gì mà đôi môi cười tủm tỉm, cái nhìn giả bộ thờ ơ cố che giấu. Bàn tay để lộ trần trụi những điều bí ẩn nhất của con người. Bởi vì có một lúc, không sao tránh được, tất cả những ngón tay bị cầm giữ một cách khó nhọc, có vẻ như ngủ, đã không còn vẻ ung dung, thư thái nữa. Vào giây phút quyết định, khi hòn bi ở bàn ru-lét rơi vào hốc, và người ta rao số trúng lên, thì, ở giây phút đó, mỗi bàn tay trong số hàng trăm hay hàng năm trăm bàn tay này đã tự nhiên cử động một cách thật cá biệt, thật riêng tư, theo bản năng nguyên thuỷ của nó. Và khi người ta đã quen quan sát, như tôi, do sở thích của chồng mình truyền lại, loại đấu trường của những bàn tay, cách cử động đột ngột, luôn thay đổi, luôn bất ngờ, do những tâm tính luôn khác nhau để lộ ra thật say mê hơn cả sân khấu hay âm nhạc. Tôi không thể chỉ cho ông rõ từng chi tiết là trên bàn bạc có hàng ngàn dáng bộ của các bàn tay, cái thì như thú dữ, có những ngón tay lông lá, có móng vuốt, quắp tiền như kiểu con nhện, cái thì nóng nảy, run rẩy, móng tay nhợt nhạt, không dám sờ vào tiền; cao quý và bần tiện, tàn bạo và nhút nhát, xảo trá và gần như ngập ngừng; mỗi bàn tay đều có kiểu cách đặc biệt của mình, vì mỗi bàn tay đều có kiểu cách đặc biệt của mình, vì mỗi bàn tay đó đều thể hiện một cuộc sống khác nhau; không kể tới năm hay sáu bàn tay của những người hồ lì. Những bàn tay này thật sự là những cái máy; chúng hoạt động như những nhánh bằng thép kêu tanh tách của chiếc máy đếm có cánh quay chỉ để từng người một lọt qua, một cách khách quan, chuyên nghiệp, hoàn toàn vô tình, tương phản với cuộc sống cuồng nhiệt của những bàn tay trên. Nhưng chính những bàn tay lạnh lùng này, đến lượt chúng, lại tạo ra một tác động lạ thường bởi sự đối nghịch của chúng với những bàn tay chị em thèm khát và mê say kia, tôi dám nói là chúng mặc một bộ sắc phục riêng giống như các cảnh binh giữa biển người, trong không khí kích động của đám dân nổi loạn.

Thêm vào đó, còn cái thích thú riêng là chỉ qua vài buổi chiều, tôi đã thân quen được với vô số những thói quen và nỗi say mê của vài bàn tay; chỉ cần ít ngày, là tôi đã quen những bàn tay mới và tôi xếp loại chúng, y như người, là có cảm tình hay khả ố. Nhiều bàn tay làm tôi thật khó chịu bởi sự thô tục và gian tham của chúng, mỗi khi thấy chúng là tôi nhìn ngay đi chỗ khác như đó là một vật dung tục. Mỗi khi có một bàn tay mới xuất hiện là tôi thấy đó là một sự kiện gợi trí tò mò của tôi làm tôi thường quên không nhìn đến bộ mặt tương ứng với nó, ở phía trên cổ áo, bất động, giống như chiếc mặt nạ lạnh lùng, lịch thiệp, trên chiếc sơ mi dạ hội hay một cái cổ long lanh đồ trang sức.

Thế là chiều hôm ấy, tôi đến casinô; sau khi đi ngang qua hai bàn quá đông, tôi sà vào bàn thứ ba, và đã chuẩn bị sẵn vài đồng lu-i vàng, tôi ngạc nhiên nghe thấy, trong giây phút tạm ngưng hoàn toàn yên ắng, đầy căng thẳng này, ngay cả sự im lặng như cũng rung lên, thường vẫn xảy ra khi hòn bi đang do dự, giữa hai con số, sắp dừng lại – tôi phải nói là nghe thấy, ngay trước mặt tôi một tiếng động khác thường, một tiếng răng rắc, một tiếng cắc như tiếng khớp xương bị gãy phát ra. Tôi sửng sốt nhìn về phía bên kia tấm thảm. Và tôi thấy ở đó (thật là kinh hãi) hai bàn tay mà tôi chưa từng thấy bao giờ, một bàn tay phải và một bàn tay trái ngoắc vào nhau, như những con thú đang cắn nhau, siết chặt tay nhau, chống lại nhau một cách dữ tợn, phũ phàng, co quắp lại làm các đốt ngón tay kêu rắc gọn như tiếng một quả hạt dẻ bị bóp vỡ phát ra.

Đó là những bàn tay đẹp hiếm có, dài, mảnh dẻ lạ thường, nhưng lại có những cơ bắp rất rắn rỏi – những bàn tay trắng trẻo, phía đầu từ những móng tay nhàn nhạt, bóng như xà cừ, cắt tròn, thanh nhã. Tôi ngắm chúng suốt buổi tối, đúng vậy, tôi đã ngắm chúng, những bàn tay kì lạ, độc nhất vô song này, mà cứ ngạc nhiên mãi; như thoạt đầu, điều làm tôi ngạc nhiên đến phát sợ là cơn sốt, là cái vẻ đam mê cuồng nhiệt, là cái cách chúng quắp lấy nhau, vật lộn với nhau. Lập tức tôi hiểu ngay đây là một con người tràn trề sức mạnh, đã tập trung tất cả sự đam mê của mình vào đầu các ngón tay, cho cơ thể không bùng nổ được. Và bây giờ đây… đúng cái giây phút đó, hai bàn tay bỗng rời nhau như hai con thú bị tử thương, bởi cùng một viên đạn.

Cả hai, chúng ngã xuống, chết thật sự chứ không phải chỉ là kiệt sức; chúng ngã xuống với một vẻ rõ ràng là chán nản và vỡ mộng, như bị sét đánh, cùng cực, và tôi cũng bất lực không sao tả lại được cảnh ấy. Vì trước đó cũng như sau này, không bao giờ còn được trông thấy những bàn tay có tinh thần đến như vậy, ở chúng, mỗi cơ bắp là một cái miệng và sự đam mê toát ra rõ rệt từ các lỗ chân lông.

Cả hai, chúng nằm sóng sượt một lát, trên tấm thảm xanh, như những con sứa bị dạt vào bờ, èo uột, chết hẳn. Rồi một trong hai bàn tay, bàn tay phải, nhọc nhằn nhấc những đầu ngón lên, nó run rẩy, gập lại, xoay một vòng quanh mình nó, ngập ngừng và sau cùng nó nóng nảy nhặt một đồng giơ-tông lên, lưỡng lự lăn trên đầu ngón cái và ngón trỏ như lăn một bánh xe nhỏ. Đột nhiên bàn tay uốn mình lại như một con báo mềm mại cong lưng và nó ném, đúng hơn là nó khạc mạnh đồng giơ-tông một trăm phrăng đang ở trong tay nó vào giữa ô vuông đen. Ngay tức khắc, như theo tín hiệu, bàn tay trái vẫn nằm lì cũng dao động trỗi dậy, lướt đi, nói cho đúng là lết tới bàn tay anh em kia đang run lên mệt mỏi vì vừa làm cái việc tung tiền ra, bây giờ thì cả hai đang ở bên nhau, run rẩy; giống những hàm răng va nhẹ lập cập vào nhau trong cơn sốt rùng mình, cả hai bàn tay gõ nhẹ xuống bàn, không gây ra tiếng động. Chưa bao giờ, chưa bao giờ tôi lại thấy những bàn tay có tinh thần kì lạ đến như vậy, có cái cách chuyển động và chăm chú vất vả đến như vậy. Tất cả những gì khác đang diễn ra dưới cái vòm lớn này: tiếng rì rào ở các phòng khách, tiếng rao ầm ĩ của những người hồ lì, tiếng người đi lại và tiếng của chính những hòn bi bây giờ được tung từ trên cao, nhảy nhót như điên trong cái lồng tròn, sàn bóng loáng, vô vàn những cảm xúc đó xáo trộn lẫn lộn, nối tiếp nhau đập vào trí não, tất cả những cái đó đối với tôi bỗng như đã chết và bất động bên cạnh hai bàn tay run rẩy, hổn hển như hết hơi, khắc khoải đợi chờ, đang lập cập, rung lên, hai bàn tay quái lạ đã mê hoặc, chiếm đoạt tâm hồn tôi.

Sau cùng, tôi không cưỡng lại được, tôi thấy cần phải trông thấy người, trông thấy bộ mặt, chủ của những bàn tay huyền ảo này; và với nỗi lo âu (phải, với nỗi lo âu thật sự vì những bàn tay ấy làm tôi phát sợ) mắt tôi lướt chầm chậm dọc cánh tay áo lên tận đôi vai nhỏ hẹp. Một lần nữa tôi giật mình, kinh hãi vì bộ mặt cũng như những bàn tay ấy, nói cùng một thứ ngôn ngữ, phóng khoáng, cùng bị kích thích quá độ một cách quái dị như nhau, bộ mặt ấy có cái vẻ hăm hở ghê gớm bên vẻ đẹp thanh nhã, mềm yếu gần như của phụ nữ. Chưa bao giờ tôi thấy bộ mặt như vậy, có thể nói, xứng với con người ấy, lại tách biệt với nó, để sống một cuộc sống riêng, để tự buông thả hoàn toàn vô hạn độ. Tôi đã có cơ hội thật tốt để quan sát bộ mặt này, như xem một chiếc mặt nạ, một thứ tác phẩm tạo hình không thần sắc; con mắt đó, cái con mắt điên loạn không liếc sang phải hay sang trái lấy một giây: con người cứng đơ và đen giống như một hòn bi bằng thuỷ tinh, không hồn, dưới đôi mắt mở to – như phản ánh long lanh cái hòn bi bằng gỗ đào hoa tâm đang lăn, nhảy điên cuồng, ngạo nghễ, trong cái vòng tròn nhỏ của bàn ru-let.

Tôi cứ phải nhắc lại là tôi chưa hề thấy một bộ mặt cuồng nhiệt và hấp dẫn đến thế.

Đó là bộ mặt của một thanh niên chừng hai mươi bốn tuổi, mặt anh ta gầy, thanh mảnh, hơi dài, trông thật ý nhị. Cũng như những bàn tay, mặt anh không cường tráng, mà giống như mặt một đứa trẻ mải chơi thì đúng hơn; nhưng mãi sau này tôi mới nhận ra tất cả những cái ấy, bởi vì lúc đó, bộ mặt ấy, đã biến hẳn dưới cái vẻ thèm khát, sôi sục, rõ rệt. Cặp môi mỏng hé to, nóng nảy, để lộ gần nửa hàm răng va lập cập vào nhau, cuồng nhiệt còn miệng thì đơ ra, mở rộng. Một mớ tóc, sáng màu bạch kim, dính chặt vào trán ướt đẫm mồ hôi, nó rũ về trước như người bị ngã và hai cánh mũi cứ rung lên liên tục, như có một lớp sóng nhỏ vô hình dưới lớp da. Và cái đầu vô tình cứ mỗi lúc ngả về trước một nhiều, gợi lên cái cảm giác là nó bị cơn xoáy của hòn bi nhỏ hút theo; lúc đó tôi nới hiểu vì sao hai bàn tay lại nắm chặt lấy nhau co quắp như vậy; chính là do cái lực – chống lại phản ứng, do sự co thắt đó mà thân người đã rời khỏi trung tâm điểm của nó mà vẫn giữ được thăng bằng.

Chưa bao giờ (tôi cứ phải nhắc đi nhắc lại mãi điều này) tôi lại thấy một bộ mặt mà sự đam mê vọt tung ra trần trụi, trơ trẽn, thô tục và tôi ở đó mê mẩn, nhìn chòng chọc vào nó, vào bộ mặt ấy… tôi cũng bị mê hoặc, cũng bị thôi miên bởi bộ mặt điên dại ấy, như cặp mắt của nó bị viên bi đang quay lộn, nhảy nhót làm hồi hộp, mê hoặc và thôi miên. Từ giây phút ấy, tôi không để ý gì đến trong gian phòng; tất cả đối với tôi như có vẻ mờ nhạt, ảm đạm và bị xóa nhoà, tất cả như tối lại so với ánh lửa phát ra từ bộ mặt đó, và tôi không để ý tới ai, tôi quan sát có lẽ đến một giờ chỉ con người này và từng cử chỉ của anh ta… Một tia sáng lóe trong mắt anh, hai bàn tay anh run rẩy, nắm chặt lấy nhau giống như một cuộn len, bỗng nhiên bung ra do một tiếng nổ lớn và những ngón tay xòe mạnh, run rẩy thèm khát nắm lấy hai mươi đồng tiền vàng khi người hồ lì đẩy tiền tới.

Trong giây lát ấy, bộ mặt bỗng rạng rỡ lên, trẻ hẳn ra, những nét nhăn giãn dần, mềm mại, thân người anh đang cúi về trước, ưỡn thẳng lên, vẻ minh mẫn, nhẹ nhõm, anh ta lại mềm dẻo như người kị sĩ được tinh thần chiến thắng nâng lên; những ngón tay cọ các đồng tiền vào nhau một cách hãnh diện và trìu mến, tung chúng lên cho chúng va vào nhau như một trò chơi.

Rồi anh ta lại lo sợ quay đầu, nhìn lướt trên tấm thảm xanh, như một con chó săn còn non đánh hơi tìm dấu vết và bất thần, bằng một cử chỉ nhanh, gọn, vội vã, anh ta đổ cả đống tiền vàng xuống một ô vuông.

Ngay lập tức, vẻ rình mò, sự căng thẳng cao độ lại xuất hiện. Cặp môi anh lại toát ra những hơi thở hổn hển như những lớp sóng điện, nhưng bàn tay anh lại co quắp lại, bộ mặt trẻ thơ lại biến đi để lộ ra vẻ lo âu của sự mê say, cho đến khi, như một phát mìn nổ, nỗi tuyệt vọng làm tan biến vẻ cứng đờ căng thẳng, bộ mặt vừa một lát trước đây, còn ra vẻ một đứa trẻ nhỏ, đã héo hắt lại, xỉn đi và già cằn, đôi mắt trở nên lờ đờ, không thần sắc, tất cả chỉ trong một giây, khi hòn bi nằm lại ở một số không phải do anh ta chọn. Anh ta đã thua: trong giây lát, anh nhìn trừng trừng, ngây dại, như không hiểu gì, nhưng khi người hồ lì vừa hối, ngay lập tức như có đòn roi kích thích, tay anh ta lại chộp lấy vài đồng tiền vàng. Nhưng anh ta không còn tự tin nữa, thoạt tiên anh đặt tiền vào một ô, sau anh thay đổi ý định, lại đặt vào một ô khác và khi hòn bi đã lăn theo vòng tròn, đột nhiên trong một cơn ngẫu hứng, anh ta lại run rẩy ném thêm hai tờ giấy bạc nhàu nát vào ô vuông đó.

Sự luân phiên thua được hồi hộp đó, kéo dài liên tục chừng một giờ, và trong hai giờ đồng hồ ấy, mắt tôi bị thu hút, không rời khỏi bộ mặt biến đổi này, nơi nỗi đam mê hiện lên rồi lại rút đi như sóng. Mắt tôi không rời khỏi đôi tay huyền ảo này, mỗi cơ bắp đều thể hiện như trên tranh vẽ, cả một lớp biểu đồ tình cảm, vụt phóng lên cao rồi rớt xuống như một tia nước.

Chưa bao giờ, tại rạp hát, tôi lại chú ý nhiều, đến bộ mặt một diễn viên, như tôi ngắm bộ mặt này; trên bộ mặt đó, các giai điệu biến đổi của màu sắc và cảm giác, không ngừng hiện lên, từng đợt một, như ánh sáng và bóng tối chiếu trên phông cảnh.

Chưa bao giờ tôi tập trung toàn bộ sự chú ý vào việc quan sát các biểu hiện của nỗi đam mê lạ lùng này như bây giờ. Nếu có ai quan sát tôi, chắc chắn là trông cặp mắt lạnh lùng, cứng đờ và mê mẩn của tôi, họ sẽ cho là tôi đang bị thôi miên, và tình trạng tê cứng hoàn toàn của tôi thật ra cũng giống một sự thôi miên, tôi không thể cưỡng lại để không nhìn cái dáng vẻ đó; và tất cả cái mớ lộn xộn ánh sáng, tiếng cười, con người và những cặp mắt, bập bềnh quanh tôi như một vật vô hình, như một màu khói vàng, ở giữa là bộ mặt đó – một ngọn lửa giữa các ngọn lửa. Tôi không nghe thấy gì, không cảm thấy gì, không nhìn thấy những người đang chen quanh tôi, tôi không trông thấy những bàn tay khác bỗng chìa ra, như những dây ăng-ten, để ném tiền vào bàn bạc hay để vơ lấy từng ôm bạc, tôi không nhìn thấy những hòn bi, cũng không nghe thấy tiếng nói của người hồ lì, thế mà tôi vẫn trông thấy, như trong giấc mơ, những gì đang diễn ra, trong đôi bàn tay này, mà hồi hộp, phấn hứng làm to hơn, phóng đại lên như trong tấm gương lõm. Bởi vì muốn biết hòn bi rơi vào ô đỏ hay đen, nó đang lăn hay đã dừng, tôi không cần phải nhìn bàn ru-let: mỗi giai đoạn, thua hay được, chờ đợi hay thất vọng, đều đọc được như bằng những nét lửa trên những đường gân và những cử chỉ của bộ mặt mê mải say đắm này.

Nhưng rồi đến một lúc khủng khiếp, cái lúc mà tôi nơm nớp lo sợ suốt thời gian này, cái khoảnh khắc treo lơ lửng như một cơn giông tố trên các giây thần kinh bị kích thích, quá độ của tôi, bỗng bùng nổ và cuốn bốc tất cả theo nó. Hòn bi trong vòng quay đã chạy chậm lại với những tiếng lạch cạch nhỏ; lại tới giây phút hồi hộp làm hai trăm đôi môi mím chặt, cho tới lúc người hồ lì lần này xướng số “không” và cái bàn cào lanh lẹn của y vét từ mọi phía những đồng tiên kêu lanh canh và những tờ giấy bạc sột soạt.

Lúc đó, hai bàn tay vẫn quắp chặt lại, có một cử chỉ đặc biệt hãi hùng, chúng như chồm lên để vồ lấy một cái gì không còn, sau đó, chúng rớt xuống bàn, như sắp chết, hoàn toàn bị chi phối theo quán tính của qui luật trọng lực. Nhưng sau đó, chúng bỗng hồi tỉnh lại một lần nữa; chúng cuống cuồng chạy từ bàn tới thân người chủ chúng, leo như những con mèo hoang dọc thân thể, vội vã moi tất cả các túi, trên dưới phải trái để xem ở nơi nào đó, có còn sót một đồng tiền như một mẩu bánh vụn bị bỏ quên chăng. Nhưng lần nào chúng cũng trở ra không; chúng cứ sôi nổi tìm kiếm một cách vô ích hão huyền như vậy, trong khi bàn ru-lét lại bắt đầu quay, những người khác lại tiếp tục chơi, những đồng tiền lại va chạm lanh canh vào nhau, những chiếc ghế bị xô đẩy và hàng ngàn tiếng động lại làm xáo động gian phòng. Tôi run lên, rùng mình kinh hãi: tôi thấy như bị miễn cưỡng phải xúc động theo những tình cảm đó, như chính những ngón tay của tôi đang tuyệt vọng lục lọi tìm một đồng bạc cắc nào đó trong túi, trong các nếp của bộ quần áo đã nhàu nát! Đột nhiên anh ta đứng phắt dậy trước mắt tôi, như một người bỗng thấy khó chịu, phải đứng lên cho khỏi bị ngợp thở; sau lưng anh, chiếc ghế đổ lăn ra đất, gây một tiếng động gọn. Nhưng anh ta đã nặng nề rời khỏi bàn không chú ý tới chiếc ghế, không để tâm tới những người ngồi kế bên đang ngạc nhiên và e ngại nhìn con người khật khưỡng này.

Trước cảnh ấy, tôi sững người lại. Vì tôi hiểu ngay là người đó sẽ đi đâu: tới cái chết. Ở bất cứ hoàn cảnh nào trong cuộc sống, một con người đứng lên như vậy, chắc chắn là không phải để tới một khách sạn, một quán rượu, để tìm một người đàn bà, đến một toa tàu, mà người đó sẽ lao thẳng vào khoảng không. Người vô tình nhất trong gian phòng địa ngục này cũng phải nhận thấy là, chắc chắn con người này không còn một chỗ tựa nào ở ngay tại nhà mình, ở một ngân hàng nào hay ở nhà cha mẹ mình; rằng anh ta đã chơi ở đây đến đồng bạc cuối cùng, tới cả cuộc đời mình và bây giờ, anh sẽ bước chệnh choạng ra ngoài, đi bất cứ đâu, nhưng nhất định là sẽ ra khỏi cuộc sống.

Tôi vẫn lo (ngay từ đầu, tôi đã tiên đoán điều này) là ở đây, có một cái gì lớn hơn chuyện được – thua, vậy mà tôi vẫn thấy như có một tiếng sét thê thảm nổ ra ở trong tôi khi tôi nhận được là cuộc sống bỗng rời khỏi đôi mắt người này và cái chết đã nhuộm màu xanh ngắt lên bộ mặt đầy sinh khí này.

Vô tình (vì những cử chỉ mềm mại của anh đã thấm quá chừng vào tôi) tôi phải nắm chặt tay bám cho vững trong lúc anh ta lảo đảo đứng lên khỏi chỗ ngồi một cách khó nhọc, bởi vì dáng đi thất thểu của anh ta bây giờ đã chuyền sang tôi như trước đó nỗi kích thích của anh đã thấm vào mạch máu, vào gân não của tôi. Tiếp theo đấy, điều này mạnh hơn cả tôi, tôi buộc phải đi theo anh ta, dù tôi không muốn, chân tôi cũng tự cử động. Điều nay xảy ra hoàn toàn vô ý thức, không phải tôi hành động mà sự thật là, không chú ý tới ai, không ý thức về những cử động của mình, tôi chạy về phía hành lang để đi ra ngoài.

Người đó đã ở chỗ gửi quần áo, người hầu đã mang áo khoác cho anh ta. Nhưng anh ta đã không điều khiển được cánh tay mình nữa, người hầu vội giúp anh xỏ tay áo một cách khó khăn như giúp người tàn tật. Tôi thấy anh ta máy móc cho tay vào túi áo gilê để lấy tiền puôc-boa ra cho, nhưng sau khi dò dẫm tận đáy túi, chúng lại trở ra không. Lúc ấy, anh ta như sực nhớ tất cả những gì vừa xảy ra, anh ta lúng túng lẩm bẩm nói gì với người hầu và như vừa qua, anh ngã mạnh người về phía trước, lảo đảo bước xuống bậc thang nhà casinô giống một kẻ say rượu, người hầu còn nhìn theo anh một lát với nụ cười thoạt đầu khinh bỉ, sau cùng thông cảm.

Cảnh đó làm xúc động đến nỗi tôi cảm thấy xấu hổ về mình đã có mặt tại đấy. Vô tình, tôi quay đi, ngượng ngùng vì được chứng kiến như từ lan can rạp hát, tấn thảm kịch của sự tuyệt vọng này ở một người tôi không quen biết, nhưng nỗi lo âu không sao hiểu nổi đó, đang ở trong tôi, đã đẩy tôi đi theo anh ta. Tôi mau mau lấy đồ đạc của mình và không suy nghĩ rõ rệt về điều gì, hoàn toàn như máy, hoàn toàn theo bản năng, tôi lao vào bóng tối, theo gót người đàn ông đó.

Bà C… ngừng kể một lát. Suốt thời gian ấy, bà ngồi yên trên ghế, trước mặt tôi, không nhúc nhích, bà nói một hơi với vẻ điềm tĩnh, mạch lạc, đặc biệt của bà, mà chỉ người nào đã chuẩn bị, đã sắp xếp kĩ thứ tự các sự kiện mới làm nổi. Đây là lần đầu tiên bà dừng lại, bà ngập ngừng rồi đột nhiên bỏ ngang câu chuyện, bà nói thẳng với tôi:

– Tôi đã hứa với ông và với chính tôi – bắt đầu, vẻ hơi e ngại, – là sẽ kể cho ông nghe một cách hoàn toàn thành thật, tất cả những gì đã xảy ra. Nhưng đến lượt tôi, tôi cũng đòi hỏi ông phải hoàn toàn tin vào sự thành thật của tôi; ông đừng gán cho cách xử thế của tôi những động cơ thầm kín, giờ đây có thể làm tôi phải xấu hổ, đỏ mặt; trường hợp đó, là một giả thiết hoàn toàn sai cho nên tôi phải nhấn mạnh rằng khi tôi vội vã chạy theo ra đường, kẻ đánh bạc đã gục xuống, tôi không hề mê chàng trai đó; tôi không nghĩ tới anh ta như một người đàn bà thường nghĩ về một người đàn ông, và sự thật lúc đó, tôi đã trên bốn mươi tuổi; sau khi chồng chết, tôi không để ý tới người đàn ông nào, đối với tôi đây là một việc dứt khoát đã được xếp vào dĩ vãng; tôi nhấn mạnh rõ ràng với ông điều này và phải nói như vậy, nếu không, ông sẽ không hiểu rành mạch tất cả những gì đã xảy ra sau này với nỗi kinh hoàng của nó.

Sự thật, về một mặt khác, rất khó gọi cho chính xác, tình cảm lúc đó đã lôi cuốn tôi đi theo con người khốn khổ này mà không cưỡng lại được: có sự tò mò, nhưng cái chính là nỗi sợ khủng khiếp, hay nói cho đúng hơn, là sự sợ hãi một cái gì khủng khiếp mà ngay từ phút đầu, tôi cảm thấy, lơ lửng quanh người trai này như một đám mây. Nhưng không thể phân tích hay mổ xẻ những cảm giác như thế được, trước hết vì chúng diễn ra, xoắn xuýt lấy nhau, quá mạnh, quá nhanh và quá ngẫu nhiên; chắc chắn là ở đây, tôi chỉ làm cái việc đơn thuần thuộc về bản năng như người ta làm để cứu giữ để ngăn chặn một đứa trẻ, ở ngoài phố, đang sắp lao vào bánh xe hơi. Nếu không, làm sao có thể giải thích được việc những người không biết bơi lại lao từ trên cầu xuống cứu một người đang chết đuối? Đó chỉ là cái sức mạnh huyền diệu đã lôi cuốn họ, cái ý chí đã thúc đẩy họ lao xuống nước trước khi họ có thì giờ để nghĩ đến sự táo bạo điên rồ của việc làm ấy. Đúng như vậy, không nghĩ ngợi, không suy tưởng, hoàn toàn không có chút ý thức nào, lúc đó, tôi đã đi theo con ngườ i khốn khổ ấy từ phòng đánh bạc ra cửa và từ cửa tới thềm trước nhà casinô. Và tôi đoán chắc là ông, hay bất cứ ai có mắt để nhìn, đều không thể nào dứt khỏi cái kì vật biết lo âu này, vì không gì thê thảm bằng tưởng tượng thấy chàng trai nhiều nhất là hai mươi bốn tuổi này, lê lết một cách khó nhọc, như một ông lão, từ cầu thang ra ngoài sân, loạng choạng như người say rượu, các khớp xương mềm nhũn và gãy gập. Anh ta nặng nề gieo mình xuống một chiếc ghế dài, như một cái bị. Cử chỉ đó làm tôi rùng mình và cảm thấy là người ấy đã đi đến chỗ tận cùng của sự vật. Chỉ người đã chết hay người không một cơ bắp còn sống trong cơ thể mới ngã xuống như vậy. Cái đầu gục ngoẹo sang bên, thả xuống lưng ghế, hai cánh tay thõng xuống đất, mềm oặt, không ra hình dáng gì, trong bóng tối lờ mờ, dưới ngọn lửa chập chờn của các cây đèn đường, ai đi qua chắc cũng phải cho đó là một xác chết. Vậy là (tôi không thể nào cắt nghĩa nổi, vì sao ảo tưởng đó bỗng hình thành trong tôi, nhưng đột nhiên nó ở đó, rành rành như vẽ, một hiện thực ghê gớm và khủng khiếp), dưới hình thức một xác chết mà anh ta hiện lên với tôi, trong giây phút đó, tôi tin chắc một cách mù quáng rằng anh ta có một khẩu súng ngắn trong túi, ngày mai, người ta sẽ thấy cái thân thể không hồn, đẫm máu này nằm sóng sượt trên cái ghế này hay một cái khác. Vì cái cách buông thả của anh là một hòn đá rơi xuống vực thẳm, nó không dừng lại chừng nào chưa chạm tới đáy: chưa bao giờ tôi thấy một cử chỉ về hình thể biểu lộ sự mệt mỏi và tuyệt vọng nhiều đến như vậy.

Còn bây giờ, ông hãy tưởng tượng địa vị của tôi: tôi đứng cách chừng hai ba chục bước sau chiếc ghế dài người đàn ông đó đang ngồi im lặng, tàn tạ. Tôi không biết mình phải làm gì, phần thì bị thôi thúc bởi ý muốn cứu giúp anh ta, phần thì sợ, không dám ngỏ lời, với một người lạ ở ngoài đường, nỗi sợ do sự giáo dục và tính di truyền mà có. Những ngọn lửa mờ đục của những ngọn đèn ga chập chờn trên nền trời đầy mây, người đi đường rất thưa thớt, đều vội vã; vì sắp tới nửa đêm mà chỉ còn một mình tôi ở ngoài vườn với con người giống một kẻ tự vẫn.

Năm lần, mười lần, tôi đã tập trung tất cả nghị lực của tôi và tôi tiến tới phía anh ta, nhưng luôn luôn, sự ngượng ngùng nếu tôi lại, hay có lẽ đó là cái bản năng, cái linh cảm sâu sắc chỉ cho ta thấy rằng những người bị ngã thường kéo những người đến cứu họ ngã theo; giữa cảnh ngập ngừng ấy, bản thân tôi thấy rõ ràng sự điên rồ, sự lố lăng của tình hình. Nhưng tôi cũng không thể nói, không thể bỏ đi – không thể làm bất cứ điều gì, cũng không thể rời anh ta được. Tôi hi vọng là ông tin tôi khi tôi nói với ông rằng tôi ở lại trên sân, đi đi lại lại không biết nên quyết định ra sao, có lẽ đến một giờ, một giờ dài vô tận, trong khi những làn sóng của biển cả, không nhìn thấy được, cứ gặm nhấm thời gian bằng hàng ngàn hàng ngàn tiếng đập nhỏ, hình ảnh của sự huỷ diệt hoàn toàn một con người làm tôi bị xáo trộn và thấm sâu vào trong tôi đến thế.

Mặc dù vậy, tôi vẫn không đủ can đảm để nói và làm gì; có thể tôi còn ở đó suốt nửa đêm để chờ đợi hay có lẽ tính ích kỉ khôn ngoan hơn, cuối cùng sẽ dẫn tôi trở về nhà, phải, tôi như sắp quyết định bỏ mặc cái đống đau khổ này với số phận của nó thì một sức mạnh cao siêu đã thắng sự do dự của tôi. Phải, trời bắt đầu đổ mưa, suốt buổi chiều, giờ đã quần tụ lại trên biển những đám mây lớn của mùa xuân, nặng trĩu hơi nước; với lồng ngực và với trái tim, người ta cảm thấy bầu trời đè nặng xuống trái đất. Đột nhiên, một giọt nước mưa rơi độp xuống đất và ngay lập tức một trận hồng thuỷ đổ ập xuống với những cuốn nước nặng nề bị gió đuổi đi. Tôi buộc phải ép mình dưới mái một quán hàng và tuy tôi đã mở dù, những đợt nước mưa vẫn bắn tung lên hắt những bó nước xuống áo tôi. Tôi cảm thấy những hạt bụi lành mạnh của nước rơi xuống đất tanh tách, bắn lên tận mặt và tay tôi.

Nhưng (thật ghê sợ khi thấy rằng đến bây giờ, đã hai mươi năm sau, chỉ nghĩ đến việc này cổ họng tôi vẫn như thắt lại) mặc cho mưa như thác đổ, con người khốn khổ ấy vẫn ngồi lì trên ghế bất động, không nhúc nhích. Nước chảy ào ào, xối xả từ tất cả các ống máng; từ phía thành phố, tiếng xe hơi nổ ầm ầm; bên phải, bên trái, người ta chạy vội vàng, cởi áo măng-tô kéo cao, tất cả những gì sống động đều thu mình lại, sợ hãi trốn chạy, tìm nơi trú ẩn; ở khắp mọi nơi, người và vật đều cảm thấy nỗi khiếp sợ trời đất nổi cơn thịnh nộ – chỉ riêng cái đống thân thể đen đúa co tròn này vẫn ở đó, trên ghế, không động đậy.

Tôi vẫn nói với ông là con người này có phép màu diễn tả tình cảm của mình một cách uyển chuyển bằng cử động và dáng điệu; nhưng không có gì, không một thứ gì trên trái đất này có thể diễn tả sự tuyệt vọng, sự buông thả hoàn toàn bản thân mình, cái chết còn sống động một cách thấm thía, bằng sự bất động, bằng cái cách ngồi lì, trơ trơ dưới trời mưa tầm tã, bằng vẻ mệt mỏi quá mức đến nỗi không thể đứng dậy đi vài bước cần thiết đến một nơi trú mưa nào đó, bằng sự lạnh lùng cao nhất đối với chính mình. Không nhà điêu khắc, không nhà thơ nào, kể cả Miken Angiơ, lẫn Đăngtê làm cho tôi hiểu được cái động tác của sự tuyệt vọng cùng cực, sự khốn khổ cùng cực trên trái đất một cách xúc động và mạnh mẽ bằng con người sống nhưng lại quá nhu nhược, quá mệt mỏi đến nỗi không tự che chở lấy mình bằng một cử động thôi – và cứ để cơn giông bão xối nước lên người.

Thật là mạnh hơn mình, tôi không thể làm khác được. Tôi nhảy một bước dưới hàng nước mưa xối xả quất mạnh và lay cái khối thịt ướt lướt thướt ngồi trên ghế này.

– Lại đây nào! – Tôi nắm cánh tay anh ta và nói.

Một vật không biết định nghĩa là gì nhìn tôi chòng chọc, vẻ khổ sở. Anh ta hơi nhúc nhích như có vẻ cử động nhưng anh vẫn không biết gì.

– Lại đây nào! – Tôi nói và lại kéo cánh tay áo đẫm nước, lần này tôi đã hơi bực rồi.

Thế là anh ta từ từ đứng dậy, lảo đảo, không có ý chí.

– Bà muốn gì? – Anh ta hỏi.

Tôi không thể trả lời được vì chính tôi cũng không biết đi đâu với anh ta; điều tôi muốn, chỉ là kéo anh ta ra khỏi trận mưa lạnh giá này, khỏi sự dửng dưng điên dại giống như tự vẫn này làm ta cứ ngồi như vậy trong cảnh tuyệt vọng cùng cực. Tôi không buông cánh tay anh ra, tôi tiếp tục kéo anh, cái thân tàn ma dại này, tới tận quầy bán hoa, có mái nhô ra một chút, ít ra cũng che chở anh ta được phần nào chống những đợt mưa dữ dội bị gió quất phũ phàng. Ngoài điều đó ra, tôi không biết gì, tôi không muốn gì hết. Thoạt tiên, tôi chỉ nghĩ tới một việc: đưa người này đến một chỗ trú, một nơi khô ráo.

Thế là cả hai chúng tôi, đứng bên nhau, núp trong một khoảng nhỏ, phía sau chúng tôi là cái quầy, vách đóng kín, trên đầu chúng tôi chỉ có cái mái che, quá nhỏ; dưới mái, nước mưa không ngừng lọt ngấm ngầm qua, quất từng đợt những mảng nước lạnh vào quần áo, vào mặt chúng tôi, tình hình trở nên không sao chịu đựng nổi. Dù sao tôi cũng không thể ở lại lâu hơn nữa, bên cạnh người lạ lướt thướt này. Mặt khác, sau khi kéo anh ta đi theo tôi, cũng không thể bỏ mặc anh ta ngay mà không có một lời nào. Nhất thiết phải làm gì; dần dần, một ý nghĩ rõ ràng, sáng sủa, hình thành trong đầu tôi. Tốt nhất là đưa anh ta về nhà anh bằng xe rồi trở về lại nhà mình ngày mai, anh ta sẽ biết tự lo liệu. Và thế là tôi hỏi con người đứng lặng bên tôi, mắt nhìn đăm đăm vào đêm tối giận dữ:

– Anh ở đâu?

– Tôi không có chỗ ở… Tôi vừa từ Nixơ đến chiều nay… Không thể về nhà tôi được.

Tôi không hiểu ngay câu sau cùng. Mãi sau này, tôi mới hiểu là người ta tưởng tôi là…là… là một trong số đông những người đàn bà đêm đêm lẩn quất quanh casinô, với hi vọng kiếm được một món tiền nào đó của những con bạc gặp vận may hay của những kẻ say rượu. Thật ra anh ta có thể nào nghĩ khác được, vì giờ đây, kể cho ông nghe việc này, tôi cũng cảm thấy tình hình của tôi lúc đó thật là vô lí và kì quặc. Anh ta có thể có ý nghĩ gì về tôi khi cách tôi kéo anh ta ra khỏi ghế và lôi anh ta đi rõ ràng không phải là phong cách của một bà mệnh phụ? Nhưng ý nghĩa đó không đến với tôi ngay lúc bấy giờ. Mãi sau này, khi đã quá muộn, tôi dần dà mới thấy được sự hiểu lầm ghê gớm của anh ta về tôi. Bởi vì nếu không, tôi đã không bao giờ nói những lời sau đây chỉ làm anh ta hiểu lầm thêm nữa. Quả vậy, tôi đã nói:

– Vậy thì ta kiếm một phòng ở khách sạn. Anh không thể ở đây, anh phải tìm ngay một chỗ nghỉ ở đâu chứ.

Nhưng lập tức, tôi lại nhận thấy sự hiểu lầm đau đớn của anh ta vì không buồn quay lại với tôi, anh ta chỉ nói, vẻ hơi mỉa mai:

– Không, tôi không cần phòng. Tôi không cần gì hết. Cô đừng bận tâm, tôi không có gì để cô moi được đâu. Cô kiếm không đúng chỗ rồi, tôi không có tiền.

Điều đó còn được nói ra với một giọng nghe ghê sợ, với một vẻ lạnh lùng gây nhiều ấn tượng và điệu bộ của anh – cái kiểu ẻo lả tựa vào vách quầy hàng, của con người ướt sũng, nước thấu tận xương, tâm hồn mệt lả – đã tác động đến tôi đến mức tôi không kịp nhận ra là mình đã bị xúc phạm một cách ti tiện và ngớ ngẩn. Khi anh ta vừa lảo đảo ra khỏi phòng đánh bạc, và suốt tiếng đồng hồ vừa qua, không sao tưởng tượng nổi đó, điều duy nhất tôi luôn luôn thấy là: ở đây, một con người còn trẻ, đầy sức sống, đầy sinh khí, sắp đến lúc chết và bổn phận của tôi là cứu anh ta. Tôi tới gần anh và nói:

– Đừng lo chuyện tiền bạc, cứ đi với tôi! Anh không thể ở lại đây được, tôi sẽ kiếm ra chỗ nghỉ cho anh. Đừng lo nghĩ gì, cứ đi đi.

Anh ta hất đầu và trong khi mưa vẫn rơi lộp bộp quanh chúng tôi, cơn giông vẫn xối nước rào rào dưới chân chúng tôi, tôi cảm thấy là lần đầu tiên, anh cố nhìn vào mặt tôi trong bóng tối. Thân thể anh cũng dần dần thoát khỏi cơn mê.

– Thôi được, tùy cô, – anh ta nhận lời và nói – tôi cũng chẳng thiết… Sao không thế được nhỉ? Chúng ta đi thôi.

Tôi mở dù, anh ta đến bên tôi và khoác tay tôi. Cái cách đột nhiên tỏ ra thân mật như vậy làm tôi rất khó chịu. Phải, nó làm tôi khiếp sợ, tôi thấy hoảng hốt đến tận đáy lòng. Nhưng tôi không có can đảm cấm anh ta làm như vậy, vì nếu giờ đây, tôi gạt tay anh ta ra, anh lại rơi xuống vực thẳm và những gì tôi đã làm cho đến lúc này sẽ trở nên vô ích. Chúng tôi đi vài bước về phía nhà casinô.

Đến lúc đó, tôi mới thấy là không biết nên làm gì với anh ta. Sau khi suy nghĩ thật mau, tôi nghĩ đến điều tốt nhất dẫn anh ta đến một khách sạn, dúi vào tay anh ta một số tiền để anh ta có thể trả tiền phòng và ngày mai, trở về Nixơ được; tôi không nghĩ đến việc gì khác. Lúc này các xe cộ đi nhanh ngang qua nhà casinô, tôi gọi một chiếc và chúng tôi lên xe đó. Khi người đánh xe hỏi chúng tôi muốn đi đâu, thoạt tiên tôi không biết trả lời ra sao. Chợt nghĩ rằng, con người sũng nước từ đầu đến chân này đang ở bên tôi sẽ không được chấp nhận vào bất cứ một khách sạn sang nào. Mặt khác, do tôi là đàn bà không có kinh nghiệm, không hề nghĩ đến việc có thể bị hiểu lầm, tôi chỉ nói với người đánh xe:

– Đến một khách sạn nhỏ nào cũng được!

Người đánh xe, vẻ khắc khổ, ướt đẫm nước mưa, cho ngựa cất bước. Người lạ, ngồi bên tôi, nín lặng; tiếng bánh xe lõng bõng, nước mưa đập vào kính. Trong cái khoảng vuông tối tăm, không ánh sáng, như trong một chiếc quan tài, tôi cảm thấy như đi theo một xác chết. Tôi cố suy nghĩ, cố tìm một lời để làm nhẹ bớt vẻ kì quặc và kinh hãi của việc lầm lì ngồi bên nhau như thế này, nhưng tôi không làm nổi. Sau vài phút, xe dừng lại. Tôi xuống trước, trả tiền xe trong khi người kia, nửa thức nửa ngủ, đóng cửa xe lại. Bây giờ chúng tôi đang ở trước một khách sạn nhỏ mà tôi không biết nữa, phía trên là một mái hiên bằng kính chìa cái vòm tròn nhỏ ra che chở chúng tôi chống lại cơn mưa vẫn đều đều tí tách đến rợn người, xé rách bức màn đêm lạnh lùng.

Người lạ này, không đỡ nổi sức nặng của thân mình, buộc phải tựa vào tường; từ chiếc mũ ướt lướt thướt, từ bộ quần áo nhàu nát của anh ta, nước rỏ xuống như từ một ống máng. Anh ta ở đó như người bị chết đuối vừa được vớt lên, tinh thần còn tê cóng và ở chỗ anh ta tựa, nước chảy thành một vũng nhỏ. Nhưng anh ta cũng không làm gì để rũ hết nước, để nhấc chiếc mũ, nước cứ chảy không ngừng xuống trán, xuống mặt anh. Anh ta cứ đứng đó, trơ trơ, và tôi không sao có thể nói để ông rõ là tôi bị xúc động bởi sự suy sụp ấy đến chừng nào.

Nhưng giờ đây, phải làm gì đã. Tôi cho tay vào túi:

– Đây là một trăm phrăng, – tôi nói, – anh sẽ thuê phòng và sáng mai anh trở về Nixơ.

Anh ta ngạc nhiên nhìn tôi.

– Tôi đã để ý quan sát anh từ trong sòng bạc, – sau khi thấy anh ta do dự, tôi nói tiếp và nhấn mạnh. – Tôi biết anh đã thua cháy túi rồi và tôi lo anh sắp làm điều dại dột. Nhận sự giúp đỡ không có gì xấu cả… Thôi, cầm lấy đi.

Nhưng anh ta gạt tay tôi ra, mạnh không ngờ.

– Cô là gái tốt đấy, – anh nói, – nhưng đừng vung phí tiền như vậy. Không làm gì được cho tôi đâu. Đêm nay, ngủ hay không, tôi cũng chẳng thiết. Mai là hết. Không còn làm gì được nữa đâu.

– Không, anh phải cầm lấy số tiền này, – tôi năn nỉ, – mai anh sẽ nghĩ khác. Bây giờ anh hãy vào khách sạn đi và ngủ cho yên: ban đêm giúp ta suy nghĩ chín chắn hơn; mọi việc sẽ khác, không giống ban ngày.

Nhưng khi tôi đưa tiền cho anh ta, một lần nữa, anh ta gạt phắt đi, vẻ dữ tợn.

– Vô ích, – anh ta nhắc lại với giọng trầm, – tiền không dùng làm gì hết. Tốt hơn là để việc này xảy ra ở ngoài hơn là để phòng của người ta giây máu. Một trăm phrăng, chứ đến một ngàn phrăng cũng không giúp được gì cho tôi. Ngày mai tôi sẽ trở lại casinô với vài phrăng còn lại và khi nào cháy túi, tôi mới đi. Bắt đầu lại làm gì? Tôi chán lắm rồi!

Ông không thể tưởng tượng được giọng nói âm âm đó đã đem lại cái cảm giác gì, tận nơi sâu thẳm của tâm hồn tôi; ông hãy hình dung hoàn cảnh của tôi; hai bước trước mặt mình là một người trai trẻ sáng sủa, đầy sức sống, khoẻ mạnh và ta biết rằng, nếu ta không ráng hết sức mình, thì chỉ trong hai giờ nữa, cái tuổi hoa xuân này, đang suy nghĩ, nói năng và hô hấp kia sẽ chỉ còn là một xác chết. Thế là tôi có ước vọng mãnh liệt phải thắng sự chống cự điên dại này.

Tôi nắm cánh tay anh ta và nói:

– Điên khùng thế là đủ rồi! Anh sẽ vào khách sạn thuê một phòng; sáng mai tôi sẽ đến kiếm anh và đưa anh ra ga. Anh phải ra khỏi nơi đây trong ngày mai, anh phải trở về nhà và tôi sẽ không để anh yên trước khi thấy anh mua vé và lên tàu. Khi còn trẻ, thì không ai chỉ vì thua một vài trăm hay vài ngàn phrăng mà lại đi kết liễu đời mình. Thế là hèn nhát, là nổi cơn nóng giận, điên khùng một cách ngớ ngẩn. Ngày mai anh sẽ cho tôi là có lí.

– Ngày mai ư? – Anh ta nhắc lại với giọng chua chát mỉa mai lạ lùng. – Ngày mai! Nếu cô biết ngày mai tôi sẽ ở đâu! Nói thật, tôi thấy vấn đề này hơi kì cục đấy. Thôi, cô em, cô đi về nhà đi, đừng mất công và đừng phí tiền nữa.

Nhưng tôi không nhượng bộ. Ở trong tôi, hình như có một sự mê say, một cơn phẫn nộ. Tôi nắm mạnh bàn tay anh ta và nhét tờ giấy bạc vào tay anh:

– Cầm lấy tiền và vào ngay đi!

Nói rồi, tôi kiên quyết đến kéo mạnh dây chuông.

– Đấy, bây giờ tôi đã kéo chuông rồi, người gác sắp ra, anh lên phòng và ngủ đi. Chín giờ sáng mai, tôi sẽ chờ anh ở trước nhà này và tôi sẽ đưa anh ra ga ngay. Anh không phải lo gì cả, tôi sẽ làm mọi việc cần thiết để anh có thể trở về nhà được. Bây giờ thì đi nằm đi ngủ cho ngon và đừng nghĩ ngợi gì hết.

Lúc đó, ở phía trong, có tiếng khóa và người làm của khách sạn ra mở cửa.

– Vào đây! – Người trai đó bỗng nói bằng một giọng cứng rắn, quả quyết và bực tức.

Và tôi thấy những ngón tay của anh ta như sắt xiết chặt lấy cổ tay tôi. Tôi kinh hãi, tê cứng đến mức như bị sét đánh và không còn đầu óc để nghĩ ngợi nữa. Tôi muốn chống cự, muốn vùng thoát… nhưng ý chí của tôi đã mềm nhũn ra… và tôi… xin ông hiểu cho… tôi thấy xấu hổ vì phải chống cự với một người lạ trước người gác – vẫn đứng đó vẻ sốt ruột. Và như vậy… như vậy là tôi bỗng thấy mình đã ở bên trong khách sạn. Tôi muốn nói, muốn bày tỏ một điều gì nhưng tiếng nói cứ bị nghẹn trong cổ họng… Bàn tay anh ta vẫn nắm cánh tôi, chặt cứng và phũ phàng… Tôi lơ mơ cảm thấy mình bị kéo đi, lên thang gác mà không ý thức được việc mình làm… Khóa mở.

Và bỗng nhiên tôi thấy một mình tôi trong gian phòng xa lạ tại một khách sạn tới nay tôi cũng không biết tên, với một người đàn ông không biết là ai nữa.

Bà C… lại ngưng và đột nhiên bà đứng dậy; bà nói không nên lời nữa. Bà tới cửa sổ, lặng lẽ nhìn vài phút ra ngoài; hay có thể bà chỉ tựa trán vào tấm kính lạnh; tôi không có can đảm để thấy rõ được điều đó, vì quan sát bà mệnh phụ già này trong cơn xúc động thật là cực khổ. Cho nên tôi cứ ngồi lặng thinh, không nói gì, không gây tiếng động, và tôi đợi cho đến khi bà quay lại, bình tĩnh bước tới ngồi trước mặt tôi.

– Bây giờ điều khó khăn nhất đã được nói ra. Và bây giờ tôi hy vọng ông sẽ tin tôi nếu tôi khẳng định một lần nữa với ông, nếu tôi thề với ông trước tất cả những gì thiêng liêng nhất đối với tôi, trước danh dự tôi và trước sinh mạng của các con tôi rằng, trước giây phút đó, không hề có một chút ý nghĩ nào về một cuộc… một cuộc chung chạ với con người xa lạ này đến trong tâm trí tôi, rằng thật sự tôi không còn ý chí nữa, không còn ý thức nữa, tôi bỗng rơi, như bị bẫy, từ con đường quang đãng của đời mình vào hoàn cảnh này. Tôi đã hứa với ông và với tôi, tôi nhắc lại một lần nữa với ông là chỉ duy nhất do ý chí gần như cuồng nhiệt muốn giúp người trai trẻ này chứ không phải do một tình cảm nào khác, một tình cảm cá nhân nào đó, nghĩa là không có một chút ham muốn, một ý nghĩ nào về việc gì sẽ tới mà tôi bị xô đẩy vào câu chuyện bi thảm này.

Ông miễn cho tôi khỏi phải kể cho ông nghe những gì đã xảy ra trong gian phòng ấy, tôi không bao giờ quên và sẽ không quên một giây phút nào của cái đêm đó. Bởi vì ở đấy, tôi đã đấu tranh với một con người, để cứu sống anh ta, phải, tôi nhắc lại, trong cuộc đấu tranh này, chủ yếu là cuộc sống, hay cái chết của một con người.

Mỗi sợi thần kinh của tôi đều cảm thấy không sai chút nào rằng người lạ, người đàn ông này, lúc sắp chết, đã bám lấy tấm ván cứu mạng với tất cả sự sôi nổi, sự đam mê của một người bị đe dọa đến tính mạng. Anh ta bám lấy tôi như một người đã cảm thấy vực thẳm ở dưới chân mình. Còn tôi, tôi ráng dùng hết mọi phương cách, tất cả những gì tôi có thể để cứu anh ta.

Trong đời mình, người ta chỉ sống một giờ như vậy có một lần và điều đó cũng chỉ đến với một người trong số hàng triệu người; không có cái sự kiện khủng khiếp này, tôi không bao giờ ngờ được là, với sức mạnh của tuyệt vọng, với sự phẫn nộ được buông lỏng, một con người bị bỏ rơi, một con người bị thất vọng vẫn cầu mong một lần cuối, đến giọt máu thắm cuối cùng của đời mình; bản thân tôi, đã xa lánh trong hai mươi năm, những sự cám dỗ ma quỷ của cuộc sống, tôi không hiểu được cái cách vĩ đại và kì quái mà đôi khi thiên nhiên cô lại trong vài hơi thở gấp gáp tất cả những gì là nồng nhiệt và băng giá, là sự sống và cái chết, là say đắm và tuyệt vọng. Cái đêm đó chứa chất đầy những đấu tranh và lời lẽ, đam mê, giận dữ và oán hờn, những giọt lệ van nài, say sưa đến nỗi tôi tưởng nó kéo dài tới một ngàn năm và chúng tôi – hai con người thất thểu ràng buộc lấy nhau cùng lăn xuống đáy vực thẳm, một người mang trong mình sự điện dại của cái chết, còn người kia, sự linh cảm của cái chết đó, – chúng tôi thoát ra khỏi cuộc đấu tranh sinh tử này, hoàn toàn biến hóa, toàn bộ đổi thay, với một tinh thần và một cảm giác khác.

Nhưng tôi không nói về điều ấy. Tôi không thể và không muốn biết điều ấy. Tuy vậy tôi lại phải nói với ông về cái phút kì lạ khi tôi tỉnh giấc sáng hôm sau. Tôi thức dậy sau một giấc ngủ nặng như chì, từ một vực sâu thăm thẳm, mà tôi chưa bao giờ biết đến. Mãi một lúc lâu, tôi mở mắt ra được và vật đầu tiên tôi trông thấy ở phía trên, là trần một gian phòng lạ; tôi sờ soạng thêm một chút nữa, thì thấy đây là một nơi khác lạ, ghê tởm , tôi chưa hề biết tới, không hiểu sao tôi lại có thể rơi vào đây được. Thoạt tiên, tôi cố cho đây chỉ là một giấc mơ, một giấc mơ rõ rệt và trong suốt, đã dẫn tới giấc ngủ nặng nề và lộn xộn này; nhưng trước cửa là ánh sáng ban mai, ánh sáng trong vắt và thật, không sao chối cãi được của vầng dương đã lóe lên; đã có những tiếng động của đường phố vang lên, tiếng xe lăn, tiếng chuông tàu điện, tiếng người ồn ào, bây giờ tôi biết là tôi không mơ, mà tôi tỉnh. Tôi miễn cưỡng nhỏm dậy, để lấy tinh thần và… nhìn sang bên…kìa, tôi trông thấy (không bao giờ tôi có thể tả cho ông thấy hết nỗi kinh hoàng của tôi) một người đàn ông lạ ngủ bên tôi trên cái giường rộng… nhưng đó là một người lạ, một người xa lạ hoàn toàn tôi không quen biết, ở trần…

Không, tôi hiểu là nổi kinh hoàng không sao kể ra được ấy, nó ập tới mạnh đến nỗi tôi lại nằm vật xuống, bất động. Nhưng đây không phải là ngất xỉu thật sự, không còn ý thức được gì, trái lại, trong khoảnh khắc một ánh chớp, tất cả mọi việc đối với tôi, trở nên vừa rõ ràng, vừa không sao giải thích được, và tôi chỉ ước ao được chết vì chán chường, vì tủi hổ vì thấy mình bỗng nhiên, nằm cùng một người hoàn toàn không quen biết, trên một cái giường lạ, tại một hắc điếm, rõ ràng là đáng nghi ngờ. Tôi còn nhớ rất rõ là tim tôi đã ngừng đập; tôi nín thở như để bằng cách đó, có thể chấm dứt được đời mình, trước hết là lương tâm mình, cái lương tâm trong sáng, một sự trong sáng quái đản, cảm thấy được tất cả nhưng không hiểu được gì hết.

Ôi không biết tôi nằm sóng sượt, toàn thân lạnh toát được bao nhiêu lâu: những người chết nằm trong quan tài cũng cứng đờ như vậy. Tôi chỉ biết là tôi đã nhắm mắt lại, và tôi cầu khẩn tất cả sức mạnh của trời đất, dù là gì đi nữa, hãy làm cho những điều đó không phải là thật, không phải đúng như vậy. Nhưng các giác quan nhạy bén của tôi đã cho thấy là tôi không mơ hồ chút nào; tôi nghe thấy tiếng người nói ở phòng bên, tiếng nước chảy; bên ngoài, những tiếng chân lướt ở hành lang và mỗi bằng chứng đó đã xác nhận một cách tàn nhẫn rằng tôi vẫn tỉnh táo.

Tôi không nói được là tình hình đau đớn như vậy kéo dài bao nhiêu lâu; những giây phút đó không đo được bằng những giây phút của cuộc đời. Bỗng nhiên một nỗi lo sợ khác xâm chiếm lấy tôi, nổi lo sợ khủng khiếp và man dại là người lạ này tên là gi tôi cũng không biết, sẽ thức dậy và hỏi tôi. Tôi thấy rõ là tôi chỉ còn cách duy nhất: mặc quần áo, bỏ đi để tìm lại, bằng cách nào cũng được, cuộc sống thật của mình, trở về khách sạn và ngay lập tức, bằng chuyến tàu đầu tiên, rời khỏi cái nơi đáng nguyền rủa này, rời đất nước này để không bao giờ gặp người đàn ông này nữa, không nhìn thấy mặt anh ta, không có nhân chứng, người buộc tội và kẻ đồng lõa nữa. Ý nghĩ đó đã thắng được cơn ngất xỉu của tôi; rất thận trọng, với những cử chỉ vụng trộm của một tên kẻ cắp, tôi ra khỏi giường, lần mò lấy quần áo, rón rén đưa tay lấy từng tí một (để khỏi gây ra tiếng động).

Tôi mặc quần áo, vô cùng thận trọng, chỉ sợ anh ta thức giấc và sau cùng tôi cũng đã sẵn sàng, tôi đã đạt tới mục đích của mình. Chỉ còn cái mũ của tôi ở đầu giường phía bên kia, và trong khi nhón gót, mò mẫm đi lấy mũ, ở giây phút này, tôi không thể làm khác: tôi cứ phải nhìn lần nữa bộ mặt của con người đã rơi vào đời tôi như một viên gạch rớt từ mái nhà xuống. Tôi chỉ muốn nhìn anh ta thôi nhưng… điều kì diệu là người trẻ lạ đang nằm ngủ nơi đây hoàn toàn xa lạ với tôi, thoạt tiên tôi không nhận ra bộ mặt ngày hôm qua. Thật vậy, những nét căng thẳng do đam mê làm nhăn nhó, với vẻ hốt hoảng, căng thẳng của con người bị kích thích đến cùng cực này như đã bị xóa nhòa; người nằm trước mặt tôi có một bộ mặt khác, thơ trẻ, bộ mặt của một đứa con trai, và thật tình mà nói, nó rạng rỡ, trong sáng và chân thành. Đôi môi hôm qua còn mím lại, răng nghiến chặt, đang mơ màng, hé mở, dịu dàng và hơi phác một nụ cười; mớ tóc bạch kim trải những lọn tròn trên vầng trán không một nếp nhăn và cái thân thể đang nghỉ ngơi này thở nhè nhẹ như một lớp sóng điện êm dịu toát từ lồng ngực ra.

Chắc ông còn nhớ, trước đây tôi đã nói với ông, chưa bao giờ tôi quan sát thấy một cách tập trung, sâu sắc và ở mức độ say sưa mãnh liệt đến như vậy, vẻ thèm khát dữ dằn và sự đam mê ở trong con người như tôi đã quan sát người lạ này trước bàn cờ bạc. Và bây giờ tôi lại nói với ông rằng chưa bao giờ, ngay cả ở những trẻ nít, trong giấc ngủ buổi sơ sinh, thường toả ra quanh chúng vẻ êm đềm của thiên thần, tôi cũng chưa bao giờ thấy một biểu hiện thanh khiết, trong sáng của giấc ngủ thực sự là sung sướng như thế. Trên bộ mặt này, tất cả tình cảm đã được ghi lại như một bức họa vô song, và bây giờ đây là một sự tĩnh dưỡng, như ở nơi cực lạc, một sự giải thoát việc trút bỏ mọi u uất trong lòng, một sự giải phóng.

Trước cảnh tượng kì lạ này, mọi lo âu, sợ hãi đã rời khỏi tôi như một chiếc áo khoác ngoài đen tối; tôi không thấy xấu hổ, không, tôi cảm thấy sung sướng nữa là khác. Sự kiện ghê gớm và khó hiểu này, bỗng có ý nghĩa đối với tôi; tôi thấy vui mừng, tự hào với ý nghĩ là người trai thanh lịch và đẹp này đang nằm tại đây, bình thản, điềm tĩnh như một bông hoa, nếu không có sự tận tình của tôi, sẽ được người ta thấy ở một nơi nào đó, bên một tảng đá, người gãy gập, đẫm máu, mặt vỡ nát, không hồn, mắt mở to trừng trừng; tôi đã cứu sống anh ta, anh ta đã được cứu sống. Và bây giờ với cặp mắt của người mẹ (tôi không tìm ra được từ nào khác), tôi nhìn người trẻ tuổi đang ngủ ở đây, được tôi đưa trở lại cuộc sống, đau đớn còn hơn khi tôi sinh các con ruột của tôi. Và trong gian phòng cáu bẩn, đồ đạc cổ lỗ, trong cái khách sạn tạm bợ, gớm ghiếc và nhơ nhớp này, tôi bỗng có cảm giác như khi tôi đang ở một nhà thờ, một cảm giác sung sướng tuyệt vời, huyền diệu và thánh thiện (tôi nghĩ vậy dù ông có cho những lời này là lố bịch). Từ giây phút rùng rợn nhất trong suốt cuộc đời tôi, đã nảy sinh trong tôi, như chị em ruột thịt, cái giây phút kỳ lạ, mạnh mẽ nhất có thể có được.

Epigenetics- Ngoại di truyền hay di truyền học biểu sinh

Cả hai từ tiếng Việt trên tôi đều đã gặp trong các tài liệu tiếng Việt, dù cùng một gốc tiếng Anh. Nhưng tôi đang cảm thấy ngạc nhiên khi cùng sinh viên Y1 của Học viện dượt qua một phần môn sinh học, vì bạn ý không biết gì về khái niệm này. Thế mà trên mạng lại sẵn có một tài liệu của Lê Đình Lương, từ 2009, viết giáo trình di truyền học cho PTTH, nhằm cập nhật kiến thức. Thôi thì cứ đăng lại ở đây, vì đây là kiến thức cơ sở cần thiết. Bài đăng lại có lược bỏ, chỉ giữ những kiến thức mà sẽ phục vụ cho module can thiệp đa ngành mà blog này hướng đến.

MỞ ĐẦU

Chúng ta đang bị cuốn hút và phần nào đang thật sự tham gia vào một cuộc cách mạng khoa học công nghệ mà thật ra đã được dự đoán trước từ những năm bảy mươi của thế kỷ XX vừa qua. Nhưng loài người vẫn bị bất ngờ vì những thành tựu nối tiếp thành tựu ngày càng dồn dập làm tăng quá nhanh tốc độ của cuộc cách mạng đó – cách mạng công nghệ sinh học hiện đại mà hạt nhân là di truyền học – lĩnh vực khoa học đã đạt tới một tầm cao lý thuyết đủ để trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, phục vụ hết sức hiệu quả cho các nhu cầu hàng ngày của thực tiễn xã hội, không phải chỉ của các nước phát triển mà cho cả các nước nghèo như nước ta. Điều đặc biệt và rất đặc thù ở đây là cuộc cách mạng này đã và đang tạo ra những cơ hội lớn và rất hiếm có để cho các nước nghèo có thể rút ngắn khoảng cách với các nước giàu trong việc phát triển khoa học này, nếu chúng ta biết chớp lấy và tận dụng tốt những cơ hội.

Các khái niệm về “gen”, “ADN”, mới ngày nào còn mang nặng tính hàn lâm, lý thuyết xa vời, thì giờ đây các sản phẩm từ chúng đã bày bán trên các sạp ở chợ trên khắp các châu lục. Việc thao tác ADN, các kỹ thuật di truyền phân tử – một hệ thống các phương pháp kết hợp những thành tựu khoa học lớn được giải thưởng Nobel, giờ đây đang được sử dụng phổ biến trên khắp thế giới, trong đó có nhiều phòng thí nghiệm ở nước ta, để phục vụ những nhu cầu thực tiễn đa dạng.

Ngày 12-2-2001 toàn bộ trình tự hệ gen người đã được xác định và công bố, mở ra một thời kỳ phát triển mới của di truyền học trên đối tượng con người.

Trung tâm của di truyền học là gen

Từ cuối thập kỷ 60 của thế kỷ XX xuất hiện một công nghệ cao bắt nguồn từ di truyền học hiện đại gọi là kỹ thuật di truyền. Nó đã phát triển với tốc độ thần kỳ và đạt tới điểm mà hiện nay trong nhiều phòng thí nghiệm trên toàn thế giới kỹ thuật này đã trở thành công việc hàng ngày: từ tách chiết đoạn ADN đặc thù của một hệ gen của một sinh vật đến việc xác định trình tự bazơ và đánh giá chức năng của nó.

Nguyên lý cơ bản của kỹ thuật này khá đơn giản. Cơ sở của công nghệ là thông tin di truyền mã hoá trong ADN, tồn tại ở dạng các gen. Thông tin này có thể sửa đổi theo nhiều cách khác nhau để đạt tới những mục tiêu nhất định trong nghiên cứu lý thuyết, ứng dụng và trong y học. Có 4 lĩnh vực chủ yếu sử dụng thao tác di truyền là:

– Nghiên cứu lý thuyết về cấu trúc và chức năng của gen;

– Sản xuất các protein hữu ích bằng các phương pháp mới, dựa trên chức năng của gen;

– Tạo ra các thực vật, động vật và vi sinh vật chuyển gen;

– Xét nghiệm ADN để xác định đặc trưng cá thể và chẩn đoán bệnh di truyền và bệnh nhiễm trùng…

Như vậy, trung tâm của di truyền học là GEN. Trên cơ sở hiểu biết rõ cấu trúc, chức năng và qui luật vận động của chúng con người đang ngày càng làm chủ công nghệ điều khiển sự sống của muôn loài theo hướng mong muốn.

Gen chủ yếu nằm trên các nhiễm sắc thể

Tất cả các sinh vật đều cấu thành từ các tế bào. Các phản ứng hóa học diễn ra bên trong các tế bào gọi là quá trình trao đổi chất. Thông tin di truyền cần thiết để duy trì các tế bào tồn tại và sản sinh ra các tế bào mới được tàng trữ trong nhân tế bào các sinh vật. Thông tin di truyền được truyền từ một thế hệ sang thế hệ tiếp theo.

Nhân tế bào có chứa thông tin di truyền (ADN) là trung tâm điều khiển của tế bào. ADN được bọc gói thành các nhiễm sắc thể. Việc tổng hợp (sao chép) ADN và tổng hợp (phiên mã) ARN tương ứng diễn ra bên trong nhân. Phiên mã là bước đầu tiên trong quá trình biểu hiện của thông tin di truyền và là hoạt động trao đổi chất chủ yếu của nhân tế bào.

Mỗi gen, tức mỗi đơn vị thông tin di truyền là một đoạn ADN mà thông tin của nó được thể hiện trong một ngôn ngữ chỉ bao gồm 4 chữ cái, mỗi chữ là một bazơ nitơ. Thông tin lưu trữ trong các sợi ADN sau đó thể hiện trong trình tự của một loại polymer sinh học khác, đó là protein.

Công trình tế bào học cuối những năm 1800 đã chứng minh rằng mỗi cơ thể sống có một bộ nhiễm sắc thể đặc thù nằm trong mỗi tế bào. Cùng thời gian đó các nghiên cứu hóa sinh học đã cho thấy rằng vật liệu cấu tạo nên các nhiễm sắc thể bao gồm ADN và protein. Công trình của Avery và Hershey, trong những năm 1940 và 1950, đã chứng minh rằng ADN là phân tử di truyền.

Các công trình hoàn thành vào những năm 1960 và 1970 đã cho thấy, mỗi nhiễm sắc thể là một cấu trúc chỉ gồm một sợi ADN liên tục và rất dài. Ở sinh vật bậc cao các protein cấu trúc, mà một số trong đó là histon, đóng vai trò giá đỡ giúp cho ADN có cấu trúc nhiễm sắc thể chặt chẽ.

Con đường từ gen đến tính trạng

Phần tổng kết dưới đây về những quá trình tham gia vào việc chuyển thông tin từ ADN sang các protein dùng để xây dựng cơ thể chúng ta. Đôi khi quá trình này được gọi là Thuyết trung tâm của di truyền học.

– Sao chép là quá trình ADN tự copy mình để chuyển sang tế bào mới trong khi phân chia (nhân lên) của tế bào.

– Phiên mã là quá trình trình tự ADN (các nucleotid) trong gen được sử dụng để tạo ra sợi mARN (ARN thông tin) giống nó, sau đó sợi này được dùng để điều khiển việc tổng hợp protein.

– Dịch mã là quá trình mà ở đó trình tự của mARN được dùng để hướng dẫn việc xây dựng trình tự axit amin trong protein. Sự cố xảy ra ở bất cứ quá trình nào trong số kể trên đều có thể dẫn đến sự phá vỡ chức năng bình thường của gen và dẫn tới bệnh tật.

Các proteins có vai trò vô cùng to lớn và đa dạng trong cơ thể. Chúng có trách nhiệm vận chuyển, lưu giữ và xây dựng khung cấu trúc của các tế bào. Chúng tạo ra kháng thể, bộ máy enzym để xúc tác các phản ứng hóa sinh học cần thiết cho các hoạt động trao đổi chất. Cuối cùng, các protein là thành phần quan trọng trong nhiều hormon, và các protein co bóp có nhiệm vụ co bóp các cơ và sự vận động của tế bào.

Gen có thể bật và tắt

Qua cơ chế phân bào mà chúng ta sẽ tìm hiểu ở phần sau của tài liệu này, hầu như tất cả các tế bào của một cơ thể đều mang cùng một bộ gen giống nhau. Nếu như tất cả các gen đó cùng hoạt động với mức độ như nhau trong suốt thời gian tồn tại của cơ thể, từ khi hình thành hợp tử trong bụng mẹ đến khi sinh ra và mất đi, thì hình dạng, mới chỉ nói về hình dạng, của tất cả chúng ta đều giống nhau và giống như một quả bóng (hình cầu). Nhưng thực tế đã không diễn ra như vậy. Những gen khác nhau ở những mô và tế bào khác nhau có thể hoạt động chức năng với cường độ khác nhau trong những thời gian khác nhau. Nói cách khác, các gen không sản xuất ra tất cả protein của chúng vào mọi lúc, việc sản xuất protein chịu một sự điều khiển nào đó. Các nhà nghiên cứu Pháp lần đầu tiên đã làm sáng tỏ cơ chế điều hòa hoạt động gen trên đối tượng vi khuẩn gọi là cơ chế biểu hiện gen phân hóa (differential gene expression).

Thí nghiệm đó như sau: Khi có đường lactose trong môi trường thì vi khuẩn E. coli mở toàn bộ nhóm gen để chuyển hóa đường. Các nhà nghiên cứu phát hiện thấy lactose đã loại bỏ một nhân tố ức chế khỏi ADN. Sự loại bỏ nhân tố ức chế đã bật điện cho việc sản xuất của gen.

Gen tạo ra nhân tố ức chế gọi là gen điều hòa. Phát minh này đã làm thay đổi quan niệm trước đó về sự phát triển của sinh vật bậc cao. Các tế bào không những có kế hoạch di truyền dùng cho các protein cấu trúc trong ADN của chúng mà còn có cả chương trình điều hòa di truyền để biểu hiện các kế hoạch nói trên.

Các chi tiết của chương trình điều hòa được nghiên cứu trên đoạn lac operon – đơn vị điều hòa của gen. Sơ đồ nguyên lý hoạt động của operon trình bày ở dưới.

Các gen khác nhau hoạt động trong các tế bào khác nhau

Tất cả các tế bào trong cơ thể đều mang một bộ gen giống nhau chứa thông tin di truyền đầy đủ. Nhưng chỉ khoảng 20% gen biểu hiện ở mỗi thời điểm cụ thể. Các protein khác nhau được tạo ra ở các tế bào khác nhau phù hợp với chức năng của tế bào. Sự biểu hiện của gen được kiểm soát và điều hòa chặt chẽ.

Phần lớn sinh vật có cơ thể bao gồm nhiều loại tế bào khác nhau được chuyên hóa để thực hiện những chức năng khác nhau. Chúng được gọi là các tế bào biệt hóa, khác với các tế bào gốc. Tế bào gan chẳng hạn, không có các nhiệm vụ hóa sinh như các tế bào thần kinh. Vậy là mỗi tế bào của cơ thể có cùng một cấu trúc di truyền, nhưng những loại tế bào khác nhau làm cách nào để có những cấu trúc khác nhau và chức năng hóa sinh khác nhau như thế? Vì chức năng hóa sinh được xác định bởi các enzym (protein) đặc hiệu, nên những bộ gen khác nhau phải được bật và tắt ở các loại tế bào khác nhau. Đó là cách các tế bào phân hóa.

Quan niệm này về sự biểu hiện đặc thù tế bào của gen đã được chứng minh bằng các thí nghiệm lai – những thí nghiệm có thể xác định các mARN duy nhất có trong mỗi loại tế bào. Gần đây, các phép thử ADN và các chip gen đã tạo điều kiện sàng lọc nhanh chóng tất cả hoạt động gen của một sinh vật. Do vậy, sự biểu hiện đồng thời của các gen khi phản ứng với các nhân tố bên ngoài có thể được sử dụng và xét nghiệm.

Các gen có thể được cắt, ghép, sửa đổi

Sự tiến bộ trong bất kỳ lĩnh vực khoa học nào đều phụ thuộc vào những kỹ thuật và phương pháp hiện có, có khả năng mở rộng phạm vi và đạt độ chính xác cao của các thí nghiệm cần thực hiện. Trong hơn 50 năm qua điều đó đã được minh chứng một cách hết sức ngoạn mục làm nổi bật lên lĩnh vực di truyền học phân tử – nòng cốt của Công nghệ sinh học hiện đại. Lĩnh vực này phát triển hết sức nhanh chóng đạt tới điểm mà ngày nay trong rất nhiều phòng thí nghiệm trên toàn thế giới việc nghiên cứu gen đã trở thành thực tế sôi sục hàng ngày, bao gồm tách chiết đoạn ADN đặc thù từ hệ gen của một sinh vật, xác định trình tự các bazơ và đánh giá chức năng của nó. Điều đặc biệt ấn tượng là công nghệ này hết sức dễ dàng sử dụng đối với từng cá nhân nhà khoa học mà không cần đến những thiết bị qui mô cũng như nguồn tài chính lớn ngoài tầm với của các phòng nghiên cứu được trang bị vừa phải.

Mặc dù có rất nhiều kỹ thuật phức tạp và đa dạng liên quan, nhưng nguyên lý cơ bản của thao tác di truyền lại khá đơn giản. Quan điểm chung mà các công nghệ dựa vào là thông tin di truyền được mã hóa trong ADN và được bố trí ở dạng các gen, là nguyên liệu nguồn có thể được thao tác theo nhiều cách khác nhau nhằm đạt tới những mục tiêu cụ thể.

Sau đây là những phương pháp và công nghệ chủ yếu dùng hàng ngày tại các phòng thí nghiệm di truyền học hiện đại:

Tách chiết ADN. Bước đầu tiên cần thực hiện để có được ADN mong muốn phù hợp với mục tiêu thí nghiệm. Nguyên lý chung giống nhau, tuy có khác biệt nhỏ ở 3 loại đối tượng khác nhau: động vật, thực vật và các tế bào nhân sơ như vi khuẩn.

Các phương pháp lai phân tử. Dựa trên tính chất bổ trợ giữa 2 sợi ADN mạch kép hoặc giữa sợi ADN và ARN có thể có các phương pháp Southern blotting, Northern blotting và lai tại chỗ (including fluorescent in situ hybridization – FISH). Các kỹ thuật lai cho phép tách biệt các gen quan tâm từ một hỗn hợp gồm nhiều đoạn ADN, ARN hoặc cả hai loại.

Sửa đổi ADN bằng enzym. Dựa vào đặc tính hoạt động đặc hiệu của các enzym lên ADN người ta có thể cắt ADN tại những điểm mong muốn (enzym giới hạn), sau đó có thể nối các đoạn ADN lại với nhau bằng enzym ADN ligase, tạo nên đoạn ADN có thành phần và nguồn gốc khác nhau, thuật ngữ chuyên môn gọi là ADN tái tổ hợp. Ngoài ra, còn nhiều loại enzym khác có đặc thù hoạt động khác trên ADN như phân hủy ADN từ một đầu nhất định, hay từ giữa sợi ADN ra ngoài – Nói chung, ngày nay trong tay các nhà khoa học có những công cụ phong phú để tạo ra các đoạn ADN mang những chức năng cần thiết cho các nhu cầu đa dạng của con người.

Gắn vào vector. Để chuyển ADN được tạo ra bằng các phương pháp trên, thường cần gắn ADN đó vào các cấu trúc ADN mạch vòng nhỏ gọi là plasmid, cosmid hay một loại virut, tựa như đưa hàng lên xe để chuyển đi. Sau đó nhân số lượng các vector lên để sẵn sàng cho các thí nghiệm chuyển gen đến cá thể vật chủ thích hợp. Do vậy kỹ thuật này thường gọi là tách dòng gen.

Tách dòng gen được sử dụng trong các lĩnh vực sau: nhận dạng gen đặc hiệu, lập bản đồ hệ gen, sản xuất các protein tái tổ hợp, và tạo ra các sinh vật chuyển gen (GMO).

Phản ứng chuỗi trùng hợp (PCR). Là kỹ thuật không thể thiếu trong các phòng thí nghiệm di truyền học hiện đại. Bản chất của phương pháp là cho phép nhân lên hàng triệu lần đoạn ADN quan tâm chỉ trong vòng hơn một giờ đồng hồ. GS. James Watson, người cùng Francis Crick tìm ra cấu trúc không gian chuỗi xoắn kép của ADN đã nhận xét: “Kỹ thuật PCR đã cách mạng hóa công nghệ sinh học”. Đặc biệt đối với các nước nghèo như nước ta, kỹ thuật này đã tạo ra cơ hội ngàn năm có một để rượt đuổi các nước tiên tiến, do không cần đầu tư lớn mà vẫn làm được khoa học và công nghệ ở mức độ cao.

Phương pháp PCR do Kary Mullis phát minh vào giữa những năm 1980, dựa trên những nguyên lý tổng hợp ADN tự nhiên trong tế bào và gồm các bước sau: 1) Tách sợi ADN mạch kép thành 2 sợi đơn bằng nhiệt độ cao, để mỗi sợi đơn có thể làm khuôn để tổng hợp các sợi mới; 2) Gắn 2 đoạn mồi (các đoạn ADN ngắn có chiều dài từ 18 – 30 nucleotid) vào 2 sợi ADN khuôn ở nhiệt độ thích hợp; 3) Tổng hợp 2 sợi ADN mới bắt đầu từ vị trí 2 mồi trên đã gắn vào ở một nhiệt độ khác. Các bước này được lặp lại 20-40 lần và một đoạn ADN mới nằm giữa 2 mồi được tổng hợp.

Ứng dụng của PCR 1. Chẩn đoán bệnh trong di truyền y học, vi sinh vật y học và y học phân tử. 2. Định typ HLA trong ghép tạng. 3. Phân tích ADN trong vật liệu cổ sinh. 4. Xác định đặc trưng cá thể trong hình sự và trong xét nghiệm huyết thống. 5. Chuẩn bị mẫu dò các axit nucleic. 6. Sàng lọc dòng và xây dựng bản đồ. 7. Nghiên cứu đa dạng di truyền của các loài.

Giải trình tự ADN. Một công nghệ cho phép giải trình tự trực tiếp các đoạn ADN thay vì cố gắng tìm ra trình tự các gen, trình tự đột biến ADN và các gen mới bằng các phương pháp truyền thống như phân tích RFLP, nhiễm sắc thể di chuyển hay thậm chí các thí nghiệm tải nạp, tiếp hợp ở vi khuẩn. Ngày nay giải trình tự ADN đã đạt đến giai đoạn tự động hóa và được sử dụng hàng ngày trong nhiều phòng thí nghiệm cho nhiều mục đích khác nhau.

Ngoại di truyền (Epigenetics) là một cách điều khiển hoạt động gen hiệu quả

Ngoại di truyền là lĩnh vực nghiên cứu những thay đổi di truyền trong biểu hiện gen mà không thay đổi trong trình tự ADN. Các nghiên cứu đã cho thấy rằng các cơ chế ngoại di truyền cung cấp thêm một tầng kiểm soát phiên mã cho phép điều hòa cách thức mà gen biểu hiện. Các cơ chế này là các hợp phần then chốt trong sự phát triển và sinh trưởng bình thường của tế bào. Các bất thường ngoại di truyền đã phát hiện thấy là những nhân tố gây ra ung thư, rối loạn di truyền và các hội chứng nhi khoa. Chúng cũng có thể là những nhân tố góp phần vào các bệnh tự miễn dịch và lão hóa. Bài này sẽ giới thiệu những nguyên lý cơ bản của các cơ chế ngoại di truyền và sự góp phần của chúng cho sức khỏe con người cũng như những hậu quả lâm sàng của các sai lệch ngoại di truyền. Bài cũng sẽ đề cập việc sử dụng con đường ngoại di truyền trong các cách tiếp cận mới đối với chẩn đoán và điều trị có định hướng thông qua phổ lâm sàng.

Lĩnh vực mới này sẽ có ảnh hưởng rộng lớn đến y học, đặc biệt đối với việc nghiên cứu các biến đổi di truyền trong chức năng gen mà không biến đổi trình tự ADN. Lĩnh vực phát triển rất nhanh này đang tạo ra những cơ hội mới hết sức hấp dẫn cho chẩn đoán và điều trị các rối loạn lâm sàng phức tạp. Nguyên lý cơ bản của ngoại di truyền là hiện tượng methyl hóa ADN và việc sửa đổi histon.

(A) Sơ đồ sửa đổi ngoại di truyền Các sợi ADN cuộn gói xung quanh các khối bát phân histon, tạo ra các thể nhân (nucleosome), cấu trúc này được tổ chức thành chromatin – đơn vị vật liệu cấu thành nhiễm sắc thể. Quá trình sửa đổi histon đặc hiệu điểm và thuận nghịch diễn ra tại nhiều điểm thông qua acetyl hóa, methyl hóa và phosphoryl hóa. Methyl hóa ADN xảy ra tại vị trí 5 của các gốc cytosin trong một phản ứng được xúc tác bởi các enzym ADN methyltransferases (DNMTs). Đồng thời, những sửa đổi này cung cấp một dấu hiệu (signature) ngoại di truyền riêng biệt có tác dụng điều hòa cấu trúc chromatin và biểu hiện gen.

(B) Sơ đồ thay đổi thuận nghịch trong cấu trúc chromatin ảnh hưởng đến biểu hiện gen: các gen được biểu hiện (bật) khi chromatin mở (hoạt động), và chúng bị bất hoạt (đóng) khi chromatin bị cô đặc (câm). Trên hình các vòng trắng là các cytosin không bị methyl hóa; các vòng đỏ là các cytosin bị methyl hóa.

Hậu quả lâm sàng của các sai lệch ngoại di truyền và các cơ chế điều hòa chịu ảnh hưởng của ADN qua suốt thời gian sống của con người. Ngay lập tức sau thụ tinh, hệ gen của người bố nhanh chóng bị demethyl hóa ADN và sửa đổi histon. Hệ gen của mẹ thì demethyl hóa từ từ, và tất nhiên một làn sóng methyl hóa mới của phôi được khởi đầu tạo dựng một kế hoạch chi tiết cho các mô của phôi đang phát triển. Kết quả là mỗi tế bào có một mẫu hình ngoại di truyền của riêng nó được duy trì nghiêm ngặt để điều hòa sự biểu hiện gen cần thiết. Những dao động trong các mẫu hình được bố trí chặt chẽ này của quá trình methyl hóa ADN và sửa đổi histon có thể dẫn đến những rối loạn bẩm sinh và những hội chứng thai nhi đa hệ thống hoặc những con người tiềm ẩn trạng thái bệnh tật như ung thư rải rác và các rối loạn suy thoái thần kinh.

Lão hóa Cả việc tăng cường hoặc thuyên giảm trong quá trình methyl hóa ADN đều liên quan tới quá trình lão hóa. Các bằng chứng tích lũy cho đến nay cho thấy những thay đổi methyl hóa phụ thuộc tuổi tham gia vào sự phát triển các rối loạn thần kinh, tính tự miễn dịch và ung thư ở những người già. Những biến đổi methyl hóa diễn ra theo tuổi có thể bao gồm việc bất hoạt các gen liên quan ung thư. Ở một số mô mức độ cytosin bị methyl hóa tăng cao trong các tế bào đang lão hóa và quá trình demethyl hóa này có thể kích thích tính bất ổn định của nhiễm sắc thể gây ra những tái cấu trúc làm tăng nguy cơ ung thư. Trong các mô khác như ruột, việc tăng cao methyl hóa có thể là sự kiện tiềm ẩn mắc ung thư ruột kết khi tuổi cao.

Ung thư và liệu pháp ngoại di truyền Ung thư là một quá trình bao gồm nhiều bước mà ở đó những sai lệch di truyền và ngoại di truyền tích lũy lại và chuyển một tế bào bình thường thành tế bào ung thư xâm lấn hoặc di căn. Các mẫu hình methyl hóa ADN bị biến đổi làm thay đổi sự biểu hiện của các gen liên quan đến ung thư. Quá trình methyl hóa ADN giảm sẽ hoạt hóa các gen ung thư và khởi đầu sự bất ổn định của nhiễm sắc thể, trong khi quá trình tăng methyl hóa ADN lại khởi đầu cho sự câm lặng các gen ức chế ung thư. Tỷ lệ mắc phải hiện tượng tăng siêu methyl hóa, đặc biệt trong ung thư rời rạc, dao động tùy thuộc gen liên quan và loại ung thư mà ở đó sự cố xảy ra.

Cho đến nay, các liệu pháp ngoại di truyền còn ít về số lượng nhưng một số trong đó đang được nghiên cứu trong các thử nghiệm lâm sàng hoặc đã được chấp nhận cho áp dụng điều trị những kiểu ung thư đặc thù. Một số chất đồng đẳng như azacitidin được gắn vào ADN đang sao chép, ức chế methyl hóa và tái hoạt hóa các gen đã bị câm trước đó. Azacitidin có hiệu quả trong thử nghiệm lâm sàng pha I khi điều trị hội chứng myelodysplast và bệnh bạch cầu do siêu methyl hóa gây ra. Các oligonucleotid đối nghĩa cũng cho những kết quả rất hứa hẹn trong thử nghiệm lâm sàng pha I đối với cá khối u rắn và ung thư thận. Tương tự, các phân tử nhỏ như axit valproic cũng đang được sử dụng để làm chết các tế bào ung thư. Sự phối hợp liệu pháp ngoại di truyền với liệu pháp hóa học truyền thống có thể đưa lại hiệu quả cao hơn vì chúng tái kích hoạt các gen câm trong đó có các gen ức chế ung thư, đồng thời làm cho các tế bào nhờn thuốc nhạy cảm trở lại với liệu pháp chuẩn bình thường.

Con đường phía trước Kiến thức của chúng ta về các cơ chế ngoại di truyền đã tăng lên trong 20 năm qua đã bắt đầu chuyển hóa thành những cách tiếp cận mới trong chẩn đoán phân tử và điều trị nhằm đích thông qua phổ lâm sàng. Với sự hoàn thành Dự án hệ gen người, Dự án ngoại hệ gen người đã được đề xuất sẽ tạo ra các bản đồ methyl hóa cho cả hệ gen. Bằng cách nghiên cứu cả các mô khỏe và mô bệnh các vùng hệ gen đặc thù sẽ được nhận dạng, chúng tham gia vào quá trình phát triển, vào sự biểu hiện đặc thù mô, vào tính nhạy cảm với môi trường và vào sự phát sinh bệnh. Việc sử dụng các bản đồ ngoại di truyền này sẽ dẫn đến các liệu pháp ngoại di truyền điều trị các rối loạn phức tạp xuyên suốt phổ lâm sàng.

Về giảng dạy Ngôn ngữ trị liệu trong Rối loạn ngôn ngữ

Theo Rhea Paul thì: cuốn Rối loạn ngôn ngữ

được sắp xếp thành 14 chương, có thể tương ứng với 14 tuần của một học kỳ điển hình. Nếu cuốn sách đang được sử dụng để giảng dạy một khóa học / một học kỳ, một chương của cuốn sách có thể được bao gồm trong mỗi tuần của học kỳ. Tuy nhiên, càng ngày, các chương trình về bệnh lý ngôn ngữ nói đang mở rộng để bao gồm hai thuật ngữ thay vì một. Một số chương trình chia chương trình học thành các phần: đánh giá và can thiệp.

Những người khác phân chia theo các đường phát triển, dạy đánh giá và can thiệp sớm trong học kỳ đầu tiên- và rối loạn học ngôn ngữ ở trẻ em trong độ tuổi đi học trong học kỳ thứ hai. Nếu cuốn sách này được sử dụng theo trình tự hai kỳ sử dụng cấu trúc đánh giá / can thiệp, các chương có thể được trình bày theo thứ tự sau:

Học kỳ 1 Lượng giá

Chương 1 Định nghĩa và Mô hình Rối loạn Ngôn ngữ ở Trẻ em

Chương 2 Nguyên tắc lượng giá

Chương 6 Lượng giá và Can thiệp trong Thời kỳ Tiền ngôn ngữ

Chương 7 Lượng giá và Can thiệp cho Ngôn ngữ Mới xuất hiện

Chương 8 Lượng giá việc Phát triển Ngôn ngữ

Chương 10 Ngôn ngữ, Đọc và Học ở Trường: Những gì SLP cần biết

Chương 11 Lượng giá giá ngôn ngữ để học

Chương 13 Lượng giá Ngôn ngữ Nâng cao

Học kỳ 2 Can thiệp

Chương 3 Các nguyên tắc can thiệp

Chương 9 Can thiệp để Phát triển Ngôn ngữ

Chương 12 Can thiệp vào giai đoạn ngôn ngữ để học

Chương 14 Can thiệp cho Ngôn ngữ Nâng cao

Chương 4 Các cân nhắc đặc biệt đối với các nhóm dân cư đặc biệt

Chương 5 Rối loạn ngôn ngữ trẻ em trong một xã hội đa nguyên

Mặt khác, nếu trình tự được tổ chức dọc theo các dòng phát triển, các chương có thể được bao gồm như sau:

Học kỳ 1 Lượng giá và Can thiệp Sớm

Chương 1 Định nghĩa và Mô hình của Rối loạn ngôn ngữ ở trẻ em

Chương 2 Nguyên tắc lượng giá

Chương 3 Nguyên tắc can thiệp

Chương 6 Lượng giá và Can thiệp trong Giai đoạn Tiền ngôn ngữ

Chương 7 Lượng giá và Can thiệp cho Ngôn ngữ Mới xuất hiện

Chương 8 Lượng giá việc Phát triển Ngôn ngữ

Chương 9 Can thiệp để Phát triển Ngôn ngữ

Học kỳ 2 Làm việc với Khuyết tật Học ngôn ngữ

Chương 10 Ngôn ngữ, Đọc và Học ở Trường: Những gì SLP cần biết

Chương 5 Rối loạn ngôn ngữ trẻ em trong một xã hội đa nguyên

Chương 11 Lượng giá Ngôn ngữ để Học

Chương 12 Can thiệp vào Giai đoạn Ngôn ngữ để Học

Chương 13 Lượng giá Ngôn ngữ Nâng cao

Chương 14 Can thiệp cho Ngôn ngữ Nâng cao

Chương 4 Các cân nhắc đặc biệt đối với các nhóm dân cư đặc biệt

Cuối cùng, nếu một khóa học đại học được bao gồm trong chương trình giảng dạy ngôn ngữ trẻ em, phần đầu tiên của cuốn sách, Các chủ đề về rối loạn ngôn ngữ ở trẻ em, có thể dùng làm văn bản cho khóa học đại học và các Chương từ 6 đến 14 có thể được bao gồm trong chương trình giảng dạy sau đại học.

Có lẽ, tôi sẽ đi theo cách chia thứ 2 của Rhea Paul. Mặt khác, khi dịch cuốn này, tôi nhận thấy Marc Fey là một tác giả quan trọng khi nói về vấn đề can thiệp. Nên ngoài bài https://wordpress.com/post/canthiepdanganh.com/440, trong một số post tới tôi sẽ dịch cuốn đó xen kẽ.

Rối loạn ngôn ngữ của Rhea Paul- Phần 1/ bài 10 (chương 2)

Tích hợp và giải thích dữ liệu đánh giá

Sau khi hoàn thành phỏng vấn, kiểm tra và quan sát, nhiệm vụ tiếp theo của chúng ta là diễn giải ý nghĩa của dữ liệu đánh giá. Nếu sự thiếu hụt đáng kể được xác định bằng test tiêu chuẩn, thì các phép so sánh điểm tiêu chuẩn có thể được chuyển đổi thành điểm tương đương về độ tuổi. Sau đó, chúng có thể được kết hợp với thông tin từ các thang đo phát triển để tạo ra một hồ sơ về điểm mạnh và điểm yếu. Hồ sơ có thể được sử dụng để lập kế hoạch những loại đánh giá bổ sung dựa trên tiêu chí tham chiếu và quan sát hành vi có thể cần thiết để hoàn thành bức tranh của chúng tôi về mức độ hoạt động hiện tại của trẻ. Thông tin này có thể được thu thập trong các buổi đánh giá tiếp theo hoặc trong giai đoạn đầu của chương trình can thiệp. Điều chúng ta không muốn quyết định trên cơ sở test tiêu chuẩn hóa là chúng ta cần nhiều test tiêu chuẩn hóa hơn.

Một khi chúng ta đã xác định rằng đứa trẻ bị thiếu hụt đáng kể trong khả năng giao tiếp, nhiệm vụ quan trọng là thiết lập hoạt động cơ bản trong các lĩnh vực ngôn ngữ khác nhau. Phỏng vấn, bảng câu hỏi, quy trình tham chiếu tiêu chí và quan sát hành vi, bao gồm các phương pháp chức năng, động lực và dựa trên chương trình giảng dạy, phù hợp hơn với mục đích này.

Khi hồ sơ giao tiếp của trẻ đã được thiết lập và mức cơ bản của hoạt động đã được vạch ra, thông tin này được sử dụng để hoàn thành ba phần cuối cùng của quá trình đánh giá: (1) xác định mức độ nghiêm trọng của rối loạn, (2) đưa ra tuyên bố tiên lượng , và (3) đưa ra các khuyến nghị cho một chương trình can thiệp.

Tuyên bố mức độ nghiêm trọng

Dựa trên dữ liệu đánh giá, bác sĩ sẽ đưa ra quyết định về mức độ nghiêm trọng của rối loạn giao tiếp của trẻ. Nói chung, mức độ nghiêm trọng được đánh dấu là nhẹ, trung bình, nghiêm trọng hoặc sâu sắc. WHO đã cung cấp các hướng dẫn sử dụng từng thuật ngữ này, được tóm tắt trong bảng dưới.

NhẹMột số tác động đến kết quả hoạt động nhưng không loại trừ việc tham gia vào các hoạt động phù hợp với lứa tuổi ở trường học và cộng đồng Có thể hoạt động độc lập với sự hỗ trợ tối thiểu
Trung bìnhMức độ suy giảm đáng kể yêu cầu các tiện nghi để hoạt động trong các môi trường chính thống Có thể hoạt động trong cài đặt được giám sát
Cần có hỗ trợMở rộng nghiêm trọng để hoạt động trong các cài đặt chính thống Có thể thể hiện một số kỹ năng chức năng với sự giám sát
Sâu sắcMột số kỹ năng chức năng Yêu cầu hỗ trợ tối đa với các hoạt động cơ bản
Phân loại mức độ nghiêm trọng- Mô tả phân loại

Dữ liệu từ Accardo, P., & Whitman, M. (2004). Từ điển thuật ngữ khuyết tật phát triển (xuất bản lần thứ 2). Baltimore, MD: Paul H. Brookes; Tổ chức Y tế Thế giới. (2004). Phân loại thống kê quốc tế về bệnh tật và các vấn đề sức khỏe liên quan (xuất bản lần thứ 10). Geneva: Tác giả.

Xếp hạng mức độ nghiêm trọng là quan trọng vì hai lý do. Đầu tiên, chúng giúp thiết lập các ưu tiên cho sự can thiệp. Nếu sự thiếu hụt về giao tiếp là nghiêm trọng, trong khi sự thiếu hụt trong các lĩnh vực khác được đánh giá bởi đánh giá đa ngành ít bị ảnh hưởng nghiêm trọng hơn, thì các ưu tiên can thiệp nên bao gồm các dịch vụ ngôn ngữ và ngôn ngữ. Ngược lại, nếu giao tiếp ít bị ảnh hưởng nghiêm trọng hơn các lĩnh vực khác, chẳng hạn như phát triển cảm xúc-xã hội hoặc điều chỉnh hành vi, thì những lĩnh vực này có thể được ưu tiên cho các nguồn lực can thiệp. Mục đích thứ hai của việc đánh giá mức độ nghiêm trọng là để có một tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả của can thiệp. Nếu kỹ năng giao tiếp ban đầu được đánh giá là bị suy giảm nghiêm trọng và sau vài năm can thiệp, xếp hạng mức độ nghiêm trọng được cải thiện ở mức trung bình, thì đây là một cách để thiết lập hiệu quả của can thiệp, mặc dù chưa đạt được chức năng hoàn toàn bình thường.

Tuyên bố tiên lượng

Tuyên bố tiên lượng bao gồm dự đoán của nhà lâm sàng về kết quả giao tiếp có thể được mong đợi một cách hợp lý vào một thời điểm nào đó trong tương lai, dựa trên mức độ hoạt động hiện tại. Các tuyên bố tiên lượng tương tự như các tuyên bố về mức độ nghiêm trọng ở chỗ chúng giúp chúng ta tiết kiệm các nguồn lực can thiệp và hỗ trợ trách nhiệm giải trình. Nếu nhà lâm sàng tuyên bố trong tiên lượng rằng một đứa trẻ có khả năng đạt được chức năng giao tiếp bình thường, thì tuyên bố này, một lần nữa, có thể dùng làm tiêu chuẩn để đo lường sự tiến bộ trong can thiệp. Nếu đứa trẻ không đạt được mức chức năng như dự đoán trong tuyên bố tiên lượng sau một thời gian can thiệp hợp lý, thì hoặc tiên lượng sai hoặc can thiệp không có hiệu quả như lẽ ra phải có. Trong cả hai trường hợp, việc hạch toán chênh lệch là cần thiết.

Vì lý do này, chúng ta cần thận trọng khi đưa ra các tuyên bố tiên lượng, có tính đến tất cả các yếu tố liên quan. Tuổi thường quan trọng trong tiên lượng. Trẻ càng nhỏ khi xác định được rối loạn giao tiếp thì kết quả càng ít chắc chắn. Một trẻ vị thành niên không có chức năng nói có tiên lượng rõ ràng hơn và kém hơn nhiều so với một đứa trẻ 2 hoặc 3 tuổi chưa bắt đầu biết nói. Môi trường xã hội cũng có thể ảnh hưởng đến tiên lượng bệnh. Một thân chủ từ một gia đình hoạt động tốt có đủ nguồn lực và năng lượng để làm việc cùng và bênh vực cho đứa trẻ có tiên lượng tốt hơn một đứa trẻ trong một gia đình mà cha mẹ bị ốm, nghiện ma túy hoặc rượu, hoặc bị choáng ngợp bởi một cuộc đấu tranh sinh tồn kinh tế. Tính cách và tính khí của khách hàng cũng có ảnh hưởng. Một đứa trẻ cẩn thận, phản xạ và có năng lực chú ý phát triển tốt sẽ có lợi thế hơn để tận dụng sự can thiệp hơn một đứa trẻ hiếu động, bốc đồng, những đứa trẻ phải có được những hành vi tham dự cơ bản trước khi có thể tiến hành nhiều việc học tập. Tương tự như vậy, một đứa trẻ có động lực cao để cải thiện vì chúng được giao tiếp nhiều và sẵn sàng chấp nhận một số rủi ro và mắc một số sai lầm có tiên lượng tốt hơn một đứa trẻ cực kỳ thận trọng, nhút nhát và tương đối tự chủ và không cảm thấy được thúc đẩy mạnh mẽ để vượt qua sự thiếu hụt trong giao tiếp. Sự tham gia của các lĩnh vực hoạt động khác ngoài giao tiếp cũng ảnh hưởng đến tiên lượng. Một đứa trẻ 3 tuổi bị thiểu năng trí tuệ và tự kỷ không nói chuyện thường có tiên lượng xấu hơn một đứa trẻ 3 tuổi không nói được hòa đồng với chức năng nhận thức bình thường. Các vấn đề về tiên lượng đối với các tình trạng khác nhau liên quan đến rối loạn ngôn ngữ sẽ được thảo luận chi tiết hơn. Một lần nữa, nhà lâm sàng phải đánh giá từng khía cạnh của tiên lượng trong suốt quá trình đánh giá, sử dụng dữ liệu từ các nguồn phỏng vấn và quan sát. Ấn tượng của nhà lâm sàng về những yếu tố này sẽ được tính vào tuyên bố tiên lượng.

Tuy nhiên, mặc dù sử dụng dữ liệu phong phú và tốt nhất hiện có, nhưng khi chúng ta đưa ra một tiên lượng, chúng tôi luôn đưa ra một phỏng đoán có lập luận. Cho dù chúng ta đưa ra một tuyên bố tiên lượng bằng văn bản, trong một báo cáo lâm sàng, hoặc trong cuộc trò chuyện với gia đình bệnh nhân, sự thật này phải được tôn trọng. Do đó, tốt nhất là nên đưa ra một tiên lượng ngắn hạn thay vì dài hạn và nói về những gì trẻ có thể sẽ làm được trong một khoảng thời gian cụ thể, thay vì những gì trẻ sẽ không thể làm được. Ví dụ, một tiên lượng có thể chứa một tuyên bố rằng với sự can thiệp chuyên sâu, thân chủ sẽ chuyển trong vòng 1 năm từ cách nói một từ sang việc tạo ra một số câu hai và ba từ. Tiên lượng này có thể được lượng giá, bởi vì nó cho biết một khoảng thời gian cụ thể và một kết quả có thể đo lường được. Tiên lượng này cũng thích hợp hơn một tiên lượng nói rằng một thân chủ sẽ không đạt được sự phát triển ngôn ngữ diễn đạt bình thường, chẳng hạn.

Điều này không bao gồm khoảng thời gian để đánh giá có thể được thực hiện và chỉ nêu một kết quả tiêu cực, không phải những gì có thể được mong đợi xảy ra.

Các nhà lâm sàng tuân thủ quy tắc đưa ra những tiên lượng ngắn hạn và nói chúng theo những điều kiện tích cực thường ít gặp phải sự phản kháng và thù địch từ gia đình hơn những người đưa ra những dự đoán dài hạn mà thực tế là không ai có thể chắc chắn được. Ngay cả khi bị gia đình thúc ép phải dự đoán đứa trẻ sẽ như thế nào khi trưởng thành, bác sĩ lâm sàng khôn ngoan có thể nhắc nhở cha mẹ rằng nhiệm vụ quan trọng là giúp trẻ làm tốt nhất có thể hiện tại và trong vài tháng hoặc vài năm tới. Thành thật thừa nhận rằng con người quá phức tạp và khó đoán để chúng ta có thể nói trước tương lai của chúng có thể đi đôi với sự khuyến khích gia đình làm việc với đứa trẻ như hiện tại và ủng hộ những dịch vụ mà chúng cần để đạt được những điều tiếp theo bước phát triển phù hợp. Đảm bảo rằng việc chẩn đoán và tiên lượng sẽ được tiến hành có thể giúp gia đình đối phó với những bất ổn khó chịu khi nuôi dạy một đứa trẻ khuyết tật.

Khuyến nghị

Nhiệm vụ cuối cùng nhưng chắc chắn không kém phần quan trọng của quá trình chẩn đoán là đưa ra các khuyến nghị can thiệp. Những khuyến nghị này dựa trực tiếp vào dữ liệu lượng giá. Khi chúng tôi nói về “lý do” đánh giá, chúng tôi đã thảo luận về việc thiết lập các mục tiêu để can thiệp như một trong những mục đích trọng tâm của đánh giá. Khi đưa ra các khuyến nghị, chúng ta kết hợp việc thiết lập các mục tiêu can thiệp vào một tuyên bố chung hơn về nhu cầu, hướng đi và cách tiếp cận can thiệp phù hợp nhất cho đối tượng khách hàng cụ thể này. Sau đó, tuyên bố về các khuyến nghị, trong báo cáo lâm sàng hoặc trong cuộc họp với gia đình bao gồm ba phần:

• Khuyến nghị của chúng ta về việc liệu một số can thiệp của SLP có phù hợp hay không. Khuyến nghị này dựa trên việc liệu đứa trẻ có bị rối loạn giao tiếp đáng kể hay không và liệu chúng ta có tin rằng, do mức độ nghiêm trọng và các tuyên bố tiên lượng, rằng can thiệp sẽ hữu ích.

• Các mục tiêu mà chúng ta đã thiết lập để can thiệp, dựa trên dữ liệu lượng giá và hồ sơ nội bộ.

• Các gợi ý về phương pháp, cách tiếp cận, hoạt động, sự củng cố, hoặc bất kỳ khía cạnh nào khác của chương trình can thiệp mà nhà lâm sàng tin rằng sẽ được thông báo bằng dữ liệu thu thập được trong quá trình lượng giá. Đây là cơ hội để nhà lâm sàng chia sẻ những quan sát và hiểu biết sâu sắc thu được khi làm việc với trẻ sẽ giúp tối đa hóa cơ hội thành công trong can thiệp.

Tổng hợp tất cả cùng với nhau: Báo cáo lâm sàng và hội nghị

Báo cáo lâm sàng

Một báo cáo lâm sàng chỉ đơn giản là một bản tóm tắt chứa tất cả các thông tin mà chúng ta đã thảo luận trong chương này. Nói chung, báo cáo lâm sàng tuân theo một định dạng chuẩn hơn hoặc ít hơn, chẳng hạn như định dạng được đưa ra ở dưới đây. Báo cáo bắt đầu bằng cách nêu thông tin nhận dạng cơ bản, chẳng hạn như tên khách hàng, tuổi, ngày sinh, địa chỉ, số điện thoại, tên cha mẹ, nơi giới thiệu, v.v. Phần tiếp theo bao gồm một tuyên bố ngắn về vấn đề đang trình bày hoặc lo ngại. Tiếp theo là phần xem xét ngắn gọn về bệnh sử. Phần tiếp theo của báo cáo thường được gắn nhãn “Đánh giá” hoặc “Kết quả Kiểm tra” và chứa các bài test tiêu chuẩn được đưa ra và so sánh điểm tiêu chuẩn. Các lượng giá khác cũng được tóm tắt ngắn gọn. Phần tiếp theo, có tên “Ấn tượng” hoặc “Quan sát hành vi” là nơi nhà lâm sàng nêu một số hiểu biết sâu sắc sau khi làm việc với trẻ, chẳng hạn như ý kiến ​​của nhà lâm sàng về các yếu tố trong môi trường xã hội hoặc tính khí của trẻ có thể ảnh hưởng đến hoạt động hiện tại hoặc thành công trong một chương trình can thiệp. Trong phần “Tóm tắt”, nhà lâm sàng giải thích các phát hiện, tổng hợp lại, dữ liệu thẩm định có ý nghĩa như thế nào. Phần này cũng thường bao gồm các tuyên bố về mức độ nghiêm trọng và tiên lượng. Phần “Khuyến nghị” nên chứa ba điểm mà chúng ta đã thảo luận trước đó.

I. Nhận dạng Thông tin
Tên:
Giới tính:
Địa chỉ nhà:
Ngày sinh:
Bố mẹ:
Ngày đánh giá:
Điện thoại:
Tuổi:
Gọi bằng:
Người làm báo cáo:
II Trình bày vấn đề
III. Bệnh sử
IV. Kết quả kiểm tra
Các vấn đề liên quan
Các thước đo ngôn ngữ tham chiếu chuẩn
Các đo lường tham chiếu tiêu chí
Quan sát hành vi
V. Ấn tượng
VI. Bản tóm tắt
Kết quả kiểm tra
Tuyên bố mức độ nghiêm trọng
Tiên lượng
Khuyến nghị
Có cần can thiệp không?
Mục tiêu
Đề xuất về phương pháp, cách tiếp cận, hoạt động và các biện pháp củng cố
Tiến độ sẽ được theo dõi như thế nào
Mẫu cho một báo cáo lâm sàng

Ngôn ngữ trong báo cáo lâm sàng phải rõ ràng, đơn giản nhưng chuyên nghiệp. Không nhất thiết phải sử dụng mọi thuật ngữ chuyên môn mà chúng ta biết hoặc lặp lại mọi sự tự tin thể hiện trong cuộc phỏng vấn. Mục đích của báo cáo lâm sàng là truyền đạt càng ngắn càng tốt thông tin thu thập được từ cuộc đánh giá và thực hiện điều đó theo cách mà cả phụ huynh và các chuyên gia khác đều thấy dễ hiểu. Về mục đích này, việc sử dụng một số đại từ nhân xưng (tôi, chúng tôi, v.v.) được chấp nhận và thường được ưu tiên hơn đối với những cách sử dụng khó hiểu, chẳng hạn như “bác sĩ lâm sàng này đã tìm thấy.” Chúng ta cần phân biệt giữa thông tin mà chúng ta tự thu thập hoặc quan sát được với thông tin do cha mẹ hoặc những người khác báo cáo cho chúng ta, do đó, sử dụng các cụm từ, chẳng hạn như “theo báo cáo của phụ huynh” hoặc “người mẹ nhớ lại” là thích hợp. Tốt nhất nên tránh các cụm từ mang tính phán xét, chẳng hạn như “tốt”, “kém”, “độc đáo”, v.v. khi mô tả hoạt động của trẻ. Thông thường câu chủ động tốt hơn câu bị động, mặc dù thỉnh thoảng có thể sử dụng câu bị động. Những câu ngắn thường tốt hơn những câu dài. Mỗi ý nghĩ mới nên có câu riêng của nó. Giữ cho danh từ và động từ trong mỗi câu gần nhau là một quy tắc tốt. Điều này giúp câu không bị rườm rà và phức tạp. Jerger (1962) đưa ra lời khuyên hữu ích khi ông ấy bảo chúng ta “hãy viết nó theo cách bạn sẽ nói”. Chúng ta có thể coi bản báo cáo như một cuộc trò chuyện trong đó chúng ta cố gắng nói với một người khác không phải là SLP về những gì chúng ta đã thấy ở đứa trẻ này. Hình ảnh này có thể giúp chúng ta chọn các từ và câu cẩn trọng nhất để hiểu nghĩa của chúng ta.

Hội nghị lâm sàng

Sau khi báo cáo lâm sàng đã được viết xong, bạn có thể được mời tiến hành một hội nghị lâm sàng hoặc thảo luận về các kết quả đánh giá và khuyến nghị, với trẻ, gia đình của trẻ hoặc các chuyên gia khác (Shipley & McAfee, 2016). Hội nghị có thể diễn ra trong nhiều bối cảnh khác nhau (ví dụ: gặp trực tiếp, qua điện thoại, trực tuyến) và mục đích của nó là truyền đạt nội dung của báo cáo lâm sàng một cách rõ ràng và chuyên nghiệp. Hãy nhớ rằng có thể không hoặc không nên đề cập đến tất cả thông tin từ báo cáo: chọn ba điểm chính mà bạn muốn làm nổi bật trong hội nghị và truyền đạt những điểm này mà không sử dụng biệt ngữ hoặc số liệu thống kê phức tạp. Đảm bảo trả lời bất kỳ câu hỏi nào có thể phát sinh trong hội nghị, hoặc ghi chú lại để tìm câu trả lời và theo dõi sau khi hội nghị kết thúc. Kết thúc hội nghị bằng cách tóm tắt ba điểm quan trọng của bạn và vạch ra những bước sẽ được thực hiện tiếp theo, dựa trên các khuyến nghị trong báo cáo của bạn.

Kết luận

Quá trình lượng giá cung cấp xương sống cho chương trình can thiệp của chúng ta. Nó cho chúng ta biết liệu chúng ta có cần can thiệp hay không và mục tiêu của can thiệp cần là gì, và nó cho phép chúng ta quyết định xem liệu can thiệp có hiệu quả hay không và việc xuất viện có phù hợp hay không. Bác sĩ lâm sàng nên làm quen với nhiều công cụ khác nhau, cả chính thức và không chính thức, để thu thập thông tin đánh giá và phải lựa chọn những công cụ này một cách cẩn thận để tận dụng tối đa thời gian lượng giá các kỹ năng của trẻ. Lượng giá lời nói, ngôn ngữ và giao tiếp thường là một phần của một quy trình lớn hơn, có thể yêu cầu nhà lâm sàng truyền đạt kết quả cho các chuyên gia khác và yêu cầu thêm thông tin. Lượng giá tốt nhất được coi là quá trình kiểm tra giả thuyết – hình thành giả thuyết về bản chất của những khó khăn của trẻ và kiểm tra giả thuyết đó bằng cách sử dụng cả dữ liệu lượng giá và phản ứng với can thiệp. Theo cách này, việc đưa ra quyết định lâm sàng bao gồm việc đặt ra một số câu hỏi và loại trừ các giải thích thay thế dựa trên câu trả lời mà chúng ta tìm thấy cho những câu hỏi đó. Quá trình ra quyết định này đã được Bishop (2001) minh họa. Khi truyền đạt quyết định của mình cho người khác, nhà lâm sàng cần phát triển các kỹ năng viết đặc biệt để giao tiếp lâm sàng. Khi viết các báo cáo lâm sàng, chúng ta truyền tải thông tin đến những người khác mà quan tâm đến đứa trẻ, và truyền đạt cho họ không chỉ những gì chúng ta học được từ thăm khám của mình, mà còn những gì chúng ta suy ra từ những tương tác của chúng ta với đứa trẻ và gia đình. Khi có được các kỹ năng làm bác sĩ chẩn đoán, chúng ta cũng đang phát triển một số kỹ năng giao tiếp mới của riêng mình.

Rối loạn ngôn ngữ của Rhea Paul- Phần 1/ bài 9-3 (chương 2)

Bài 9 được chia nhỏ nhiều phần bởi tính phức tạp. Tất cả các kĩ thuật lượng giá nêu ở đây đều là những phần phát triển chi tiết sau này, trong quá trình thực hành, cũng như là tiêu chí phân loại cho các nhà chuyên môn khi trau dồi các kĩ năng lượng giá. Rất nhiều các lớp mở ra, nhưng cho đến nay, các lớp này ít khi cung cấp được chương trình của họ cho nhà chuyên môn những kĩ năng cụ thể gì.

Quan sát hành vi

Lượng giá dựa trên tiêu chí và phân tích cấu trúc cho phép nhà lâm sàng kiểm tra chi tiết hoạt động giao tiếp của một đứa trẻ mà không có những hạn chế và giới hạn áp đặt bởi test tiêu chuẩn. Tuy nhiên, với các quy trình xem xét dựa trên tiêu chí, chúng ta vẫn đang so sánh kết quả hoạt động của trẻ với một tiêu chí xác định trước để quyết định xem trẻ có đáp ứng tiêu chí này hay trẻ cần can thiệp để hoàn thành mục tiêu này.

Các quan sát hành vi khác với cách tiếp cận này ở chỗ chúng không quan tâm đến việc so sánh thành tích của một đứa trẻ với một tiêu chí mà chỉ quan tâm đến việc mô tả thành tích trong một lĩnh vực cụ thể. Các quan sát hành vi được sử dụng để lấy mẫu xem một hành vi quan tâm cụ thể có xảy ra hay không, tần suất xảy ra với nó và bối cảnh hoặc tiền đề có thể liên quan đến nó. Các quan sát hành vi thường được thiết kế bởi các nhà lâm sàng và bao gồm danh sách kiểm tra hoặc biểu mẫu đánh giá được sử dụng để kiểm tra hoặc đếm các hành vi cụ thể. Bảng dưới đưa ra một ví dụ về hình thức quan sát hành vi có thể được sử dụng để kiểm tra năng lực giao tiếp ở một đứa trẻ bị nghi ngờ rối loạn ngôn ngữ. Hình thức này được chuyển thể từ một hình thức được phát triển bởi Erickson (1987).

I. Kỹ năng diễn thuyết
Bắt đầu một cuộc trò chuyện
Thể hiện hành vi lắng nghe
Phản hồi với bình luận thích hợp
Ngắt phù hợp
Tiếp tục về chủ đề
Thể hiện mức độ liên quan của chủ đề
Sử dụng độ dài phản hồi thích hợp
II. Hành vi lời nói và chức năng giao tiếp
Gắn nhãn mọi thứ hoặc hành động
Yêu cầu đồ vật hoặc hành động
Quan sát đồ vật hoặc hành động
Yêu cầu thay đổi
Cung cấp thông tin
Yêu cầu sự cho phép
Yêu cầu lời hứa
Đồng ý
Đe dọa hoặc cảnh báo
Xin lỗi
Phản đối, tranh luận hoặc không đồng ý
Thể hiện sự hài hước, trêu chọc
Sử dụng lời chào
Một bảng phân tích các kỹ năng giao tiếp. Nguồn (Phỏng theo Erickson, J. [1987]. Phân tích năng lực giao tiếp. Trong L. Cole, V. Deal, & V. Rodriguez [Eds.], Rối loạn giao tiếp ở cộng đồng đa văn hóa. Rockville, MD: American Speech Language Listening Association .)

Khía cạnh quan trọng nhất của quan sát hành vi là xác định cẩn thận một hành vi hoặc những hành vi mà chúng ta muốn quan sát. Điều này có nghĩa là chúng ta phải nhắm mục tiêu các khu vực để quan sát hành vi trước khi bắt đầu đánh giá bằng cách xác định khía cạnh nào trong giao tiếp của khách hàng sẽ khó đánh giá thông qua bất kỳ phương pháp nào khác . Mặc dù các quy trình được tiêu chuẩn hóa và tham chiếu theo tiêu chí rất hữu ích để xem xét các hành vi ngôn ngữ mà trong đó có các chuẩn mực hoặc dữ liệu so sánh được thiết lập tốt, các quan sát hành vi phù hợp với những hành vi mà dữ liệu ít chuẩn mực hơn tồn tại, mà phải đưa ra các phán đoán hơi chủ quan, hoặc khi việc so sánh tiêu chuẩn thường không được thực hiện. Ví dụ, tính toán độ dài trung bình của câu nói bằng hình vị trong phân tích cấu trúc được tham chiếu theo tiêu chí là một quy trình tương đối khách quan, đơn giản, một quy trình có sẵn một số dữ liệu quy chuẩn. Nếu chúng ta muốn kiểm tra sự phức tạp về cấu trúc trong lời nói của một đứa trẻ, thì tính toán độ dài trung bình của lời nói bằng các hình vị là một cách tiếp cận hợp lý. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta muốn biết tần suất một đứa trẻ trả lời không thích hợp với các câu hỏi, bằng cách sử dụng câu trả lời bằng lời nói hoặc không lời, thay vì cách nói của trẻ phức tạp như thế nào? Ví dụ, câu trả lời cho câu hỏi này có thể quan trọng nếu nó là một phần của lời giới thiệu ban đầu. Trong trường hợp này, một quan sát hành vi có thể được thực hiện, trong đó chúng tôi đặt câu hỏi cho trẻ theo một định dạng tự nhiên, chẳng hạn như để trẻ mô tả cho giám khảo các hình minh họa trong một cuốn sách ảnh và sau đó đếm số lượng câu trả lời phù hợp và không phù hợp. Việc quan sát sẽ cung cấp một số thông tin định lượng về một hành vi giao tiếp và có thể dùng làm cơ sở để đánh giá can thiệp nhằm giảm bớt các phản ứng không phù hợp.

Cân nhắc quan trọng thứ hai khi đưa ra các quan sát hành vi là sử dụng hệ thống ghi chép được thiết kế cho mục đích. Thực hiện quan sát hành vi không có nghĩa là chỉ ngồi và quan sát hành vi của khách hàng. Tài liệu ghi chép có chứa cách thu thập dữ liệu định lượng về hành vi quan tâm phải được sử dụng. Biểu mẫu này có thể cho phép nhà lâm sàng đánh giá tần suất của một hành vi cụ thể, như nêu ở danh mục trong bảng trên, hoặc nó có thể cho phép nhà lâm sàng xếp hạng một hành vi trên hệ thang điểm tạo ra. Biểu mẫu cũng có thể đơn giản là một danh sách kiểm tra trong đó ghi nhận sự tồn tại của một hành vi cụ thể. Ví dụ, danh sách các lỗi cấu âm liên quan đến chứng suy hầu họng có thể dùng như một danh sách kiểm tra. Lời nói tự phát của trẻ cũng có thể được đánh giá về những lỗi loại này. Các lỗi có thể đơn giản được liệt kê trên một tờ giấy và đặt một chấm cho mỗi lỗi nếu nó được nghe thấy trong mẫu. Việc đánh giá như thế này có thể quan trọng nếu chúng ta cần xác định xem liệu đứa trẻ có đang sử dụng lỗi trong cuộc trò chuyện tự nhiên, mà đã được loại bỏ trong các môi trường có cấu trúc bằng cách can thiệp hay không. Điều chính cần nhớ về các quan sát hành vi là chúng ta không bao giờ được biện minh khi thực hiện chúng trừ khi chúng ta biết chính xác những gì chúng ta sẽ tìm kiếm và đã phát triển một biểu mẫu hoặc tài liệu để làm hồ sơ cho việc quan sát. Một tài liệu như vậy không chỉ quan trọng để tổ chức các quan sát của chúng ta, mà còn để đảm bảo rằng một nhà lâm sàng khác có thể dễ dàng quan sát hành vi tương tự theo cách tương tự. Điều này đảm bảo rằng tiến trình trong quá trình của một chương trình can thiệp có thể được lập biểu đồ một cách đáng tin cậy. Hãy nói về một số loại quan sát hành vi cụ thể có thể lấp đầy các “ngách” cụ thể trong đánh giá tổng thể của chúng ta.

Lượng giá động

Tất cả các lượng giá mà chúng ta đã thảo luận cho đến nay thuộc tiêu đề của các thủ tục “tĩnh”. Các lượng giá tĩnh như vậy mô tả mức hiệu suất hiện tại bằng cách giữ mức hỗ trợ theo ngữ cảnh ở mức tối thiểu. Ngược lại, lượng giá động được thiết kế để vận dụng bối cảnh nhằm hỗ trợ thành tích của trẻ để có thể xác định được mức thành tích tối ưu (Olswang & Bain, 1996). Lidz và Pena (2009) mô tả lượng giá động là một định dạng “trước can thiệp-hậu kiểm”, và các điểm tương đồng giữa lượng giá động và phản ứng với các phương pháp can thiệp đã được thảo luận (Griogorenko, 2009; Lidz & Pena, 2009). Trong lượng giá động, nhà lâm sàng tích cực cho trẻ tham gia vào một tình huống học tập cho phép quan sát quá trình học tập của thân chủ và sau đó cố gắng thúc đẩy sự thay đổi. Trẻ em được khuyến khích suy nghĩ sâu sắc trong suốt buổi học và phân tích quá trình học tập của chính mình. Kết quả của một lượng giá động không phải là một điểm số.

Thay vào đó, nó có thể được mô tả bằng ba loại thông tin sau được sử dụng trong lập kế hoạch đánh giá:

• Cách đứa trẻ tiếp cận các nhiệm vụ; các mẫu lỗi và khả năng tự giám sát

• Mức độ mà hành vi của thân chủ có thể thay đổi được để đáp ứng với các biện pháp can thiệp

• Các phong cách và phương pháp can thiệp có tiềm năng lớn nhất để thúc đẩy sự thay đổi

Lượng giá chức năng

Trong phần đầu của chương này, chúng ta đã thảo luận về một khuôn khổ do WHO đưa ra để xem xét không chỉ tình trạng khiếm khuyết của trẻ mà còn xem xét tác động của sự suy giảm đó đối với khả năng tham gia các hoạt động hoặc trải nghiệm của trẻ (Tổ chức Y tế Thế giới, 2001- khung ICF). Đánh giá chức năng được thiết kế để đo lường các tác động đó theo cách có cấu trúc và cũng có thể thu thập thông tin về các yếu tố ngữ cảnh hỗ trợ hoặc cản trở tiến bộ giao tiếp của trẻ . Một số công cụ có sẵn cho cách tiếp cận này, chẳng hạn như Danh sách Kiểm tra Hỗ trợ Giao tiếp (McCarthy và cộng sự, 1998), Hồ sơ Giao tiếp Chức năng Sớm (Jensen, 2012) và Hồ sơ Giao tiếp Chức năng-Đã được sửa đổi (Kleiman, 2003).

Hình thức lượng giá chức năng thứ hai đã được trình bày bởi Campbell (1998). Ông cho rằng chúng ta cần vượt ra ngoài đánh giá truyền thống về sự thay đổi tích cực trong các hành vi giao tiếp cụ thể được đề cập trong chương trình can thiệp. Lượng giá chức năng ở đây đề cập đến việc đánh giá các cách thức mà các hành vi giao tiếp mới được học này làm tăng mức độ tự chủ của thân chủ trong các tình huống thực tế. Để thực hiện lượng giá này, ông chủ trương đánh giá mức độ sử dụng giao tiếp của trẻ trong cuộc sống hàng ngày dựa trên sáu thông số cơ bản. Các thông số này được xác định bằng cách xem xét tóm tắt điều trị của trẻ em trong can thiệp để xác định các mục tiêu chung nhất và kỳ vọng thường xuyên nhất của cha mẹ. Campbell đã phát triển một biểu mẫu, tương tự như biểu mẫu trong Hình 2.15, để cả bác sĩ lâm sàng và phụ huynh điền vào trong các buổi can thiệp đầu tiên và cuối cùng. Sử dụng một hình thức như thế này, có thể xác định rằng không chỉ các hành vi giao tiếp cụ thể đã thay đổi do can thiệp mà còn xác định được những thay đổi này tác động như thế nào đến năng lực giao tiếp nhận thức của trẻ.

Đánh giá chức năng giao tiếp của trẻ em. Nguồn: (Phỏng theo Campbell, T. F. [1998]. Đo lường kết quả chức năng ở trẻ mẫu giáo bị rối loạn giao tiếp thần kinh. Semin Speech Lang, 19 [3], 223-233.)

ASHA cũng đã phát triển một phương pháp đánh giá mức độ thích ứng trong giao tiếp của trẻ với các tình huống thực tế. Được gọi là các thước đo giao tiếp chức năng (FCMs), các thang đánh giá 7 điểm này đánh giá mức độ cải thiện nhận thức trong giao tiếp về các kết quả chức năng rộng (mức 1 là ít chức năng nhất và mức 7 là nhiều chức năng nhất). Trong khi các thang điểm hiện được sử dụng chủ yếu cho mục đích nghiên cứu như là một phần của Hệ thống đo lường kết quả quốc gia (Hiệp hội thính giác-ngôn ngữ Hoa Kỳ, 2011), các nhà lâm sàng được kêu gọi đóng góp vào sự phát triển liên tục của họ bằng cách đăng ký thông qua ASHA (Mullen & Schooling, 2010 ). Với những nghiên cứu và phát triển đầy đủ, những thang đo này cuối cùng có thể được áp dụng vào thực hành lâm sàng nói chung.

Lượng giá dựa trên chương trình giảng dạy

Đánh giá dựa trên chương trình giảng dạy (CBA) thường được sử dụng trong môi trường trường học. Chúng có thể được xây dựng bởi giáo viên, SLP và các chuyên gia khác để phản ánh nội dung của chương trình học. CBA có thể được sử dụng một cách hiệu quả để đánh giá việc sử dụng ngôn ngữ dựa trên chương trình giảng dạy và có thể nhạy cảm hơn trong việc theo dõi sự tiến bộ của học sinh từ các nền tảng đa dạng về văn hóa và ngôn ngữ so với kiểm tra tiêu chuẩn truyền thống (Hosp, Hosp, & Howell, 2007; Losardo, Notari-Syverson, Coleman & Botts, 2008). Bạn có thể nghe thấy các thuật ngữ khác nhau được sử dụng để tham chiếu đến các phương pháp này, bao gồm lượng giá xác thựclượng giá hiệu suất (Damico, 1993), lượng giá giả định hoặc theo lập hồ sơ (Kratcoski, 1998), bởi vì dữ liệu được thu thập về hiệu suất của khách hàng thường bao gồm các sản phẩm khác nhau (ví dụ về tác phẩm đã viết , dự án, mẫu ngôn ngữ, v.v.) được tổ chức thành một danh mục. Các tiêu chí chấm điểm thường được sử dụng để đưa ra đánh giá về mức độ mà hiệu suất thể hiện hành vi hoặc kỹ năng mong muốn (Kennedy, 2007).

Lượng giá hình thành so với tổng kết

Như chúng tôi đã đề cập trước đó trong chương, lượng giá là không thể thiếu đối với công việc của chúng tôi với tư cách là SLP và quá trình kiểm tra giả thuyết với khách hàng của chúng tôi. Chúng tôi cũng lưu ý rằng lượng giá có thể phục vụ nhiều mục đích khác nhau. Có thể hữu ích khi nghĩ các hoạt động lượng giá thuộc hai loại lớn: hình thành và tổng kết. Lượng giá theo hình thành được Norcini và các đồng nghiệp (2011) định nghĩa là “chiếm tỉ lệ nhỏ, thường không chính thức và mang tính cơ hội, và nhằm mục đích kích thích học tập”. Đây là hình thức lượng giá mà chúng tôi sẽ thực hiện trong suốt chương trình can thiệp của mình, cho phép chúng tôi theo dõi sự tiến bộ và cung cấp cho đứa trẻ những phản hồi được thiết kế để tăng khả năng học các mục tiêu nói, ngôn ngữ và giao tiếp. Như vậy, Norcini và các đồng nghiệp (2011) gợi ý rằng lượng giá hình thành hoạt động tốt nhất khi nó (1) được nhúng vào quá trình học tập, (2) cung cấp phản hồi cụ thể dẫn đến thay đổi hành vi rõ ràng, (3) đang diễn ra và (4) là kịp thời. Mặt khác, đánh giá tổng hợp được Norcini và các đồng nghiệp (2011) định nghĩa là “tỉ lệ cao và chủ yếu nhằm đáp ứng nhu cầu về trách nhiệm giải trình” . Đây là loại đánh giá mà chúng ta sẽ thực hiện cho mục đích chẩn đoán, để đo lường hiệu suất cơ bản và sự thay đổi về hiệu suất sau một thời gian can thiệp. Do đó, đánh giá tổng hợp thường đòi hỏi tài liệu đánh giá có cấu trúc hơn hoặc được tiêu chuẩn hóa, và một quy trình quản lý có hệ thống. Mặc dù phản hồi cho trẻ và / hoặc gia đình là mong muốn sau bất kỳ cuộc đánh giá nào, nhưng mục tiêu của phản hồi trong trường hợp này là không ảnh hưởng đến sự thay đổi giao tiếp ngay lập tức, mà là tóm tắt các điểm mạnh và nhu cầu của trẻ cũng như tiến bộ đạt được trong quá trình can thiệp.

Bức tranh về tuổi già dũng mãnh

Trong những năm tới đây, nội dung quan tâm chủ yếu của tôi chắc chắn là về nhận thức của con người trong những năm tháng cuối cùng của cuộc đời. Điều này có thể được coi là một vấn đề được đa ngành hóa, vì không chỉ là nói về một chức năng tâm lý nhận thức, mà còn là thoái hóa thần kinh, lão khoa, rối loạn vận động và tâm thần, và liên quan không chỉ các chăm sóc y tế. Kì vọng của chăm sóc y tế chỉ là một mảng nhỏ của chăm sóc, vì thường thì chúng ta trông mong một “chữa khỏi”. Nhưng sau rất nhiều tiến bộ, hiện y học vẫn còn rất nhiều khoảng trống trong “chữa khỏi” đó. Vì vậy, chúng ta phải chăm sóc, thực hiện vai trò bác sĩ trong một can thiệp đa ngành. Bài dịch sau đây trích từ “Willard and Spackman’s Occupational Therapy”,- “Liệu pháp hoạt động của Willard and Spackman” phiên bản thứ 11, chương 14. Sẽ hơi ngạc nhiên vì chương này thuật lại lời / câu chuyện của một người trong cuộc, hình như không phải nhà chuyên môn. Nhưng nó phản ánh một góc nhìn về chăm sóc lấy bệnh nhân làm trung tâm, trong đó bản thân đối tượng được chăm sóc tham gia tích cực vào quá trình chăm sóc chính mình.

Đặc ân của sự Chăm sóc

DONALD M. MURRAY

Tôi không biết anh ấy là ai, nhưng mỗi buổi sáng và buổi chiều, một người đàn ông đến gặp tôi và anh ấy thật tốt bụng ”. Người phụ nữ đã nói những lời đó là Minnie Mae, người vợ 54 năm của tôi, và tôi đã sống bằng những lời đó trong nhiều tháng kể từ khi bà ấy đi vào chứng mất trí nhớ, vào một buổi chiều thứ Sáu đã nói với cô y tá viện dưỡng lão rằng: “ Không uống nữa. Không thức ăn. Không thuốc. ” Mười bốn năm trước đó, khi bà ấy 72 tuổi, bà đã được khám sức khỏe định kỳ hàng năm. Dường như không có bất ngờ nào trong kỳ kiểm tra này, đã thử thách lòng dũng cảm, óc hài hước và khả năng sống sót của Minnie Mae trong quá khứ. Câu “hum’s, uh-huh’s, mmm’s” bình tĩnh và chuyên nghiệp của bác sĩ trong quá trình kiểm tra đã trấn an chúng tôi. Bác sĩ nghiên cứu các báo cáo trong phòng xét nghiệm — một “mmm” an ủi khác —và mỉm cười, bác sĩ của chúng tôi đi đến cửa phòng khám, quay lại và nói với vợ tôi, “Bạn bị Parkinson,” bước ra hành lang và đóng cửa lại sau lưng.

Đây không phải là câu chuyện về “người già” và những khó khăn và niềm vui toàn thể của tuổi già. Tôi không có lý thuyết. Không có số liệu thống kê. Tôi đã không đọc sách, nghiên cứu, hoặc các bài báo trên tạp chí về lão hóa. Đây chỉ đơn giản là lời kể về sự gần gũi và tình yêu cuối cùng của một cặp đôi đang đối mặt với thử thách của Parkinson, một căn bệnh gây tử vong, kéo dài, không có cách chữa trị. Giống như rất nhiều người trong chúng ta ở độ tuổi tám mươi, Minnie Mae là một bệnh nhân giàu kinh nghiệm. Trước trận ốm cuối cùng này, bà ấy từng bị nhiễm độc máu đe dọa tính mạng với đứa con đầu lòng của chúng tôi, một cuộc tấn công của viêm ruột thừa với ba bệnh nhiễm trùng riêng biệt, một ca cắt tử cung khẩn cấp, 9 – tôi tin là thế – phẫu thuật mắt, và ung thư da và vú.

Chúng tôi không thực sự biết Parkinson là gì, nhưng chúng tôi biết rằng nó không tốt. Dường như có hai loại bệnh nhân cao tuổi: những người lo lắng và dự đoán và nghiên cứu về những gì có thể xảy ra và những người như chúng tôi, những người chỉ đơn giản đối mặt với mỗi “điều bất ngờ” với sự chấp nhận, can đảm và dẻo dai nhất có thể. Chúng ta đi từng bước một trong cuộc sống. Bây giờ chúng tôi có một thử thách mới: Parkinson.

Chúng tôi lái xe ngay lập tức đến bác sĩ tim mạch của tôi, người đã giới thiệu chúng tôi đến bác sĩ thần kinh. Điều đó không giúp được nhiều như chúng tôi hy vọng. Chúng tôi muốn tìm hiểu cách điều trị Parkinson, cách nó có thể tiến triển, nó sẽ ảnh hưởng như thế nào đến cuộc sống hàng ngày và tương lai của chúng tôi. Thay vì câu trả lời, chúng tôi gặp phải cuộc tranh luận về thuật ngữ chuyên môn mà các bác sĩ quan tâm, chứ không phải chúng tôi.

Nhà thần kinh học của chúng tôi đã tiến hành một cuộc tranh luận với chính mình trước mặt chúng tôi. Minnie Mae có thể mắc bệnh “Parkinsonism” hoặc bà ấy cũng có thể mắc chính bệnh Parkinson. Không bao giờ rõ ràng sự khác biệt là gì, và nó có thể ảnh hưởng như thế nào đến cuộc sống của Minnie Mae. Bệnh Parkinsonism hay Parkinson sẽ tiến tới cái chết với một tốc độ khác nhau? Chúng tôi không bao giờ có thể hiểu được sự khác biệt, ngoại trừ chúng tôi được cho biết rằng một loại thuốc huyết áp mà Minnie Mae đã sử dụng trước đây có liên quan đến “bệnh Parkinson” hoặc “bệnh Parkinson” ở khoảng 25% bệnh nhân được kê đơn thuốc đó. Minnie Mae (một người trực tiếp thích các câu trả lời trực tiếp) đã hỏi, “Điều gì đã gây ra bệnh Parkinsonism hoặc Parkinson của tôi, hoặc bất cứ cái gì đó?” Bác sĩ trả lời, “Tôi sẽ chỉ biết khi tôi cắt bộ não của bạn.”

Nhìn lại, chúng tôi có vẻ vô tội và bình tĩnh một cách đáng kể. Thông điệp y học bất thành văn là lão hóa rất khó, nhưng chúng tôi cũng vậy.

Làm ướt quần của bạn?

“Tôi có nhiều bệnh nhân lớn tuổi gặp vấn đề đó.”

Run trở nên tồi tệ hơn?

“Khi bạn già đi, bạn sẽ có bác sĩ.”

Loạng choạng?

“Điều đó xảy ra. Cha tôi là một bộ trưởng, nhưng khi ông già đi, ông đi như hai người cùng đi vậy”.

Cong cổ?

“Viêm khớp. Nó đi kèm với tuổi tác ”.

Bác sĩ thần kinh đã kê đơn cho Sinemet. Minnie Mae đã lấy nó vào bữa trưa và cảm thấy tốt hơn trong vòng một giờ. Chuyên gia có thể là một con cá lạnh, nhưng có một viên thuốc cho bất cứ thứ gì bà ấy biểu hiện. Tính cách của chúng ta, gen của chúng ta và trải nghiệm cá nhân của chúng ta với cái chết và bệnh tật đã dạy chúng ta không tìm kiếm vấn đề. Rắc rối sẽ đến trong thời gian của nó, và chúng tôi sẽ đối mặt trực tiếp với nó. Tôi nghĩ chủ nghĩa khắc kỷ thực dụng này là điển hình của thế hệ Suy thoái và Thế chiến thứ hai của chúng ta, nhưng tôi cũng tin rằng nhiều người trong thế hệ của tôi phát triển chủ nghĩa định mệnh thụ động cùng với niềm tin rằng càng đối mặt với nhiều thách thức và tồn tại, họ càng trở nên mạnh mẽ hơn. Có thể có một cái gì đó cho điều này. Chúng tôi là những người khắc kỷ, tự rèn luyện mình để đối mặt với các vấn đề y tế và làm những gì cần thiết để đối phó với chúng. Chúng tôi không hài lòng với chuyên môn của bác sĩ thần kinh của mình, nhưng những viên thuốc đã có tác dụng. Anh ta phải biết điều gì đó ngay cả khi anh ta không biết làm thế nào để liên hệ với bệnh nhân của mình. Sau đó, anh ấy lên kế hoạch, vì Minnie Mae đang làm rất tốt, sẽ kê một loại thuốc mới mạnh hơn.

Vào thời điểm đó, chúng tôi đã trải qua một sự tình cờ may mắn. Tôi đã được mời đến nói chuyện tại Bệnh viện Beth Israel ở Boston vì chuyên mục Boston Globe của tôi về vấn đề lão hóa. Sau khi tôi nói chuyện, một độc giả đã trao đổi với tôi về chuyên mục và đề cập rằng cô ấy là một bác sĩ thần kinh. Tôi hỏi cô ấy sẽ giới thiệu bác sĩ nào cho một thành viên trong gia đình cô ấy mắc bệnh Parkinson và cô ấy đã giới thiệu chúng tôi đến một bác sĩ tốt bụng, người được gọi là bác sĩ thần kinh giỏi nhất ở Boston. Anh ấy là người lắng nghe và là người giải thích cho chúng tôi biết rằng họ đã thử nghiệm loại thuốc mới mà bác sĩ thần kinh của chúng tôi dự định cho Minnie Mae và rằng bệnh sẽ khiến não của cô ấy bị tổn thương không thể phục hồi. Chúng tôi vẫn là bệnh nhân của anh ấy cho đến khi Minnie Mae không thể thực hiện chuyến đi từ New Hampshire đến Beth Israel nữa.

Khi chúng tôi hỏi anh ấy về tương lai – chúng tôi tự hào là những người theo chủ nghĩa hiện thực – anh ấy giải thích rằng mỗi trường hợp rất khác nhau nên không có cách nào để dự đoán tương lai. Hơn nữa, anh ấy nói với chúng tôi rằng chỉ có “điều trị.” Chúng tôi không né tránh chẩn đoán của anh ấy, hỏi Chúa tại sao lại như vậy, tìm kiếm trên Internet những điều kỳ diệu hoặc tham gia một trong những nhóm trị liệu đã giúp được rất nhiều người. Chúng tôi chỉ làm những gì phải làm từng giờ. Tôi đã học được những kỹ năng mới, biết rằng những yêu cầu mới sẽ được đặt ra đối với những kỹ năng đó trong những năm tới.

Chúng tôi học được rằng cách hiệu quả nhất để giúp Minnie Mae đứng dậy sau cú ngã là để tôi đặt chân của mình lên chân cô ấy nhẹ nhàng để giữ cho đôi chân của cô ấy không trượt ra xa, sau đó, nắm lấy tay cô ấy, cố gắng giữ áp lực đều lên mỗi chân. Đôi khi phải mất rất nhiều nỗ lực để giữ được Minnie Mae trên đôi chân của mình. Bà ấy sử dụng câu nói yêu thích của mình, “Đốt lửa và cứu diêm”, [giống như chúng ta nói tiếng Việt là “mặc giày và đi áo”] và nhiều lần chúng tôi ngồi trên sàn nhà cười vì những thất bại vụng về của mình. Và khi không thể đỡ bà ấy dậy, chúng tôi đã kêu gọi sự giúp đỡ từ một người hàng xóm trẻ tuổi.

Chúng tôi đã sống sót bằng sự hài hước của chính mình. “Anh đã từng rất vất vả khi cởi áo ngực của em, bây giờ anh gặp khó khăn khi mặc nó.” Chúng tôi tiếp tục đi ăn miễn là có thể. Chúng tôi thích The Olive Garden với những chiếc ghế trượt của nó. Một ngày nọ, khi lái xe đến nhà hàng, Minnie Mae nói, “Chúng ta nên mang theo một chai rượu.” Khi bà ấy ngày càng đi xa hơn vào miền nhầm lẫn của chứng mất trí nhớ, bà ấy vẫn giữ sự hài hước của mình và tôi giữ lại của tôi. Bà ấy không bao giờ là một “bệnh nhân” mà là người phụ nữ tôi yêu.

Khi căn bệnh này chắc chắn trở nên tồi tệ hơn, chúng tôi nhận ra rằng vùng địa lý của chúng tôi đã thay đổi. Chúng tôi tránh cầu thang không có lan can, vỉa hè dốc, bề mặt cỏ và cát không bằng phẳng, và gió có thể đẩy Minnie Mae sang một bên. Tôi vẫn nói với những người tôi đi cùng, hãy coi chừng lề đường.

Ngày tháng trôi qua, như một nhà thơ đã nói, giống như một guồng nước khổng lồ từ từ lật đổ, hết xô này đến xô khác. Tôi chưa bao giờ đặt câu hỏi về nghĩa vụ của mình, và cảm giác đó không phải là nghĩa vụ. Đó là một giai đoạn khác trong cuộc đời của chúng tôi. Những nhiệm vụ khó khăn nhất — tai nạn bàng quang và ruột, lộn, ngã, khiến Minnie Mae phải uống thuốc — đã trở thành những mối quan hệ thân thiết hơn nữa trong cuộc sống lâu dài của chúng tôi.

Tôi đã cố gắng giữ cho cuộc sống của Minnie Mae bình thường nhất có thể. Một người bạn của tôi với ý định tốt đã đảm nhận tất cả các công việc nấu nướng, mua sắm và dọn dẹp. Anh ấy quan tâm — quá quan tâm. Minnie Mae mất hết mục đích sống. Bà ấy không được cần đến, và sức khỏe tinh thần của bà ấy bị ảnh hưởng.

Tôi đã giúp Minnie Mae mua sắm, nhưng cô ấy phụ trách. Trong nhiều năm, bà ấy lướt nhanh giữa các lối đi trong siêu thị với sự hỗ trợ của một chiếc xe đẩy hàng tạp hóa. Bà ấy là một đầu bếp giỏi, nhưng bữa ăn của bà ấy dần trở nên bình thường rồi đến tệ. Bà ấy biết điều đó, nhưng điều quan trọng là bà vẫn đảm đương việc bếp núc. Đi ăn bên ngoài cho phép bà ấy nhìn thấy những con người khác nhau và vùng nông thôn New Hampshire xinh đẹp. Trong một thời gian dài, Minnie Mae vẫn có thể mua sắm tạp hóa và tham dự các trận đấu khúc côn cầu của UNH, ồn ào chỉ đạo từ khán đài lâu hơn tôi nghĩ. Và cô ấy sẽ chống gậy lảo đảo băng qua bãi cỏ, cố gắng làm việc trong khu vườn thân yêu của mình.

Tất cả thời gian đó, tôi tiếp tục viết chuyên mục, sách và thơ của mình. Tôi cần phải đánh mất bản thân trong việc luyện tập kỹ năng và sự tập trung cao độ của nó. Tiểu thuyết gia Bernard Malamud giải thích, “Nếu trong cuốn sách là mùa đông, thì mùa xuân làm tôi ngạc nhiên, khi tôi nhìn lên.”

Thật bi thảm khi thấy thế giới của Minnie Mae nhỏ lại, nhưng cả hai chúng tôi đều không tập trung vào quá khứ. Chúng tôi tập trung vào những gì chúng tôi có thể làm bây giờ — sáng nay, chiều nay, tối nay. Các con gái của tôi và tôi đã cố gắng coi Minnie Mae là người phụ nữ hiếu chiến với tính hài hước khô khan mà cô ấy luôn có.

Nhiều người cao tuổi từ chối cho phép sự giúp đỡ trong nhà của họ khi họ cần. Đó là một sai lầm. Chúng tôi may mắn có Dot Benson, người đến hai hoặc ba lần một tuần. Cô ấy tiếp tục là người phụ nữ dọn dẹp của chúng tôi, nhưng khi bệnh Parkinson ngày càng gia tăng, thì những đóng góp của Dot vào chất lượng cuộc sống của chúng tôi cũng gia tăng như vậy. Cô ấy trở thành bạn bè hơn là nhân viên. Cô ấy đã tiếp nhận những công việc mà Minnie Mae không thể làm được nữa và tôi cũng không có thời gian để làm nếu tôi tiếp tục là một nhà văn. Cô cũng là một nhà trị liệu, mang thế giới đến với Minnie Mae, nơi mà chân trời của cô ngày càng gần hơn. Cô ấy đã cho mỗi chúng tôi sự hỗ trợ về vật chất và tinh thần mà chúng tôi cần. Khi một cặp vợ chồng mà cô ấy đang chăm sóc qua đời, con gái, là nhân viên xã hội tâm thần, của tôi nói, “Hãy nắm lấy cô ấy. Ngay lập tức. Hãy có được những giờ đó.” Tôi đã chống lại, giờ tôi đã nhận ra, bởi vì tôi không muốn thừa nhận rằng Minnie Mae đang trong giai đoạn đầu của cái chết. Chúng tôi cần Dot và tôi biết ơn về mệnh lệnh của con gái tôi.

Khi Minnie Mae ngày càng cần được chăm sóc nhiều hơn, một cô con gái, với ý định tốt, đã thuê một nhóm người chăm sóc bổ sung. Điều đó không hoạt động. Họ không đến đúng giờ hoặc đến trước thời gian, họ mang theo thức ăn mà chúng tôi không cần hoặc thích, họ yêu cầu ứng trước tiền lương mà họ không trả lại, và tệ nhất là họ đã nói chuyện với Minnie Mae trong như thể bà ấy ngu ngốc. Dot Benson thì ngược lại về mọi mặt, và chúng tôi đã tăng giờ làm việc của cô ấy khi cô rảnh và sau đó xếp cô ấy vào danh sách trả lương lâu dài. Tôi 80 tuổi khi Minnie Mae qua đời. Dot tiếp tục giúp đỡ tôi bằng cách tiếp quản sổ sách kế toán của tôi và bằng cách cung cấp sự trợ giúp dùng máy tính. Mỗi lần cô ấy xuất hiện đều tỏ ra hài hước. Không vui vẻ, không nói chuyện trẻ con, chỉ là một mô hình cơ bản về cách sống một cuộc sống với sự chấp nhận và tận dụng tối đa thời gian mỗi ngày. Tôi không thể tưởng tượng được cuộc sống của mình trước và sau cái chết của Minnie Mae mà không có sự giúp đỡ của cô ấy.

Những năm chăm sóc trở nên bình thường và được tăng tốc cùng một lúc. Tôi không thoải mái với các yêu cầu thuật ngữ. Không có đòi hỏi, chỉ là nhu cầu ngày càng tăng về sự gần gũi và chia sẻ. Trong trường hợp của tôi, thời gian tôi tham gia chiến đấu với tư cách là một người lính dù đã giúp ích rất nhiều. Ở phía trước, bạn làm những gì cần phải làm, không thắc mắc, không trốn tránh, không bào chữa. Những lời khen ngợi của bạn bè và hàng xóm, những người đã nói rằng tôi thật tuyệt vời và khiến tôi bối rối và bối rối. Tôi đã không tuyệt vời. Tôi yêu Minnie Mae, đơn giản vậy thôi. Chúng tôi đã sống tốt hơn, và với cái chết của con gái chúng tôi vào năm 1977, chúng tôi đã sống sót tồi tệ hơn. Ai khác nên chăm sóc bà ấy ngoài người đàn ông đã gặp bà ấy khi bà ấy là một người … cho cuộc hẹn hò 54 năm trước?

Tôi may mắn được nghỉ tại Đại học và có thời gian chăm sóc bà ấy khi tôi tiếp tục viết ở nhà. Chăm sóc người bị Parkinson và rất nhiều bệnh mãn tính khác chỉ là những công việc nhỏ — giao thuốc đúng giờ, thay quần áo, đến bác sĩ — tích lũy chậm đến mức bạn khó nhận thấy sự gia tăng của chúng. Chúng tôi đã phải phát triển các thủ thuật của riêng mình cho giao dịch chăm sóc mới không có kế hoạch này: làm thế nào chúng tôi có thể chống chân vào nhau để tôi có thể nâng bà ấy một cách hiệu quả và không đau sau những cú ngã không thể tránh khỏi, cách một bàn tay nhẹ nhàng kê dưới nách (phát triển từ một người không quá nhẹ nhàng giữ Tôi đã học như một cảnh sát quân sự) có thể nói với Minnie Mae rằng tôi đang ở đó, sẵn sàng giúp đỡ nếu bà ấy cần, làm thế nào tôi có thể thức dậy trong đêm và xem chăn đắp của bà ấy để tôi có thể biết bà ấy còn thở hay không.

Tất nhiên, chúng tôi đều là bệnh nhân. Bà ấy phải học cách bảo vệ cách tiếp cận cuộc sống hung hăng và dũng mãnh của mình. Tôi đã phải điều chỉnh tính cách Loại A của mình thành C trong khi chăm sóc cho một người đang sống chậm chạp. Tôi phải học cách không xâm phạm lãnh thổ của bà ấy và, ví dụ, đảm nhận công việc nấu nướng từ rất sớm. Nó dần trở nên khó khăn hơn đối với bà ấy, nhưng nấu ăn là niềm tự hào của Minnie Mae. Tôi không thể tước đi bà ấy. Chúng tôi phải khám phá cách làm thế nào để bình tĩnh hoặc duy trì lẫn nhau trong những khoảnh khắc kinh hoàng hoặc tuyệt vọng. Khi sự hài hước hoặc một “Luật và trật tự” khác không chạy lại được, thì một chuyến đi mua một món kem đã thành công. Kem gừng là phương pháp điều trị tốt nhất. Minnie Mae từ chối lo lắng về việc khuyết tật rõ ràng hơn của bà ấy có thể làm phiền mọi người như thế nào, và chúng tôi đã ăn rất nhiều. Tôi nên nói thêm rằng tất cả mọi người, nhân viên phục vụ và các khách hàng khác, đều tôn trọng bà ấy, lòng tốt, sự hài hước và giúp đỡ khi cần thiết.

Tôi đã phải chịu đựng nhiều căng thẳng hơn những gì tôi cảm thấy hoặc thừa nhận. Tôi đã làm những gì cần phải làm, nhưng khi các con gái, bạn thân và bác sĩ thúc giục tôi chăm sóc bản thân, tôi đã từ chối lời khuyên của họ. Tôi đã bị nhồi máu cơ tim nhiều năm trước đó, và khi tôi cảm thấy một số triệu chứng về tim, tôi đã đến gặp bác sĩ tim mạch, bác sĩ đã khám cho tôi và nói rằng ông ấy sẽ gặp tôi sau ba tháng. Các triệu chứng vẫn tiếp diễn, vì vậy vài ngày sau, tôi sắp xếp để Dot ở với Minnie Mae và gọi 911 lúc ba giờ sáng. Vài giờ sau khi tôi đến bệnh viện với ánh đèn nhấp nháy, tôi có một bác sĩ tim mạch mới, và ngày hôm sau tôi được đặt sáu stent vào các động mạch gần tim. Chắc hẳn đã có nhiều căng thẳng hơn tôi nhận ra.

Tôi ngạc nhiên khi thấy mình nhớ công việc chăm sóc, bây giờ nó đã kết thúc, trong khi tận hưởng quyền tự do đi dạo trong một cửa hàng sách hoặc phát nhạc của tôi ở âm lượng cao nhất. Theo một cách nào đó mà tôi vẫn chưa thể hiểu được, sự thân mật gợi tình trong những năm đầu tiên của chúng tôi dường như đã tràn vào sự thân thiết khi giúp Minnie Mae mặc quần áo và cởi quần áo. Không có gì chúng tôi không biết về nhau và không có khoảnh khắc nào mà chúng tôi không có mặt đối phương. Công việc của tôi là giữ cho Minnie Mae không cảm thấy xấu hổ hay sợ hãi khi cơ thể của bà ấy phản bội bà ấy. Đó là những gì bà ấy cũng sẽ làm cho tôi.

Cảnh quan hùng vĩ của Parkinson thật đáng sợ. Nhưng những công việc hàng ngày trở nên thiết yếu khi chúng tôi đi du lịch trong phong cảnh này đã trở nên thân thiết và thích hợp. Đây không phải là những năm hy vọng. Có những loại thuốc có thể làm chậm bệnh Parkinson, nhưng không có cách nào chữa khỏi. Chúng tôi phải chấp nhận thực tế, nhưng điều đó không khiến nó trở thành những năm tháng tăm tối. Khi Minnie Mae bắt đầu gọi cây gậy của cô ấy là thang, chúng tôi đã cười. Không bận tâm. Tôi không sửa lại lời bà ấy mà chỉ mang theo cây gậy. Bây giờ tôi nhận ra rằng chứng mất trí nhớ đã đến từ rất lâu trước khi chúng tôi thừa nhận nó. Điều này không phải là phủ nhận mà chỉ đơn giản là chúng tôi tiếp tục thích nghi với ngôn ngữ khi chúng tôi đã điều chỉnh những nỗ lực đầu tiên của con gái mình để nói mà chỉ chúng tôi mới có thể hiểu được. Tôi đã mong chờ một nỗi kinh hoàng khôn lường khi thấy bộ não của một người phụ nữ thông minh, nhanh chóng, cố chấp như vậy thay đổi. Tất nhiên, đó là điều mà cả hai chúng tôi đều sợ nhất, nhưng hoàn toàn không phải như vậy.

Có rất nhiều cuộc hôn nhân trong một cuộc hôn nhân kéo dài: không có con, ba con, chuyển đến các thành phố và tiểu bang mới, thăng chức và sa thải, chấp nhận và từ chối bản thảo, con cái ra đi, nghỉ hưu, và bây giờ là bệnh Parkinson. Cuối cùng, bác sĩ thần kinh của Minnie Mae đề nghị rằng cô ấy nên đi khám tại một cơ sở tâm thần và lão khoa ở một bệnh viện gần đó. Ngay sau khi chúng tôi đến và tôi nhìn thấy Minnie Mae cùng với chín bệnh nhân khác, tôi biết rằng chúng tôi đã bước vào một lãnh thổ mới một thời gian trước đó. Vài phút sau khi bác sĩ trưởng  khoa tâm thần bắt đầu cuộc kiểm tra kéo dài, ông ấy quay sang tôi và nói rằng tôi phải làm giấy ủy quyền của mình. Đó là một khoảnh khắc ớn lạnh. Sau nhiều ngày kiểm tra, rõ ràng là bà ấy sẽ không về nhà. Nỗi sợ hãi của tất cả chúng ta về việc kết thúc những ngày phải sống trong viện dưỡng lão đã trở thành sự thật đối với bà ấy. Họ gửi bà ấy đến một viện dưỡng lão kết nối với bệnh viện, tồi tệ như bất kỳ bệnh viện nào mà tôi từng thấy. Tôi đã ở bên cạnh Minnie Mae vào ngày đầu tiên khi cô ấy bị trói trên ghế trong khi hai y tá cãi nhau trước mặt chúng tôi. Cô ấy nói, “Đưa em ra khỏi đây.” Tôi trả lời, “Chúng ta chắc chắn sẽ.”

Dot và tôi chạy từ cơ sở này sang cơ sở khác trong một ngày rưỡi. Rõ ràng, chúng tôi nên đến thăm nhiều nơi trong số họ hơn từ sớm, nhưng chính sách “từng bước một” khiến chúng tôi không nhìn quá xa về phía trước. Có lẽ chúng tôi đã đúng. Parkinson thay đổi cơ bản giữa các bệnh nhân, và cả bác sĩ lẫn chúng tôi đều không thể đoán trước được sự chăm sóc mà bà ấy sẽ cần. May mắn thay, chúng tôi tìm thấy một cơ sở sinh hoạt có hỗ trợ nhỏ — tối đa 32 bệnh nhân — cách nhà của chúng tôi bảy dặm. Minnie Mae đã nói rằng bà ấy sẽ tự sát trước khi vào viện dưỡng lão, nhưng bà ấy đã chuyển đến mà không hề phàn nàn. Bà ấy dường như, bất chấp chứng mất trí nhớ, biết rằng bà ấy cần được chăm sóc ở mức độ này.

Khi Minnie Mae được nhận vào Kirkwood Corners, một cơ sở hỗ trợ sinh hoạt xuất sắc, một y tá nói với tôi rằng chứng mất trí nhớ của vợ tôi đã tạo ra những tưởng tượng hấp dẫn. Cô cho biết Minnie Mae đã nói với y tá rằng bà là một trong những người đầu tiên làm việc trong Lầu Năm Góc, rằng bà đã chuyển tin nhắn từ Bộ trưởng Chiến tranh George Marshall tới Tướng Walter Bedell Smith ở London, người sau đó nói với Tướng Dwight D. Eisenhower. phải làm gì. Vợ tôi nói thêm rằng bà ấy là một giọng nữ cao chuyên nghiệp đã từng solo ở Washington, D.C. và Boston. Bà ấy nói rằng bà ấy có Q Clearance, trạng thái bảo mật cao nhất có thể. Bà ấy nói thêm rằng bà ấy có thể mất tư cách đó, vì bà ấy, theo hãng tin AP, là người đầu tiên trong nước kêu gọi mọi người bên lề đường ký vào bản kiến ​​nghị kêu gọi luận tội Tổng thống Richard Nixon.

Tôi nói với y tá rằng tất cả đều là sự thật, không phải sản phẩm của chứng mất trí. Các nhân viên đã biết đến bà ấy như một người phụ nữ thành đạt chứ không chỉ là một bệnh nhân. “Em không biết tại sao những người này lại đối xử tốt với em như vậy,” vợ tôi nói, người đã hứa sẽ tự sát nếu phải vào viện dưỡng lão. Các nhân viên tại Kirkwood Corners đối xử với tất cả các bệnh nhân của họ một cách tôn trọng, nhưng Minnie Mae cảm thấy cô ấy được quan tâm đặc biệt. Có thể hiểu rằng, nhiều bác sĩ tận tâm, y tá, nhà trị liệu, phụ tá và những người được ban phước từ trại tế bần tập trung vào bệnh nhân. Việc chăm sóc rất gắt gao và liên tục. Họ là những bệnh nhân, đàn ông và phụ nữ, những người mắc bệnh mãn tính và giai đoạn cuối cần được chăm sóc và yêu thương. Các nhân viên của Kirkwood Corners nhận ra rằng bệnh nhân nhìn nhận bản thân không nhiều nhưng họ là người như thế nào: nhân viên chính phủ, quân nhân, cha mẹ và ông bà, luật sư, thợ làm bánh, thư ký, giám đốc điều hành công ty, người làm vườn, nhà nghiên cứu, người đánh bạc, giáo viên, nhân viên bán hàng.

Nếu những người điều trị cho người cao tuổi hiểu được thế giới mà họ đã làm việc hiệu quả thì sẽ dễ dàng tôn trọng và tất cả các phương pháp điều trị được đưa ra trong bối cảnh toàn bộ cuộc sống của họ. Trong cuộc phẫu thuật đặt stent, tôi được xem như một người lính dù chiến đấu đã quen với những cơn đau. Nó đã giúp tôi quay trở lại, cùng với các nhân viên, với một cuộc sống khác.

Cha của Minnie Mae từng là một thợ làm bánh và khi bà ấy mở một tiệm bánh mì tưởng tượng ở tầng hầm của Kirkwood Corners, người đầu bếp đã thảo luận về các công thức nấu ăn như thể công việc kinh doanh thực sự tồn tại. Các nhân viên chăm sóc bầy chó dâu tưởng tượng của Minnie Mae. Nhân viên văn phòng đã giúp sắp xếp lịch trình các chuyến bay khi bà phải bay đến London trong một nhiệm vụ bí mật cho CIA. Họ đối xử với bà ấy như thể bà ấy có Q Clearing. Minnie Mae rõ ràng là hạnh phúc hơn khi ở nhà. Bà ấy được chăm sóc tốt hơn những gì chúng tôi có thể cung cấp, và bà ấy không bị cô lập như khi ở nhà. Bà ấy sẽ xem cuộc diễu hành hàng ngày của nhân viên, cư dân và du khách với một số hiểu biết và rất nhiều niềm vui.

Và tôi cảm thấy thế nào khi đến thăm bà ấy hai lần một ngày? Tôi gạt bức tranh lớn hơn sang một bên, như khi tôi tham gia chiến đấu, và tập trung hoàn toàn vào người phụ nữ tôi yêu. Bà ấy ngày càng ít nhận ra tôi, nhưng khi tôi nắm tay bà ấy, bà ấy sẽ siết chặt và đột ngột, và tôi biết rằng đâu đó trong bộ não đông đặc của bà ấy là câu “Em yêu anh”.

Tôi đã học được gì từ những năm có tăng cường chăm sóc? Có thể có nhiều sự thân mật, quan tâm và yêu thương đến cuối đời bên nhau như khi chúng ta lần đầu tiên khám phá nhau và cùng nhau trưởng thành, có lẽ còn hơn thế nữa. Một cặp vợ chồng già đang phải đối mặt với một cuộc đấu tranh lâu dài mà không mắc bệnh nan y cần được giải thích cặn kẽ và bình tĩnh về bệnh tật. Họ không cần trốn tránh. Họ đã sống một cuộc sống lâu dài với nhau và chúng ta thường cứng rắn hơn họ — hoặc bạn — nghĩ. Sự thật dù có khó đến đâu cũng tốt hơn là sự tưởng tượng của bệnh nhân và những lời đàm tiếu về căn bệnh của bạn bè liên quan. Tôi đã học được gì nữa?

◆ Đừng kéo mạnh. Minnie Mae bị nhiều người qua đường quan tâm kéo và kéo lên sau khi ngã một cách đau đớn. Tôi đã học cách cho phép bà ấy làm tất cả những gì bà ấy có thể và sau đó ở gần để giúp đỡ nếu bà ấy cần: tay vừa chạm vào nách bà ấy, nói với bà ấy rằng sự giúp đỡ đã sẵn sàng — nếu BÀ cần.

◆ Chia sẻ một số phần của bản thân. Minnie Mae rất vui khi nghe những câu chuyện về con, cháu và những chú chó.

◆ Không sửa lời nói một người nào đó bị chứng sa sút trí tuệ, “Điều đó không xảy ra ở Atlanta mà là ở Utica.” Họ không thể chịu được, và điều đó có gì khác biệt?

Những người trong chúng ta, những người tự nhận mình là người chăm sóc sẽ phát hiện ra rằng chúng ta có những điểm mạnh và kỹ năng mà chúng ta không nhận thức được. Những gì tôi đã làm và mọi người chăm sóc khác làm không phải vì nghĩa vụ, trách nhiệm, nghĩa vụ mà hơn hết là tình yêu thương.

Đột nhiên vào một buổi chiều thứ Sáu, chứng mất trí nhớ của Minnie Mae thuyên giảm, và bà ấy ra lệnh rõ ràng cho nhân viên: “Không uống thuốc. Không thức ăn. Không nước.” Đó là những gì bà ấy muốn, được ghi lại bằng văn bản, và các con gái của tôi cũng như tôi cảm thấy bà ấy có quyền chết theo cách của mình, theo lệnh cho đến cùng. Nhà dưỡng lão và các nhân viên của Kirkwood Corner là những người giàu kinh nghiệm, yêu nghề và chuyên nghiệp. Các con gái của Minnie Mae và tôi đã ở bên bà ấy gần hết 11 ngày khiến cuộc đời bà ấy mất dần đi. Bà ấy đã được đối xử một cách công bằng, và bà ấy không hề đau đớn. Tôi đang nắm tay bà ấy khi bà ấy thở nhanh một hơi cuối cùng rồi biến mất.

SAU CÙNG

Ngày 2 tháng 1 năm 2007 ngay sau khi hoàn thành chương này, Donald M. Murray qua đời khi đang đi thăm bạn bè. Ông là Giáo sư danh dự về tiếng Anh tại Đại học New Hampshire. Ông đã giành được giải thưởng Pulitzer cho bài xã luận vào năm 1954, và viết chuyên mục hàng tuần “Now and Then” cho tờ Boston Globe, khám phá những phản ứng của ông đối với quá trình lão hóa. Ông cũng xuất bản hồi ký, tiểu thuyết, truyện ngắn, thơ và sách giáo khoa về quá trình viết văn. Tôi yêu cầu ông ấy viết chương này vì ông là một giảng viên nổi tiếng của Đại học New Hampshire. Tôi quen với tác phẩm của ông vì tôi đã tham dự một số hội thảo viết lách của ông và biết một số học trò cũ của ông ấy, những người tôn kính những đóng góp của ông ấy cho sự nghiệp giáo dục và sự nghiệp của họ. Trong nhiều năm, tôi đã mua một số cuốn sách về viết văn và hồi ký của ông ấy. Mỗi sáng thứ Ba, tôi đều tìm kiếm chuyên mục của ông, “Now and then,” trên Boston Globe.

Chỉ sau khi ông qua đời, tôi mới biết ông đã ảnh hưởng đến bao nhiêu người thông qua việc giảng dạy, cố vấn và viết lách. Nhiều bức thư gửi cho người biên tập đã trình bày chi tiết mối liên hệ cá nhân mà mọi người cảm thấy với Don và Minnie Mae từ các chuyên mục của ông. Nhiều học trò cũ của ông là biên tập viên báo giấy, nhà văn và giáo viên. Ông đã gửi chuyên mục cuối cùng của mình cho Boston Globe vào ngày 29 tháng 12, chỉ vài ngày trước khi qua đời. Chúng tôi đã in lại nó ở đây vì nó thể hiện phần lớn sự duyên dáng và tính cách của ông.

—ELIZABETH CREPEAU

Rối loạn ngôn ngữ của Rhea Paul- Phần 1/ bài 9-2 (chương 2)

Các thủ tục/ quy trình tham chiếu đến tiêu chí

Các quy trình được thiết lập để kiểm tra một dạng hành vi giao tiếp cụ thể, không liên quan đến thành tích của những đứa trẻ khác mà chỉ để xác định liệu đứa trẻ có thể đạt được một mức thành tích nhất định hay không, được gọi là lượng giá tham chiếu tiêu chí. Những điều này không được thiết kế để xác định xem một đứa trẻ có khác với những đứa trẻ khác hay không. Một khi trẻ bị khiếm khuyết đáng kể, chúng được sử dụng để thiết lập chức năng cơ bản và xác định mục tiêu can thiệp bằng cách tìm ra chính xác những gì trẻ có thể và không thể làm với ngôn ngữ. Các quy trình này cũng là lý tưởng để đánh giá liệu các mục tiêu can thiệp đã được đáp ứng hay chưa. Bằng cách sử dụng các mục tiêu can thiệp làm tiêu chí đánh giá, có thể xác định được liệu các tiêu chí này có được đáp ứng trong cả tình huống có cấu trúc và tự nhiên hay không. Các quy trình này thường do nhà lâm sàng tạo ra để phù hợp với nhu cầu cá nhân của khách hàng, mặc dù một số quy trình tham chiếu tiêu chí có sẵn ở dạng thương mại (ví dụ: Thang Ngôn ngữ Trẻ sơ sinh Rossetti [Rosetti, 2006]). Các quy trình tham chiếu đến tiêu chí có thể không chính thức và mang tính tự nhiên bởi vì, không giống như các bài test tiêu chuẩn, chúng không phải được quản lý theo các quy tắc cứng nhắc. Nhưng một vài quy trình tham chiếu tiêu chí cũng là chính thức và do nhà lâm sàng hướng dẫn. Điều phân biệt các phương pháp tiếp cận dựa trên tiêu chí để đánh giá với các phương pháp khác mà chúng ta đã thảo luận là các quy trình dựa trên tiêu chí cho phép chúng ta xem xét các hành vi giao tiếp cụ thể và cá nhân hóa việc lượng giá cho một đứa trẻ cụ thể. Không giống như các bài lượng giá tiêu chuẩn, chúng không thể được sử dụng để so sánh thành tích của một đứa trẻ cụ thể với các bạn cùng lứa tuổi. Bằng cách này, họ cho phép mình lập kế hoạch khắc phục và đánh giá tiến độ can thiệp một cách hiệu quả nhất. McCauley (1996; 2001) đã thảo luận chi tiết về các đặc điểm và cách sử dụng các quy trình tham chiếu tiêu chí và đưa ra các hướng dẫn để đánh giá chúng. Chúng ta hãy xem xét các loại quy trình tham chiếu tiêu chí có thể được sử dụng cho mỗi trong hai phương thức của ngôn ngữ: hiểu và diễn đạt.

Hiểu

Có một số lý do để phát triển các quy trình tham chiếu tiêu chí để đánh giá mức độ hiểu. Chúng ta đã nói trước về tầm quan trọng của việc xem xét các kỹ năng hiểu không chỉ trong các môi trường chính thức, phi văn bản hóa mà còn trong các tình huống được ngữ cảnh hóa nhiều hơn. Chúng tôi cũng thảo luận về việc xem xét sự khác biệt về hiệu suất giữa hai điều kiện này. Các quy trình dựa trên tiêu chí phù hợp một cách lý tưởng để kiểm tra hiệu suất hiểu được ngữ cảnh hóa và so sánh phản hồi có cùng cấu trúc trong cả điều kiện ngữ cảnh hóa và điều kiện không văn bản hóa. Hãy xem xét một số lưu ý mà chúng ta cần ghi nhớ khi thiết kế các đánh giá mức độ hiểu được tham chiếu theo tiêu chí.

Tránh diễn giải quá mức

Khi chúng ta sử dụng các thủ tục tham chiếu tiêu chí để đánh giá khả năng hiểu, điều quan trọng cần nhớ là chúng ta luôn suy luận điều gì đó về một sự kiện riêng tư và chúng ta không trực tiếp quan sát khả năng hiểu. Điều đó có nghĩa là chúng ta phải hết sức cẩn thận để không diễn giải quá mức những gì chúng ta quan sát được, đặc biệt là trong tình huống được ngữ cảnh hóa. Nếu một đứa trẻ phản ứng một cách thích hợp với một chỉ dẫn chẳng hạn như “Bỏ thìa vào trong cốc”, chúng ta cần nhớ rằng trẻ có khuynh hướng cho những thứ vào đồ đựng, chẳng hạn như cốc. Để biết liệu trẻ có thực sự hiểu giới từ “trong” hay không, chúng ta cần yêu cầu trẻ đưa thìa “vào trong” một chiếc giày hoặc một thứ gì đó mà thông thường ít mong đợi hơn.

Kiểm soát các kích thích ngôn ngữ

Khi xem xét khả năng hiểu ngôn ngữ của một đứa trẻ, chúng ta cần biết chính xác những gì chúng ta đang kiểm tra. Nếu chúng ta muốn xem xét khả năng hiểu của các thuật ngữ không gian đang phát triển sớm, chẳng hạn như giới từ “trong,” “trên” và “dưới”, thì điều quan trọng là phải chắc chắn rằng bất kỳ mục từ vựng nào khác được sử dụng trong câu nói đều được đứa trẻ biết rõ. Ví dụ, chúng ta sẽ không yêu cầu một đứa trẻ 3 tuổi “Đặt thìa vào ngăn bên tay trái”. Khi kiểm tra khả năng hiểu từ vựng, chúng ta cần xác định rằng tất cả các từ khác trong câu nói, ngoài từ được lượng giá, đều quen thuộc. Điều này có thể được thực hiện bằng cách làm thử trước hoặc bằng cách phỏng vấn kỹ càng cha mẹ về những từ mà đứa trẻ biết.

Tương tự như vậy, chúng ta cần kiểm soát độ dài của các câu được sử dụng trong đánh giá mức độ hiểu được tham chiếu theo tiêu chí. Nếu chúng ta biết một đứa trẻ chỉ sử dụng ba đến bốn từ trong các câu của chính mình, tốt hơn chúng ta nên hạn chế các câu được sử dụng trong bài đánh giá ở gần độ dài đó. Hơn nữa, chúng ta cần cẩn thận kiểm tra tất cả các cấu trúc trong các câu có độ dài bằng nhau. Ví dụ, chúng ta không nên kết luận rằng một đứa trẻ gặp khó khăn trong việc hiểu câu bị động nếu chúng ta đưa cho nó “Chiếc xe hơi bị đẩy bởi chiếc xe tải” và “Chiếc xe tải đẩy chiếc xe hơi.” Câu bị động không chỉ phức tạp hơn mà còn dài hơn. Nếu đứa trẻ không hiểu các câu đó, chúng ta không biết liệu độ dài hay độ phức tạp là vấn đề. Điểm chính là khi đưa ra các đánh giá về khả năng hiểu được tham chiếu theo tiêu chí, các kích thích ngôn ngữ cần phải được suy nghĩ rất cẩn thận để đảm bảo rằng chúng ta đang đánh giá những gì chúng ta muốn đánh giá.

Chỉ định một câu trả lời thích hợp

Khi phát triển các lượng giá mức độ hiểu được tham chiếu theo tiêu chí, phản hồi cũng quan trọng như yếu tố kích thích. Như chúng tôi đã nói, chúng tôi luôn suy luận sự hiểu biết hơn là quan sát nó trực tiếp, vì vậy những gì chúng tôi quan sát cần phải được suy nghĩ cẩn thận. Lượng giá mức độ hiểu được tham chiếu theo tiêu chí có thể sử dụng các câu trả lời tự nhiên hoặc giả định. Tuy nhiên, dù bằng cách nào, điều quan trọng là phải xác định rõ phản hồi nào sẽ được coi là thành công để chúng ta hiểu rõ ràng những gì chúng ta đang tìm kiếm trong đánh giá.

Các phản ứng theo chủ nghĩa tự nhiên bao gồm hành vi làm theo yêu cầu/ tuân thủ hành vi và trả lời cho các câu hỏi. Tuân thủ hành vi là một phản ứng thích hợp cần quan sát ở trẻ em có mức độ phát triển dưới 12 tháng tuổi. Nó có thể bao gồm chạm vào, di chuyển, nhặt, chỉ vào hoặc đưa đồ vật và có thể được tập trung vào việc đánh giá các từ đơn (“Đưa cho tôi chiếc giày.” “Đặt nó dưới cái cốc.”); các kiểu câu (“Tôi không muốn cái thìa.”); hoặc dự định hành động lời nói (“Bạn có thể mở hộp không?”). Việc chỉ định một phản ứng tự nhiên không có nghĩa là đánh giá liên quan đến ngôn ngữ được ngữ cảnh hóa. Cả khả năng hiểu được ngữ cảnh hóa và không văn bản hóa đều có thể được kiểm tra ở định dạng này. Trên thực tế, điều khá quan trọng là phải phân biệt giữa hai điều kiện này khi sử dụng phản ứng tự nhiên. Hãy nhớ rằng một đứa trẻ đang trong giai đoạn phát triển có thể tuân theo một yêu cầu được nêu dưới dạng một câu dài và phức tạp, chẳng hạn như “Tại sao con không mở chiếc hộp đẹp này cho con?” Nhưng tuân thủ không nhất thiết có nghĩa là đứa trẻ hiểu được mọi khía cạnh của biểu mẫu. Thay vào đó, trẻ có thể chỉ nhận ra các từ “mở” và “hộp” và tuân theo vì trẻ mong đợi người lớn yêu cầu trẻ làm mọi việc. Trừ khi các biến thể được ngữ cảnh hóa và phi văn bản hóa của một biểu mẫu có sự tương phản, sẽ khó biết liệu một đứa trẻ có tuân thủ chính kích thích ngôn ngữ hay không hoặc với những kỳ vọng bình thường đối với một tình huống tương tác.

1) Trả lời câu hỏi.

Câu trả lời cho các câu hỏi là một phản ứng tự nhiên khác có thể được sử dụng. Thông thường trẻ sẽ không đáng tin cậy trong việc trả lời các câu hỏi cho đến khi chúng đạt đến mức phát triển được 24 tháng tuổi. Các câu trả lời cho các câu hỏi có thể được tính điểm cho độ chính xác về ngữ nghĩa hoặc cú pháp. Độ chính xác về cú pháp chỉ đơn giản là liên quan đến một câu trả lời trong danh mục thích hợp. Nếu bạn hỏi một đứa trẻ quả táo có màu gì và nó nói, “Màu xanh lam”, câu trả lời này phù hợp về mặt cú pháp nhưng không chính xác về mặt ngữ nghĩa. Độ chính xác về ngữ nghĩa liên quan đến một câu trả lời sẽ được coi là chính xác về mặt ý nghĩa theo tiêu chuẩn của người lớn. Thường thì trẻ em có thể trả lời với độ chính xác về mặt cú pháp trước khi chúng hoàn toàn chính xác về mặt ngữ nghĩa.

Các câu hỏi cũng vậy, có thể được trình bày trong các điều kiện được ngữ cảnh hóa, như khi sử dụng các tham chiếu hình ảnh hoặc các câu hỏi liên quan đến các hoạt động quen thuộc hàng ngày. Ngoài ra, các câu hỏi có thể được hỏi ở các hình thức phi văn bản hóa hơn, như với các câu hỏi về các sự kiện được loại bỏ khỏi tình huống trước mắt hoặc về các đối tượng và khái niệm mà đứa trẻ bị hạn chế về kinh nghiệm trực tiếp.

2) Câu trả lời có sẵn.

Các câu trả lời có sẵn giống với các câu trả lời được sử dụng trong test tiêu chuẩn hóa. Câu trả lời phỏng đoán phổ biến nhất cho một bài đánh giá khả năng hiểu là chỉ ra hình ảnh. Trẻ em ở các cấp độ phát triển từ 24 tháng tuổi trở lên thường có thể đáp ứng thành công các nhiệm vụ chỉ hình. Đọc hiểu một từ (“Chỉ vào chiếc giày.”); hiểu các câu (“Chỉ vào, ‘Có nhiều đôi giày.”‘); hoặc khả năng hiểu theo suy luận (“Hình ảnh nào cho thấy điều gì xảy ra tiếp theo trong câu chuyện?”) có thể dễ dàng được lượng giá với định dạng này. Thao tác đối tượng là một phản ứng giả định khác, trong đó trẻ em được yêu cầu làm điều gì đó đối với một tập hợp các đối tượng mà nhà lâm sàng trình bày. Thông thường cần phải có mức độ phát triển từ 20 tháng tuổi trở lên để có phản hồi ở định dạng này. Quy trình thao tác đối tượng có thể được sử dụng để đánh giá mức độ hiểu của các từ (“Tìm chiếc giày.”) Hoặc câu (“Cho tôi xem, ‘Cậu bé được đẩy bởi cô bé.”‘). Chúng cũng có thể được sử dụng để đánh giá sự hiểu biết về khả năng diễn đạt kết nối và khả năng tham khảo bằng cách yêu cầu trẻ diễn tả những gì đã xảy ra trong một câu chuyện hoặc điều gì sẽ xảy ra tiếp theo.

Một câu trả lời giả lập bổ sung có thể được sử dụng trong lượng giá dựa trên tham chiếu tiêu chí là một câu trả lời phù hợp nhất hoặc hợp lý. Những kiểu phản hồi này liên quan đến một số khả năng siêu ngôn ngữ trong đó chúng yêu cầu đứa trẻ đánh giá ngôn ngữ thay vì chỉ sử dụng nó. Do đó, chúng không thích hợp cho trẻ em có trình độ phát triển dưới 5 tuổi. Nhưng đối với trẻ em ở độ tuổi đi học, chúng có thể rất hiệu quả và dễ xây dựng hơn các nhiệm vụ chỉ hình hoặc thao tác đối tượng. Thay vì yêu cầu một bức tranh hoặc một tập hợp các đối tượng để đại diện cho từng khía cạnh của kích thích, các nhiệm vụ phán đoán có thể chỉ bao gồm hai bức tranh mà đứa trẻ sử dụng để đại diện cho đúng hoặc sai, ổn hay ngớ ngẩn, hoặc một số phân đôi khác. Ví dụ, để đánh giá sự hiểu biết về câu bị động, trẻ có thể được đưa cho một bức tranh về một phụ nữ trông bình thường “ổn” và một phụ nữ “ngớ ngẩn” (Hình dưới). Có thể bảo trẻ chỉ vào bức tranh của người phụ nữ sẽ nói từng câu. Sau một số minh chứng về những gì mà mỗi phụ nữ có thể nói (Cô “ổn”: “Một quả táo bị cậu bé ăn.” Cô ngớ ngẩn: “Một cậu bé bị một quả táo ăn.”), Đứa trẻ có thể được yêu cầu đánh giá các câu tiếp theo. Một quy trình tương tự có thể được sử dụng để đánh giá mức độ hiểu của diễn ngôn được kết nối (“Đó là một câu ổn hay một câu ngớ ngẩn?”), Suy luận (“Và sau đó cậu bé ăn bánh. Đó là một kết thúc ổn hay một kết thúc ngớ ngẩn?”), dự định hành động lời nói (“Tôi nói,” Bạn có thể đưa lọ muối không? “và cậu ấy nói,” Có. “Đó là một câu trả lời ổn hay một câu trả lời ngớ ngẩn?”), biến thể phong cách nói (“Cậu ấy nói với giáo viên,” Đưa tôi cây bút chì”. “Câu nói đó có ổn không? “), và các kỹ năng khác.

HÌNH A, ô ngớ ngẩn. B, Cô “ổn”.

Dù chúng ta đưa ra loại phản hồi nào, chúng ta cũng cần phải gợi ra một số lượng thích hợp trong số chúng. Một ưu điểm quan trọng của các quy trình tham chiếu đến tiêu chí so với các bài test tiêu chuẩn hóa là để thiết lập các mục tiêu khắc phục, đó là các bài test tiêu chuẩn hóa thường chỉ có một hoặc hai mục để kiểm tra mỗi cấu trúc. Thật khó để biết liệu kết quả hoạt động của trẻ có phải là kết quả ngẫu nhiên hay không, đặc biệt là ở dạng chỉ hình mà trẻ có thể đúng ngay cả khi trẻ chỉ ngẫu nhiên. Các quy trình tham chiếu đến tiêu chí có thể bao gồm nhiều trường hợp hơn cho mỗi biểu mẫu đang được thử nghiệm. Một nguyên tắc chung là bao gồm ít nhất bốn ví dụ cho mỗi dạng và yêu cầu đứa trẻ làm đúng ba trong bốn mẫu để thành công trên dạng cụ thể đó. Một kỹ thuật khác là sử dụng các cặp câu tương phản (“Một cậu bé ăn một con cá.” “Một con cá ăn một cậu bé.”) Và yêu cầu đứa trẻ thực hiện đúng cả hai yếu tố trong cặp. Cả hai cách tiếp cận này đều có thể giảm thiểu tác động của việc đoán ngẫu nhiên.

Diễn đạt

Có ba cách tiếp cận chính để lượng giá dựa trên tiêu chí đối với ngôn ngữ sản xuất: bắt chước kích thích/ được gợi ý, diễn đạt kích thích/được gợi ý và phân tích cấu trúc. Bởi vì diễn đạt ngôn ngữ cho phép chúng ta quan sát các hiện tượng thực tế mà chúng ta quan tâm, các vấn đề suy luận thông tin từ những gì đứa trẻ làm không quan trọng bằng chúng trong đánh giá khả năng hiểu. Thay vào đó, khó khăn trong việc đánh giá diễn đạt là đảm bảo rằng chúng ta có được một mẫu đại diện về khả năng của đứa trẻ. Đó là lý do tại sao kết hợp ba kỹ thuật này, thay vì chọn trong số chúng, có thể là cách tiếp cận tốt nhất. Hãy nói về từng thứ, và sau đó xem chúng có thể hoạt động cùng nhau như thế nào.

Bắt chước kích thích

Yêu cầu trẻ “nói những gì tôi nói” có lẽ là cách dễ nhất để khơi gợi ngôn ngữ. Chúng ta sử dụng cách tiếp cận này trong can thiệp, cũng như trong lượng giá, để cung cấp một mô hình lời nói mà chúng ta muốn trẻ cố gắng. Sự nguy hiểm của việc bắt chước gây chú ý là nó có thể dẫn đến các loại lỗi khác với trẻ sẽ mắc phải trong cách nói tự phát, và đó là một việc kỳ quặc về mặt thực dụng; hiếm khi trong các cuộc trò chuyện thực tế, chúng ta được yêu cầu lặp lại những gì người khác nói. Điều này đúng với sự bắt chước đặc điểm cú pháp (Merrell & Plante, 1997), âm vị học (Morrison & Shriberg, 1992), và các đặc điểm ngôn ngữ thực dụng (Adams & Lloyd, 2005), trong trường hợp đó, trẻ em có thể thay đổi hình thức bắt chước, không phải vì chúng không thể lặp lại nó mà để làm cho phù hợp thực tế hơn. Ví dụ, nếu được yêu cầu lặp lại “Quả bóng màu đỏ là của tôi”, trẻ có thể nói, “Quả bóng màu đỏ [hoặc thậm chí” Nó “vì” Quả bóng màu đỏ “sẽ là thừa trong ngữ cảnh] là của bạn.” Tương tự, một đứa trẻ có thể lặp lại một câu mà chúng không thể nói ra một cách tự nhiên. Vì tất cả những lý do này, việc bắt chước được khơi gợi có lẽ nên là phương sách cuối cùng của chúng ta như một công cụ lượng giá.

Diễn đạt kích thích

Khi khơi gợi sự diễn đạt, chúng ta đang dụ trẻ nói một điều cụ thể bằng cách thiết lập một bối cảnh trong đó hình thức của mục tiêu sẽ là một nhận xét thích hợp. Thay vì nói cho trẻ biết chính xác những gì cần nói, như chúng ta làm trong việc kích thích sự bắt chước, chúng ta thúc đẩy trẻ để cố gắng khiến trẻ nói những gì chúng ta muốn nghe. Có nhiều cách khác nhau để thúc đẩy đứa trẻ tham gia vào một hoạt động được khơi gợi.

1) Gợi ý theo khuôn mẫu.

Gợi ý theo khuôn mẫu (Lund & Duchan, 1993) liên quan đến việc lập mô hình một tập hợp các sản phẩm lời nói tương tự và sau đó yêu cầu trẻ tạo ra một lời nói mới, tương tự. Ví dụ, nhà lâm sàng có thể nói, “Bạn ăn bằng nĩa; bạn đào bằng xẻng; bạn viết bằng?” Những gợi ý theo khuôn mẫu cũng có thể liên quan đến búp bê hoặc con rối (Paul, 1992). Ví dụ, nhà lâm sàng có thể nói, “Đây là một con rối cáu kỉnh. Dù chúng ta nói gì, thì anh ta đều nói ngược lại. Nếu tôi nói ‘Nó to’, anh ta sẽ nói ‘Nó nhỏ’. Nếu tôi nói “Nó tốt”, anh ấy sẽ nói, “Nó xấu.” Bây giờ bạn là con rối. Nếu tôi nói, “Nó cũ rồi”, con rối nói gì? “

2) Nhập vai và trò chơi.

Đóng vai là một cách khác để gợi ra những hình thức cụ thể từ một đứa trẻ. Ví dụ, một đứa trẻ có thể được yêu cầu đóng giả làm cha mẹ của một con búp bê nhút nhát. Con búp bê quá nhút nhát để trả lời câu hỏi của bất kỳ ai trừ cha mẹ. Để gợi ý sản xuất câu hỏi, “phụ huynh” của khách hàng được yêu cầu “Hỏi anh ta xem anh ta có thích bánh quy hay không.” Sau đó có thể đánh giá khả năng của trẻ để đưa ra nhiều loại câu hỏi khác nhau. Các trò chơi thuộc nhiều loại khác nhau có thể được sử dụng để tạo ra các sản phẩm cụ thể. Ví dụ, có thể chơi trò chơi “tôi theo dõi” để gợi ý sử dụng các tính từ hoặc mệnh đề tương đối. Trong trò chơi này, mỗi khách hàng và nhà lâm sàng nhìn vào một bức tranh lớn và phức tạp. Trò chơi liên quan đến việc thay phiên nhau, với một người chơi (ban đầu, nhà lâm sàng) mô tả một phần tử của bức tranh và người chơi khác chỉ vào phần tử được mô tả. Nhà làm mẫu theo mẫu mong muốn (“Tôi theo dõi một con khỉ đội mũ vàng.” Hoặc “Tôi theo dõi một con khỉ mà đội mũ vàng.”) Và lưu ý liệu đứa trẻ có thể tạo ra lần lượt hay không.

3) Chuyện kể.

Sự khơi gợi tường thuật đã được chứng minh là một phương tiện nhạy cảm để đánh giá khả năng tạo ra diễn ngôn kết nối của một đứa trẻ (Heilmann, Miller, Nockerts, & Dunaway, 2010) và có thể áp dụng cho trẻ em có nguồn gốc ngôn ngữ đa dạng (Cleave, Girolametto, Chen, & Johnson, 2010). Trẻ có thể được kể một câu chuyện đơn giản từ một cuốn sách tranh và được yêu cầu kể lại câu chuyện đó (xem Justice, Bowles, Pence, & Gosse, 2010, về giao thức và quy trình cho điểm). Một số tác giả đã cảnh báo rằng đánh giá kể lại câu chuyện có thể có giá trị tiên lượng hơn là độ đặc hiệu chẩn đoán (Pankratz, Plante, Vance, & Insalaco, 2007). Sử dụng một quy trình thay thế, một cuốn sách với những bức tranh sống động tự kể một câu chuyện được trao cho đứa trẻ xây dựng câu chuyện từ những bức tranh mà không có mô hình trước (một số cuốn sách tranh không chữ của Mercer Mayer là lý tưởng cho mục đích này). Quy trình cho điểm tiêu chuẩn được mô tả bởi Heilmann và cộng sự (2010).

Phân tích cấu trúc

Phân tích cấu trúc là nỗ lực khám phá các quy tắc trong một mẫu hành vi giao tiếp tự phát. Trong phân tích cấu trúc, chúng ta cố gắng tìm hiểu khả năng giao tiếp mà đứa trẻ tạo ra một cách tự nhiên để tìm ra những cấu trúc, hình thức và chức năng mà đứa trẻ sử dụng và bối cảnh nào ảnh hưởng đến việc sử dụng chúng. Có nhiều định dạng để phân tích cấu trúc của diễn đạt cú pháp (Crystal, Fletcher, & Garman, 1976; Hewitta, Hammer, Yont, & Tomblin, 2005; Lund & Duchan, 1993; McKenna và cộng sự, 2014; Walden, Gordon- Pershey, & Paul, 2014), sản xuất ngữ nghĩa (Condouris, Meyer, & Tager-Flusberg, 2003; Lund & Duchan, 1993), ngữ dụng (Adams, 2002; Bishop và cộng sự, 2000; Lund & Duchan, 1993), và âm vị học (Carson, Klee, Carson, & Hime, 2003; Lund & Duchan, 1993; Morris, 2009; Shriberg & Kwiatkowski, 1980). Một số trong số này được thảo luận trong Heilmann, Miller và Nockerts (2010) và Miller, Andriacchi, và Nockerts (2016).

Phân tích cấu trúc liên quan đến việc gợi ra một mẫu hành vi giao tiếp thể hiện cách mà thân chủ nói chuyện một cách tự nhiên. Vì mẫu đang được thu thập, chúng ta nên ghi lại. Việc ghi lại mẫu cho phép chúng ta có thể kiểm tra nó chi tiết hơn là nếu chúng ta chỉ lấy tất cả thông tin từ nó trong thời gian thực. Các bản ghi video thường được sử dụng vì chất lượng đủ tốt để chỉ tập trung vào lời nói, nhưng cũng có thể được sử dụng khi ngữ cảnh phi ngôn ngữ là cần thiết để giải mã ý nghĩa, khám phá các khía cạnh phi ngôn ngữ của giao tiếp hoặc để quan sát các hành vi khác (ví dụ: , cử chỉ, dấu hiệu, hành vi không bình thường) kèm theo khó khăn về lời nói hoặc ngôn ngữ. Sau đó, mẫu được ghi lại sẽ được sao chép ở bất kỳ mức nào thích hợp cho quá trình phân tích đang được thực hiện. Phân tích ngữ nghĩa và cú pháp yêu cầu phiên âm từng từ của lời nói của khách hàng, có thể bao gồm ngữ cảnh ngôn ngữ của nhận xét từ người nói khác. Phân tích ngữ âm đòi hỏi phiên âm và trong một số trường hợp, cả thông tin về cấp độ ngữ âm. Phân tích thực dụng cần một số thông tin về bối cảnh phi ngôn ngữ và có lẽ về các dấu hiệu ngôn ngữ đi kèm với lời nói. Sau đó, mẫu được phân tích không chỉ để tìm lỗi mà còn để tìm bằng chứng về các mẫu hoặc quy luật có thể được sử dụng để xác định mức độ giao tiếp của trẻ và để mô tả các quy tắc và bối cảnh ảnh hưởng đến diễn.

Tích hợp các phương pháp tiếp cận

Phân tích cấu trúc chắc chắn là cách hợp lý nhất để xem xét ngôn ngữ hữu ích của trẻ, bởi vì chúng ta đang quan sát điều mà chúng ta quan tâm là đánh giá – lời nói tự phát cho các mục đích giao tiếp. Tuy nhiên, một nhược điểm của phương pháp này là đứa trẻ có thể không tự phát tạo ra tất cả các khía cạnh của ngôn ngữ mà chúng ta quan tâm. Khi nói chuyện với một người lớn xa lạ, đối với việc bị test, một đứa trẻ có thể không đưa ra câu hỏi và các dạng âm tính, vì những lý do thực dụng. Nếu những hình thức này chỉ đơn giản là không xuất hiện trong lời nói tự phát, làm sao chúng ta có thể biết được các kỹ năng của trẻ trong các lĩnh vực này? Ưu điểm của lượng giá dựa trên tiêu chí là chúng ta có thể kết hợp các phương pháp tiếp cận nếu cần, để cung cấp cho chúng ta khả năng thu thập được thông tin bổ sung. Một chiến lược để thực hiện lượng giá diễn đạt dựa trên tiêu chí sẽ là thu thập một mẫu thông tin giao tiếp tự phát; ghi lại, phiên âm và phân tích nó; và xác định bất kỳ cấu trúc hoặc chức năng quan tâm nào không xuất hiện trong mẫu. Sau đó, chúng ta có thể sử dụng một quy trình diễn đạt được gợi ý để cố gắng thu được một số bằng chứng về các hình thức này. Nếu đứa trẻ vẫn không “cắn câu”, có thể thử bắt chước trực tiếp.

Rối loạn ngôn ngữ của Rhea Paul- Phần 1/ bài 9-1 (chương 2)

Đây là một phần khó, chính là bởi toán thống kê không phải là lĩnh vực quen thuộc với tất cả chúng ta. Đào tạo y khoa về phần này cũng khá yếu, do tầm quan trọng của nó chưa được nhấn mạnh đúng đắn. Hiện nó chỉ được nhấn mạnh trong môn học Nghiên cứu khoa học, mà như tên gọi, nó khiến các bác sĩ điều trị cho rằng chẳng liên quan gì. Bản thân môn Toán Xác xuất thống kê, do bộ môn Toán đảm nhiệm, bì chìm lấp trong các quan điểm về việc giáo dục phổ thông hiện dạy quá nhiều thứ thừa thãi, như Toán cao cấp chẳng hạn. Trong chương trình lớp 11- 12 của Mĩ, bạn có thể học Toán thống kê như một môn học, mà không cần học các phần toán cao cấp khác. Nhưng khi học ngành Thống kê ở cấp độ Đại học, dĩ nhiên phải học Toán cao cấp.

Mặt khác, việc học các thang đo hiện đang hot và khá đắt, mặc dù nhiều khóa học không thực sự được giảng dạy tốt. Vì vậy, các nhà chuyên môn cần chuẩn bị kiến thức nền tốt thì việc học tập mới hữu ích.

Lựa chọn thước đo: Chúng ta sẽ đánh giá như thế nào?

Có một số phương pháp để kiểm tra chức năng ngôn ngữ: các bài kiểm tra tiêu chuẩn hóa, thang đo phát triển, phỏng vấn và bảng câu hỏi, các thủ tục tham chiếu không chuẩn hoặc dựa trên tiêu chí và quan sát hành vi, bao gồm các thủ tục dựa trên chương trình học và các thủ tục động. Mỗi cái đều có một vị trí trong quá trình lượng giá, mỗi cái hoàn thành một số chức năng nhất định, nhưng mỗi cái cũng có những hạn chế nhất định. Mục đích của nhà lâm sàng là học cách nhận biết dụng cụ phù hợp để thực hiện công việc trong phạm vi chuyên môn.

Các bài test tiêu chuẩn hóa

Các bài test tiêu chuẩn hóa hoặc tham chiếu quy chuẩn là định dạng chính thức nhất, được chia thành các tiểu mục để đánh giá chức năng ngôn ngữ. Chúng được phát triển bằng cách đưa ra một loạt các tiểu mục được thực hiện (lý tưởng là) trên các nhóm lớn trẻ em có sự phát triển ngôn ngữ bình thường và sau đó tính toán phạm vi biến động có thể chấp nhận được về điểm số cho độ tuổi được đề cập trong bài kiểm tra. Lợi thế của các bài test tiêu chuẩn, khi chúng được xây dựng tốt, là chúng cho phép so sánh biểu hiện có ý nghĩa giữa các trẻ (xem Betz, Eickhoff, & Sullivan, 2013; Charman, Hood, & Howlin, 2008; và Pindzola, Plexica, & Haynes, 2016, để thảo luận). Chúng làm như vậy vì (lý tưởng) chúng có các thuộc tính sau:

l. Tiêu chí quản trị và chấm điểm rõ ràng. Điều làm cho một bài test chuẩn hóa trở thành “tiêu chuẩn” là nó luôn được đưa ra theo cùng một cách, bất kể ai sử dụng, và nó luôn được cho điểm theo cùng một cách, bất kể ai chấm điểm hay làm bài. Khi đánh giá một bài test tiêu chuẩn, điều khôn ngoan là đọc các hướng dẫn trong sách hướng dẫn và tự hỏi bản thân xem bạn có hiểu chính xác những gì cần làm khi thực hiện và cho điểm bài kiểm tra hay không. Nếu các câu hỏi trong đầu bạn không thể được giải quyết bằng cách đọc lại cẩn thận hướng dẫn sử dụng, thì các quy trình kiểm tra có thể đã không được trình bày đủ rõ ràng để chứng minh/ hướng dẫn cho việc sử dụng nó.

2. Hợp lệ. Điều này đề cập đến mức độ mà một bài kiểm tra đo lường những gì nó có ý định đo lường. Một bài kiểm tra được coi là hợp lệ/ có hiệu lực nếu sai số hệ thống hoặc độ chệch của nó là nhỏ. Nhiều loại hiệu lực khác nhau có thể được báo cáo. Hiệu lực bề mặt đề cập đến sự phù hợp phổ quát giữa mục đích dự kiến ​​của kiểm tra và nội dung thực tế của nó. Ví dụ, PPVT-IV (Dunn & Dunn, 2007) có hiệu lực bề mặt, bởi vì nó yêu cầu các đối tượng chỉ vào những hình ảnh mà giám khảo nêu tên, điều này dường như là một cách hợp lý để xác định xem một người biết những từ đó có nghĩa là gì. Hiệu lực nội dung liên quan đến việc liệu công cụ có các mục đại diện cho miền nội dung được thử nghiệm lấy mẫu hay không (Friberg, 2010). Điều này thường được đánh giá bằng cách các chuyên gia trong lĩnh vực này đánh giá tổng thể công cụ. Hiệu lực cấu trúc liên quan đến việc liệu công cụ có đo lường cấu trúc lý thuyết mà nó được thiết kế để đo lường. Điều này có thể được đánh giá định tính hoặc định lượng và một lần nữa, thường được thực hiện bằng cách trưng cầu ý kiến ​​chuyên gia (Friberg, 2010). Hiệu lực liên quan đến tiêu chí phân loại, liên quan đến việc liệu công cụ có thể hiện mối tương quan chặt chẽ với các công cụ khác được cho là đo lường cùng một tiêu chí hay không. Có hai loại giá trị liên quan đến tiêu chí: đồng thời và dự đoán. Một bài test có giá trị đồng thời khi cung cấp bằng chứng cho thấy bài kiểm tra đồng ý với các công cụ hợp lệ khác trong việc phân loại trẻ em là bình thường hay bị rối loạn. Một bài test có giá trị dự đoán khi có bằng chứng cho thấy bài kiểm tra này dự đoán trẻ sẽ thực hiện như thế nào sau này đối với một đo lường về nói hoặc ngôn ngữ hợp lệ khác. Những kiểu giá trị này thường được coi là những dạng mà bằng chứng toán học phải được trình bày trong sổ tay hướng dẫn. Các test không báo cáo một số dữ liệu định lượng về tính hiệu lực liên quan đến tiêu chí phân loại thì không được coi là công cụ được xây dựng tốt (Friberg, 2010).

3. Độ tin cậy. Một công cụ đáng tin cậy nếu các phép đo của nó nhất quán và chính xác hoặc gần với giá trị “thực”. Một cách khác để nói điều này là lượng sai số ngẫu nhiên trong phép đo là nhỏ. Độ tin cậy cũng có thể được đánh giá theo một số cách. Độ tin cậy của bài kiểm tra-kiểm tra lại, liên quan đến việc đưa bài kiểm tra vào hai thời điểm khác nhau cho cùng một người và tính toán mối quan hệ của hai điểm số. Các bài kiểm tra đo lường cao trên máy tính này được coi là ổn định. Độ tin cậy giữa các người đánh giá liên quan đến việc có hai giám khảo khác nhau đưa ra một bài kiểm tra cho cùng một người hoặc cho điểm bài kiểm tra của cùng một người. Việc đo điểm cao của thuộc tính này cho thấy rằng một bài kiểm tra không bị ảnh hưởng quá nhiều bởi các đặc điểm của người kiểm tra. Salvia và Ysseldyke (2000) cho rằng cần phải báo cáo cả hai kiểu giá trị này và để một phép thử được coi là đáng tin cậy, cả hai phải vượt quá hệ số tương quan 0,90 với khoảng tin cậy 95%. Độ tin cậy nhất quán nội bộ có nghĩa là các bài kiểm tra phụ của các đối tượng xếp hạng công cụ tương tự nhau hoặc rằng các phần của bài kiểm tra đang đo lường một cái gì đó tương tự với những gì được đo bằng tổng thể. Độ tin cậy của phân nửa, trong đó điểm của nửa đầu của bài kiểm tra được so sánh với điểm ở nửa sau và độ tin cậy chẵn lẻ, trong đó điểm số trên các mục số lẻ được so sánh với điểm số trên các mục số chẵn, là các biến thể của các thước đo tính nhất quán nội bộ. Độ tin cậy của biểu mẫu phổ biến phương trình có nghĩa là hai dạng của một công cụ (chẳng hạn như Dạng A và Dạng B của PPVT-IV; Dunn & Dunn, 2007) đo lường về cơ bản giống nhau.

4. Độ chính xác của chẩn đoán. Dollaghan (2004) đã thảo luận về yêu cầu các bài kiểm tra chứng minh mức độ chính xác mà họ chỉ định khách hàng vào các hạng mục chẩn đoán. Khi một bài kiểm tra hoặc công cụ khác được sử dụng với mục đích quyết định xem trẻ có mắc một chứng rối loạn cụ thể nào hay không, thì các biện pháp chẩn đoán chính xác là rất quan trọng để quyết định mức độ tin cậy của chúng ta về kết quả. Vấn đề này thường được gọi là thực hành lượng giá dựa trên bằng chứng. Các biện pháp báo cáo các thống kê này trong sổ tay của họ cung cấp cho chúng tôi thông tin mà chúng tôi cần để đưa ra quyết định về độ chính xác của chúng.

5. Tiêu chuẩn hóa. Điều này đề cập đến một tập hợp các nghiên cứu được thực hiện để xác định cách công cụ hoạt động trong một tập hợp hoặc mẫu định mức đã biết. Các đặc tính của mẫu định mức là rất quan trọng khi đánh giá một test tiêu chuẩn hóa. Mẫu phải đủ lớn, với đủ các cá thể ở từng độ tuổi được kiểm tra, để cho phép rút ra các kết luận thống kê. Hầu hết các cơ quan có thẩm quyền về xây dựng thử nghiệm (Salvia & Ysseldyke, 2000) đặt tối thiểu 100 đối tượng cho mỗi nhóm tuổi làm giới hạn thấp về cỡ mẫu thích hợp. Mẫu cũng phải đại diện hoặc chứa các cá nhân giống như đối tượng sẽ được làm bài test. Điều này có nghĩa là mẫu chuẩn phải (lý tưởng) phải được lấy từ nhiều hơn một khu vực địa lý, cả hai giới tính và một loạt các nền tảng kinh tế xã hội và dân tộc. Các bài test được tiêu chuẩn hóa chỉ ở một khu vực hoặc trên trẻ em từ một phạm vi hẹp về kinh tế hoặc chủng tộc ít mang tính đại diện hơn. Điều này có nghĩa là chúng chỉ dùng để so sánh công bằng cho những đứa trẻ giống như những đứa trẻ trong mẫu định mức. Pena, Spaulding và Plante (2006) đã thảo luận về tác động của việc đưa không chỉ những trẻ điển hình mà còn cả những trẻ có đầy đủ các khả năng ngôn ngữ vào các mẫu định mức, cho thấy rằng nếu mục đích của việc đánh giá là xác định các khả năng ngôn ngữ bị suy giảm, bao gồm cả trẻ với sự khiếm khuyết về ngôn ngữ trong mẫu định mức có thể làm giảm độ chính xác của nhận dạng. Các nhà lâm sàng nên kiểm tra các test chuẩn hóa một cách cẩn thận, tìm kiếm bằng chứng về kích thước, tính đại diện và thành phần của mẫu chuẩn khi xem xét tính hiệu lực của test được chuẩn hóa.

6. Các thước đo về độ hội tụ và sự biến thiên. Nếu một dân số tham gia bài test đủ lớn, điểm số của những người làm kiểm tra sẽ tạo thành một phân phối chuẩn, hoặc đường cong hình chuông. Đây là một lý do tại sao điều quan trọng đối với các test tiêu chuẩn là phải có các mẫu định mức lớn. Nếu không, phân phối điểm sẽ không nhất thiết gần đúng với đường cong phổ quát và chúng sẽ khó diễn giải hơn. Tuy nhiên, khi sử dụng các bài test chuẩn hóa, chúng ta thường giả định rằng điểm số trong dân số chuẩn được phân phối phổ quát. Khi đúng như vậy, hầu hết các điểm số sẽ gần với mức trung vị hoặc trung bình cộng của điểm cho bài kiểm tra. Đây là điểm số thu được bằng cách cộng tất cả các điểm số và chia cho số người đã làm kiểm tra. Chúng ta càng di chuyển ra xa mức trung bình theo một trong hai hướng, thì càng ít người trong dân số nhận được điểm số đó. Đó là lý do tại sao diện tích bên dưới đường cong hình chuông, đại diện cho phần trăm dân số đạt mỗi điểm, nhỏ hơn khi chúng ta di chuyển ra khỏi trung tâm. Giá trị trung bình là thước đo độ hội tụ- xu hướng trung tâm, hoặc xu hướng của hầu hết các điểm số giảm xuống gần giữa phân phối, thay vì xa hơn về phía đuôi hoặc kết thúc của nó. Nếu chúng ta đưa ra một bài kiểm tra cho 100 trẻ 4 tuổi có chức năng ngôn ngữ bình thường, hầu hết các trẻ sẽ đạt điểm gần bằng điểm trung bình của 100 điểm. Nhưng gần như thế nào là gần, và bao xa thì coi là xa? Việc chỉ biết thước đo xu hướng trung tâm, hoặc điểm trung bình, không cho chúng ta biết khi nào một điểm trở nên thực sự khác với một điểm thông thường. Đó là lý do tại sao chúng ta cũng cần một thước đo về sự thay đổi của điểm số của bài kiểm tra.

Hầu hết các bài kiểm tra tiêu chuẩn báo cáo, ngoài điểm trung bình cho mỗi nhóm tuổi, độ lệch chuẩn (SD). SD thể hiện sự khác biệt trung bình của điểm so với điểm trung bình. Nó cho biết điểm số điển hình giảm bao xa so với điểm trung bình. Trong một đường cong phổ quát, chúng ta kỳ vọng 68% điểm nằm trong khoảng 1 SD ở hai bên của giá trị trung bình cho bài test. Một nửa số điểm này cao hơn mức trung bình và một nửa thấp hơn. Chín mươi sáu phần trăm điểm số nằm trong khoảng 2 SD so với giá trị trung bình. Kết hợp thông tin từ điểm trung bình và điểm SD của một bài kiểm tra cho phép chúng ta đưa ra quyết định về mức điểm số của một đứa trẻ giảm đủ xa so với điểm trung bình, để đảm bảo rằng nó thực sự khác biệt đáng kể so với bình thường.

7. Sai số/phương sai tiêu chuẩn của phép đo. Bất kỳ điểm nào mà chúng ta thu được từ khách hàng trong một bài test thực sự chỉ là ước tính của điểm “thực” của khách hàng đó. Thật không may, chúng ta không bao giờ có thể biết được điểm số thực sự với độ tin cậy 100%, bởi vì bất cứ khi nào chúng ta đo bất kỳ thứ gì trong thế giới thực, luôn có một số sai số đo lường liên quan. Ví dụ, nếu bạn cân chính mình ba lần trong 1 ngày, ngay cả trên cùng một chiếc cân, các số đo sẽ khác nhau một chút. Cái nào trong số đó là cân nặng “thật” của bạn? Nếu bạn giống chúng tôi, bạn sẽ nói là người thấp nhất! Nhưng trên thực tế, không có điều nào là đúng cả. Tất cả chúng đều là ước tính do sai số vốn có đối với hành động đo lường.

Sai số đo lường xảy ra bởi vì hành vi của con người không bao giờ là bất biến. Giả sử bạn làm bài kiểm tra đánh máy. Nếu bạn làm như vậy ba lần, một lần nữa, bạn sẽ nhận được ba điểm hơi khác nhau. Không có điểm thực sự của bạn, nhưng cả ba đều là ước tính của nó. Một thử nghiệm được xây dựng tốt sẽ tính đến sự biến đổi không thể tránh khỏi này của con người bằng cách báo cáo sai số đo lường tiêu chuẩn (SEM). SEM đại diện cho SD có được nếu một người có năng lực trung bình làm bài kiểm tra nhiều lần và phân phối điểm của người đó được vẽ biểu đồ.

Về mặt lý thuyết, chúng sẽ tạo thành một đường cong phân phối chuẩn , với giá trị trung bình là điểm “thực”. Sáu mươi tám phần trăm số lần, điểm quan sát của đối tượng nằm trong khoảng 1 SD hoặc 1 SEM của điểm thực lý thuyết này. Chín mươi sáu phần trăm số lần, điểm số quan sát được nằm trong khoảng 2 SD hoặc 2 SEM của điểm thực này. Trong thực tế, SEM được tính toán từ các hệ số tin cậy được báo cáo cho kiểm tra. Bởi vì trong thực tế, chúng ta không bao giờ có thể biết được điểm số thực sự của một người, chúng ta sử dụng SEM để xác định dải tin cậy hoặc khoảng tin cậy xung quanh điểm số quan sát được. Chúng ta sử dụng khoảng này để ước tính vị trí của điểm thực. Công thức toán học cho ước tính này như sau:

Khoảng tin cậy cho điểm thực= điểm số quan sát ± SEM

Các bài test tiêu chuẩn được xây dựng tốt, cung cấp thông tin về SEM trong sổ tay hướng dẫn của mình, và thảo luận cách sử dụng nó để tính khoảng tin cậy cho điểm thực của một đối tượng. Những bài test này cho phép chúng ta phát biểu với một mức độ tin cậy nhất định rằng, dựa trên điểm số quan sát được, điểm “thực sự” của đối tượng nằm trong một khoảng nhất định. Thông thường, các thử nghiệm cung cấp thông tin SEM cung cấp một biểu đồ trên biểu mẫu thử nghiệm mà trên đó khoảng này có thể được vẽ dưới dạng khoảng tin cậy.

SEM và khoảng tin cậy rất quan trọng, bởi vì chúng nhắc nhở chúng ta rằng điểm của khách hàng thực sự đại diện cho một loạt biểu hiện có thể xảy ra, thay vì một điểm duy nhất. Chúng cũng rất quan trọng để so sánh biểu hiện theo thời gian. Giả sử một khách hàng đạt điểm tiêu chuẩn là 86 trên PPVT-IV. Nếu sách hướng dẫn kiểm tra cho chúng ta biết rằng SEM xung quanh điểm này là 7 điểm, thì với độ tin cậy 90%, hoặc 9 lần trên 10, chúng ta có thể nói rằng điểm thực sự của đối tượng là từ 79 đến 93. Điều gì sẽ xảy ra nếu chúng ta kiểm tra sau một khóa học can thiệp và nhận thấy rằng điểm số của khách hàng tăng lên 92? Sự can thiệp có mang lại lợi ích thực sự không? Chà, nếu chúng ta tính đến SEM, chúng ta không thể thực sự khẳng định rằng can thiệp đã làm được, bởi vì điểm số thứ hai nằm trong khoảng tin cậy cho điểm số đầu tiên. Để thực sự tin rằng tiến bộ đã diễn ra, chúng ta sẽ cần thấy điểm kiểm tra sau đã di chuyển lên trên khoảng tin cậy. Nói chung, do cấu trúc của chúng và khả năng không tránh khỏi của sai số đo lường, các bài test tiêu chuẩn hóa không phải là cách tốt nhất để đo lường sự thay đổi trong một chương trình can thiệp (McCauley & Swisher, 1984), mặc dù chúng có thể được sử dụng nếu có sẵn thông tin SEM. Một số phương pháp tốt hơn để xem xét sự tiến bộ trong can thiệp được thảo luận khi chúng ta nói về các cách tiếp cận khác để lượng giá.

8. Điểm tham chiếu định mức. Điểm thô, số tiểu mục mà khách hàng đã nhận trong một bài kiểm tra tiêu chuẩn, không thể được giải thích nếu không tham chiếu đến các chỉ tiêu được đưa ra trong sổ tay hướng dẫn. Chỉ bằng cách so sánh điểm thô của khách hàng với điểm của các chủ đề khác trong mẫu định mức thì điểm kiểm tra mới có ý nghĩa. Có thể thực hiện ba loại so sánh: điểm tiêu chuẩn, thứ hạng phần trăm và điểm tương đương.

a. So sánh tiêu chuẩn. Những điều này liên quan đến việc so sánh điểm số thô của một đứa trẻ với điểm số của những đứa trẻ trong cùng một quần thể, nghĩa là cùng độ tuổi, tuổi trí tuệ hoặc lớp học. Ưu điểm chính của những điểm số này là chúng đại diện cho các đơn vị bằng nhau trong phạm vi điểm số. Điểm tiêu chuẩn 85 cũng khác với 100 vì điểm tiêu chuẩn 115 là từ 130. Đặc tính này làm cho những điểm này dễ thao tác về mặt thống kê, vì vậy chúng tốt nhất cho mục đích nghiên cứu.

Chúng cũng hữu ích để quyết định xem hai điểm số (chẳng hạn như điểm số trước can thiệp và sau can thiệp) thực sự chênh lệch như thế nào. Có một số kiểu so sánh tiêu chuẩn:

(1) Điểm Z. Điểm Z chỉ đơn giản là số đơn vị SD mà điểm của khách hàng rơi vào điểm trung bình cho dân số đó. Nhắc nhở rằng một đơn vị SD phản ánh độ lệch trung bình so với trung bình trong dân số chuẩn. Trong hình dưới, bạn có thể thấy rằng khoảng 34 % trẻ em làm bài kiểm tra, về mặt lý thuyết, sẽ kiếm được điểm giữa trung bình và 1 SD cao hơn nó, và 34% sẽ nhận được điểm giữa trung bình và 1 SD thấp hơn nó. Vì vậy, về mặt lý thuyết, khoảng 68% dân số sẽ đạt điểm trong vòng 1 SD ở cả hai phía của điểm trung bình hoặc điểm trung bình cho bài kiểm tra. Điểm Z có giá trị trung vị là 0 và SD là 1, do đó, điểm Z là +1 có nghĩa là một đứa trẻ đạt 1 SD cao hơn trung vị đối với dân số tham chiếu của mình. Điểm Z là -2 có nghĩa là điểm số giảm 2 SD xuống dưới trung bình.

(2) Điểm T. Điểm T rất giống điểm Z. Giá trị trung được đặt tùy ý ở 50 và SD là 10. Vì vậy, một khách hàng có điểm T là 35 sẽ thực hiện ở 1,5 SD dưới mức trung bình, tương đương với điểm Z là -1,5.

(3) Điểm tỷ lệ. Thông thường, một bài kiểm tra chỉ định điểm trung bình cho một giá trị cụ thể, chẳng hạn như 100 và SD cho một giá trị, chẳng hạn như 15 điểm. Nhiều bài kiểm tra IQ được xây dựng theo cách này, với điểm tiêu chuẩn là 100 đại diện cho điểm trung bình và 15 điểm đại diện cho SD. Mẫu này của điểm theo tỷ lệ được gọi là tối thiểu được gọi là chỉ số độ lệch IQ hoặc thương số phát triển (DQ). (Nhớ lại rằng chỉ số IQ là viết tắt của “chỉ số thông minh” và được tính bằng cách chia tuổi trí tuệ cho tuổi sinh học và nhân kết quả với 100.) Đó là lý do tại sao một đứa trẻ có độ tuổi trí tuệ bằng với tuổi của nó sẽ có chỉ số IQ hoặc DQ là 100 : nếu tuổi tâm thần [MA] và tuổi sinh học [CA] bằng nhau, thì: MA/CA=1; 1×100= 100

Nhiều bài kiểm tra ngôn ngữ cũng mang lại điểm DQ. Trong một bài kiểm tra với hình thức cho điểm tiêu chuẩn này, điểm từ 85 đến 115 sẽ nằm trong khoảng 1 SD so với trung bình, rõ ràng là trong phạm vi bình thường. Điểm tiêu chuẩn từ 70 đến 84 sẽ giảm hơn 1 nhưng thấp hơn 2 SD dưới trung bình, v.v.

(4) Stanine. Các điểm Stanine, là một cách để dịch lại điểm thô thành thang điểm chín, là điểm số tiêu chuẩn được chuẩn hóa với trung là 5 và SD là 2. Ngoại trừ hai điểm cực trị (1 và 9), mỗi stanine đại diện cho khoảng ½ SD. Stanine 1 và 9 bao gồm tất cả các điểm có từ 1¾ SD trở lên so với trung bình. Stanine thứ năm bao gồm 20% giữa của phân phối. Các ngăn thứ sáu và thứ tư, mỗi ngăn chứa 17% dân số, và cứ tiếp tục như vậy đến ngăn thứ nhất và thứ chín, mỗi ngăn chứa 4 % (xem Hình 2.11). Điểm số Stanine là một cách tốt để tóm tắt thành tích của một đứa trẻ một cách rộng rãi, nhưng chúng có ý nghĩa tốt nhất khi điểm số của đứa trẻ rơi vào gần giữa của mỗi điểm Stanine. Dunn và Dunn (2006) đã thảo luận thêm về các cách sử dụng khác nhau của những điểm số này.

(5) Đường cong thông thường tương đương. Những điểm số này thường được các chương trình giáo dục của tiểu bang Mĩ sử dụng như một phương pháp báo cáo. Tương đương đường cong thông thường (NCE) nằm trong khoảng từ 1 đến 99, với giá trị trung bình là 50 và SD là 21,06. NCE là 1, 50 và 99 tương ứng với các cấp phân vị 1, 50 và 99, nhưng các giá trị NCE khác không xếp thẳng hàng với các cấp phân vị (Williams, 2006).

b. Xếp hạng phần trăm. Xếp hạng phần trăm cho biết tỷ lệ dân số bình thường đạt điểm thấp hơn trong các chủ đề của bài kiểm tra. Điểm trung bình cho một bài kiểm tra phải là điểm ở phân vị thứ 50. Điểm ở phân vị thứ 10 có nghĩa là chỉ có 10% dân số mẫu chuẩn đạt được dưới điểm của khách hàng. Hình dưới cho cách điểm số phân vị phù hợp với các điểm số tiêu chuẩn khác bằng cách chỉ ra cách điểm số phân vị liên quan đến sự phân bố lý thuyết của các điểm số trong một đường cong chuẩn. Điểm xếp hạng phần trăm dễ hiểu và dễ hình dung, và cũng dễ diễn giải, thường rất hữu ích để thảo luận về thành tích của trẻ với cha mẹ và giáo viên. Nhưng chúng không đại diện cho một thang đo khoảng bằng nhau, như các thang điểm số tiêu chuẩn. Như vậy, khoảng cách giữa các cấp- bậc không có lượng bằng nhau.

c. Điểm tương đương. Loại so sánh thứ ba mà một bài kiểm tra tiêu chuẩn hóa có thể thực hiện dựa trên điểm số tương đương. Chúng phân loại điểm số thô theo cấp độ, chẳng hạn như tuổi (điểm tương đương với tuổi) hoặc cấp (điểm tương đương với lớp). Điểm tương đương đại diện cho điểm thô, mà nó là điểm trung vị hoặc điểm ở giữa [trên vạch chia], nghĩa là các đối tượng trong mẫu quy chuẩn đạt được ở độ tuổi hoặc cấp/ lớp nào đó. Điều quan trọng cần lưu ý là trong các phép so sánh điểm tương đương, đứa trẻ không được so sánh với những đứa khác trong một quần thể tương tự, tức là với những đứa trẻ cùng tuổi hoặc cùng lớp. Thay vào đó, điểm của trẻ được gán cho mức độ đại diện cho độ tuổi hoặc lớp mà điểm thô là điển hình. Vì vậy, một đứa trẻ đạt điểm thô là 55 trong PPVT-IV, chẳng hạn, sẽ nhận được điểm tương đương với độ tuổi là 4 tuổi, 4 tháng. Nếu đứa trẻ này thực sự 7 tuổi, nó sẽ không được so sánh với những đứa trẻ 7 tuổi khác khi điểm số tương đương tuổi được báo cáo.

Sự khác biệt quan trọng nhất giữa điểm tương đương và điểm tiêu chuẩn là chỉ có điểm tiêu chuẩn mới bao gồm một số thước đo của sự thay đổi bình thường. Nếu chúng ta cần quyết định xem điểm của một đứa trẻ có thấp hơn đáng kể so với kỳ vọng về độ tuổi hay độ tuổi tâm thần phi ngôn ngữ hay không, chúng ta cần biết sự thay đổi bình thường xung quanh ý nghĩa của bài kiểm tra liên quan đến điều gì. Nếu không, chúng ta không biết điểm cần thấp đến mức nào để nó thể hiện mức khiếm khuyết đáng kể. Hãy xem điều này có thể hoạt động như thế nào trong thực tế.

Giả sử một đứa trẻ nhận được điểm thô là 29 trong PPVT IV (Dunn & Dunn, 2007). Điểm này tương ứng với độ tuổi tương đương là 2 tuổi, 4 tháng. Điều gì sẽ xảy ra nếu khách hàng của chúng tôi đã dùng PPVT-IV là 3 tuổi, 6 tháng?

Rõ ràng điểm số của trẻ thấp hơn tuổi. Điều đó có nghĩa là trẻ bị khiếm khuyết vốn từ vựng hiểu? Chúng ta thực sự không thể biết được, bởi vì điểm số tương đương với độ tuổi không đưa ra bất kỳ thước đo nào về sự biến thiên bình thường được thấy ở trẻ em trong quần thể khách hàng, tức là ở cùng độ tuổi. Có lẽ mức độ thay đổi đó là điển hình của những đứa trẻ 3 ½ tuổi làm bài kiểm tra này. Chỉ một điểm số tiêu chuẩn mới có thể cho chúng ta biết liệu thành tích của đứa trẻ có khác biệt đáng kể so với điểm số của những đứa trẻ khác ở độ tuổi đó hay không. Trên thực tế, điểm tiêu chuẩn tương ứng với điểm thô là 29 đối với trẻ 3 tuổi rưỡi là 87, với thứ hạng phần trăm là 19. Điểm này, như đã thấy, nằm trong phạm vi bình thường, trong vòng 1 SD so với mức vị ở độ tuổi của trẻ đó và cao hơn phân vị thứ 10, và không biện minh cho việc dán nhãn đứa trẻ là khiếm khuyết vốn từ vựng hiểu.

Cũng nên nhớ rằng điểm tương đương, không giống như điểm tiêu chuẩn, không đại diện cho các khoảng số lượng thời gian bằng nhau trên thang điểm. Trẻ 3 tuổi chậm 1 năm không giống như trẻ 9 tuổi chậm 1 năm. Vì những lý do này, điểm số tương đương với độ tuổi đơn giản là không thích hợp để quyết định xem một đứa trẻ có bị khiếm khuyết đáng kể hay không. Chỉ một phép so sánh tiêu chuẩn mới cho phép chúng ta đưa ra phán đoán rằng thành tích của trẻ thấp hơn đáng kể so với mức bình thường. Khi mức khiếm khuyết đáng kể này đã được thiết lập, chúng ta có thể sử dụng điểm số tương đương tuổi làm thước đo dễ hiểu để thảo luận về hoạt động của trẻ với cha mẹ và giáo viên và như một phương tiện để xác định khả năng trên các lĩnh vực ngôn ngữ (xem Hình 2.2 và 2.3). Nhưng điều này chỉ được chấp nhận khi điểm chuẩn của trẻ có thể được chứng minh là dưới mức bình thường đáng kể. Nếu thước đo so sánh tiêu chuẩn nằm trong phạm vi bình thường, thì không có lý do gì để sử dụng hoặc thảo luận về điểm tương đương với độ tuổi. Đứa trẻ đang hoạt động trong phạm vi biến thiên bình thường trong bài kiểm tra này và không cần phải nói gì thêm về nó. Báo cáo độ tuổi tương đương trong trường hợp này sẽ gây hiểu lầm.

HÌNH Mối quan hệ giữa điểm thu được và đường cong chuẩn.

Các test tiêu chuẩn hóa, như chúng ta đã thấy, cần được đánh giá để quyết định xem liệu chúng có đáp ứng các tiêu chí được chấp nhận hay không để biện minh cho việc sử dụng chúng. Nếu họ không cung cấp các hướng dẫn và thông tin rõ ràng, rõ ràng về độ tin cậy, tính hợp lệ, SEM và điểm so sánh được tiêu chuẩn hóa, chúng ta thực sự không có lý khi sử dụng chúng vì chúng không hoàn thành vai trò mà chúng có ý định phục vụ. Mặc dù cách đây vài năm, rất khó để tìm thấy các test trong lĩnh vực của chúng ta đáp ứng các tiêu chí này, nhưng tình hình đang được cải thiện khi chúng ta trở thành người sử dụng có hiểu biết hơn về nội dung test. Chỉ khi các nhà lâm sàng yêu cầu các công cụ được tiêu chuẩn hóa tốt thì thị trường mới cung cấp chúng. Chúng tôi có trách nhiệm xem xét các test có sẵn và chỉ chọn những công cụ được xây dựng tốt nhất. Friberg (2010); Pena, Spaulding, và Plante (2006); và Salvia và Ysseldyke (2000) cung cấp hướng dẫn hữu ích cho các nhà lâm sàng trong việc đánh giá các test tiêu chuẩn hóa.

Nhưng ngay cả khi một test được xây dựng tốt, các test tiêu chuẩn hóa có thể cung cấp một lượng giá công bằng không? Nhiều bài đã được viết về những nguy hiểm cố hữu của việc sử dụng các bài kiểm tra tiêu chuẩn để đo lường hiệu quả ngôn ngữ (Bishop & MacDonald, 2009; Friberg, 2010; Spaulding, Plante, & Farinella, 2006). Có nên bãi bỏ hoàn toàn test tiêu chuẩn hóa? Bất kỳ ai đã từng phải xem xét xem trẻ có đủ điều kiện nhận các dịch vụ bằng cách ghi hồ sơ các khiếm khuyết đều biết rằng việc dùng test tiêu chuẩn là điều cần thiết cho mục đích này. Trên thực tế, test tiêu chuẩn là cách duy nhất hợp lệ, đáng tin cậy và công bằng để xác định rằng một đứa trẻ khác biệt đáng kể so với những đứa trẻ khác.

Chúng ta có thể làm ba điều để giúp đảm bảo tính công bằng của test tiêu chuẩn hóa với khách hàng của chúng ta. Điều đầu tiên là liên quan đến việc lựa chọn các bài test đáp ứng các tiêu chí được chấp nhận, để được coi là hợp lý về mặt tâm lý học. Điều thứ hai là đòi hỏi việc giải thích các kết quả kiểm tra một cách hợp lý và thận trọng. Nếu chúng ta hiểu các khái niệm liên quan đến test tiêu chuẩn hóa được nêu trong phần này, chúng ta sẽ có khả năng giải quyết cả hai vấn đề này. Điều thứ ba liên quan đến việc sử dụng các kết quả test tiêu chuẩn hóa được đưa ra.

Các bài test tiêu chuẩn hóa được thiết kế để cho biết liệu một đứa trẻ có khác biệt đáng kể so với một quần thể bình thường hay không. Để quyết định liệu có sự khác biệt có ý nghĩa giữa điểm của khách hàng và điểm của các bạn cùng lứa hay không, một bài test tiêu chuẩn hóa là phương pháp được ưa chuộng (Spaulding, Swartwout Szulga, & Figueroa, 2012). Nhưng một khi sự khác biệt đáng kể đó đã được thiết lập, các hình thức lượng giá khác là cần thiết để thiết lập cơ sở về chức năng, xác định mục tiêu can thiệp và đo lường tiến độ trong một chương trình can thiệp. Các test tiêu chuẩn hóa không được thiết kế cho bất kỳ mục đích nào trong số này và chúng không phải là phương pháp tiếp cận hợp lệ hoặc hiệu quả để thu thập loại hình này. Một khi sự khiếm khuyết là đáng kể trong hoạt động giao tiếp, đã được thiết lập thông qua việc sử dụng một số hạn chế các thử nghiệm tiêu chuẩn hóa, thì nên sử dụng các công cụ khác. Các phần sau đây mô tả một số công cụ khác này.

Phỏng vấn và bảng câu hỏi

Cha mẹ, giáo viên và những người lớn khác biết rõ về một đứa trẻ có thể cung cấp nhiều thông tin để bổ sung cho lượng giá lâm sàng trực tiếp của chúng ta. Ngoài các cuộc phỏng vấn và bảng câu hỏi do nhà lâm sàng phát triển mà chúng ta đã thảo luận trước đó, có rất nhiều công cụ được thiết kế để thu thập thông tin từ người lớn sống cùng của trẻ. Nhiều phương pháp có cùng đặc tính đo lường tâm lý của một bài test được tiêu chuẩn hóa tốt, bao gồm độ tin cậy, tính hợp lệ, độ nhạy và độ đặc hiệu đã được thiết lập. Các công cụ có các đặc tính này có thể rất hữu ích trong phần đánh giá của quá trình thẩm định, trong việc giúp điền vào bức tranh về mức độ hoạt động của trẻ, ngoài những gì có thể thu thập được trong “ảnh chụp nhanh” lâm sàng. Thông tin thu được từ các cuộc phỏng vấn và bảng câu hỏi tiêu chuẩn cũng có thể hữu ích trong phần đánh giá của quá trình thẩm định, bằng cách đưa ra bức tranh chân dung chi tiết hơn về hoạt động cơ bản mà chúng ta có thể đạt được trong thời gian giới hạn với trẻ. Dưới đây là một vài ví dụ về các công cụ tiêu chuẩn này.

Các ví dụ về các công cụ phỏng vấn và bảng câu hỏi tiêu chuẩn
-Bản kiểm kê phát triển giao tiếp MacArthur-Bates-III (Penson và cộng sự, 2007)
-Danh sách Kiểm tra Hành vi Trẻ em (Achenbach & Edelbrook, 2000)
-Danh sách Kiểm tra Giao tiếp Trẻ em-2 Ấn bản Hoa Kỳ (Bishop, 2006)
-Bảng kiểm tra Giao tiếp và Hành vi Tượng trưng cho Trẻ sơ sinh (Wetherby & Prizant, 2003)
-Khảo sát phát triển ngôn ngữ (Rescorla, 1989)
-Bảng câu hỏi về giao tiếp xã hội (Rutter, Bailey, & Lord, 2003)
-Thang đo phản ứng xã hội (Constantino, 2005)
-Thang đo hành vi thích ứng Vineland -II (Sparrow, Cicchetti, & Balla, 2005)
Thang đo hành vi thích ứng Vineland -II là công cụ mà có giá trị sử dụng tốt ở VN hiện nay

Các thang phát triển

Thang đo phát triển là công cụ phỏng vấn hoặc quan sát lấy mẫu các hành vi từ một giai đoạn phát triển cụ thể. Thông thường chúng không được tiêu chuẩn hóa hoàn toàn, ở chỗ chúng không cung cấp điểm số so sánh tiêu chuẩn, vì vậy chúng không thích hợp để đưa ra quyết định ban đầu về việc liệu một đứa trẻ có khiếm khuyết đáng kể trong giao tiếp hay không. Nhưng chúng là các thủ tục chính thức theo nghĩa là chúng cung cấp một số hướng dẫn được nêu rõ ràng để quản lý và thường cung cấp một số loại điểm tương đương. Các thang đo phát triển như Bản kiểm kê có trình tự về phát triển giao tiếp đã được sửa đổi (Hedrick, Prather, & Tobin, 1984), Bài kiểm tra về kỹ năng ngôn ngữ tổng hợp và kỹ năng đọc viết của sinh viên (Nelson, Howes, & Anderson, 2016), và Thang điểm đo ngôn ngữ nổi bật về khả năng diễn đạt – hiểu -3 (Bzoch, League, & Brown, 2003) thường được các nhà trị liệu ngôn ngữ sử dụng. Sẽ là lạm dụng các công cụ này, khi nhầm chúng với các bài test tiêu chuẩn hóa hoặc các thước đo chính thức về nhận thức. Bởi vì chúng chỉ cung cấp thông tin về điểm số tương đương, chúng không thể được sử dụng để ghi lại sự tồn tại của một khiếm khuyết đáng kể. Tuy nhiên, khi đã xác định được khiếm khuyết đó, các thang đo này có thể hữu ích cho việc thiết lập chức năng cơ bản bằng cách hiển thị mức độ tương đương chung về độ tuổi mà trẻ đang hoạt động trong các lĩnh vực mà thang này đánh giá.

Rối loạn ngôn ngữ của Rhea Paul- Phần 1/ bài 8 (chương 2)

Lượng giá gì?

Câu trả lời cho câu hỏi “Chúng ta sẽ đánh giá cái gì?” có vẻ đơn giản. Chúng ta đánh giá ngôn ngữ. Nhưng có nhiều phức tạp hơn thế. Chúng ta muốn đảm bảo rằng các đánh giá của chúng ta bao gồm các thước đo về hình thức, nội dung và sử dụng ngôn ngữ (Bloom và Lahey, 1978; Lahey, 1988). Chúng tôi cũng muốn xem xét các lĩnh vực ngôn ngữ này theo ít nhất hai phương thức khác nhau: hiểu và diễn đạt. Trong ngôn ngữ phát triển điển hình, khả năng hiểu và diễn đạt phát triển song song, nhưng đôi khi chúng có thể tách rời nhau trong DLD. Do đó, chúng ta không thể đưa ra giả định về cái này trên cơ sở cái kia.

Một khi chúng ta xác định rằng trẻ gặp khó khăn về ngôn ngữ, chúng ta cần đánh giá các khía cạnh phát triển khác có thể ảnh hưởng đến chức năng ngôn ngữ hoặc có thể cần được xem xét khi lập kế hoạch can thiệp. Những lĩnh vực liên quan này bao gồm, ở mức tối thiểu, thính giác, chức năng vận động miệng, khả năng nhận thức chung và chức năng xã hội. Chúng ta hãy lần lượt xem xét các thành phần đánh giá này.

Miền ngôn ngữ: Hình thức, nội dung và cách sử dụng

Đánh giá lý tưởng nên bao gồm từng lĩnh vực ngôn ngữ này, bao gồm cả hiểu và diễn đạt:

• Hình thức (cú pháp, hình thái học, âm vị học): các dấu hiệu không được phát âm của từ; các thành phần câu cơ bản, chẳng hạn như các cụm danh từ, động từ, giới từ và trạng ngữ; và các loại câu, chẳng hạn như phủ định, nghi vấn, mệnh đề được nhúng và cách diễn đạt liên tục.

Hình thức cũng bao gồm khả năng tạo ra âm thanh chính xác, tính nhất quán của việc tạo ra âm thanh và việc sử dụng các quy trình đơn giản hóa âm vị học.

• Nội dung (ngữ nghĩa): kiến thức về từ vựng, khả năng diễn đạt và hiểu các khái niệm về các đối tượng và sự kiện, việc sử dụng và hiểu các quan hệ ngữ nghĩa giữa các đối tượng và sự kiện này, đồng thời hiểu được sự mơ hồ từ vựng và nhiều nghĩa (ví dụ: “lạnh” có thể đề cập đến nhiệt độ, bệnh tật hoặc phẩm chất cá nhân).

• Sử dụng (ngữ dụng): phạm vi chức năng giao tiếp (lý do nói chuyện), tần suất giao tiếp, kỹ năng diễn ngôn (chuyển lượt, duy trì và thay đổi chủ đề, yêu cầu làm rõ), sự linh hoạt trong việc sửa đổi ngôn ngữ cho những người nghe và các tình huống xã hội khác nhau , và khả năng truyền đạt một câu chuyện mạch lạc và đầy đủ thông tin.

Nghe có vẻ giống như một yêu cầu cao? Đúng thế. Câu trả lời đầu tiên của bạn có thể là, “Không thể làm được tất cả những điều đó!” Nhưng đừng hoảng sợ. Hãy nhớ rằng không phải mọi khía cạnh của ngôn ngữ đều cần được đánh giá bằng cách sử dụng một thước đo tiêu chuẩn hóa. Test tiêu chuẩn hóa có thể được sử dụng đơn giản để xác định rằng ngôn ngữ của trẻ bị thiếu hụt so với các bạn cùng tuổi. Điều này có thể dễ dàng được thực hiện trong một phiên kiểm tra kéo dài 2 giờ, sử dụng thông tin giới thiệu và bệnh sử để chọn các lĩnh vực ngôn ngữ quan trọng nhất để đánh giá, bằng các biện pháp tiêu chuẩn hóa. Và trong các lĩnh vực ngôn ngữ được chọn để đánh giá này, điều quan trọng là phải thiết lập mức độ diễn đạt và hiểu của trẻ trong từng lĩnh vực.

Các phương thức của ngôn ngữ: Thông hiểu và diễn đạt

Thông hiểu

Khi đánh giá khả năng hiểu ngôn ngữ, điều quan trọng cần lưu ý là khả năng hiểu ngôn ngữ của trẻ có thể thay đổi tùy thuộc vào ngữ cảnh mà ngôn ngữ đó được sử dụng (Pindzola và cộng sự, 2016). Chapman (1978), Miller và Paul (1995), và Milosky và Skarakis-Doyle (2006) đã thảo luận về sự khác biệt giữa thành tích của trẻ em đối với các nhiệm vụ hiểu được ngữ cảnh hóa, với sự hiện diện của các thói quen quen thuộc và các tín hiệu phi ngôn ngữ, và những thứ được phi văn bản hóa, hoặc không quen thuộc và chỉ được hỗ trợ bởi chính ngôn ngữ. Họ chỉ ra rằng trẻ em hoạt động khá khác nhau về khả năng hiểu của chúng trong hai môi trường này. Ví dụ, một đứa trẻ bị DLD có thể làm theo một hướng dẫn bằng lời nói gồm ba phần, chẳng hạn như “cất sách vở, lấy áo khoác và xếp hàng cạnh cửa” trong lớp học, vì chúng có thể quan sát bạn bè của mình làm như thế nào, và làm theo hành động của chúng. Cũng chính đứa trẻ đó có thể gặp khó khăn khi làm theo một hướng dẫn tương tự trong ngữ cảnh phi văn bản, chẳng hạn như trong một bài kiểm tra tiêu chuẩn hóa (ví dụ: “chạm vào quả bóng, sau đó chạm vào ngôi sao trước khi bạn chạm vào ngôi nhà”). Các bài kiểm tra tiêu chuẩn đo lường khả năng hiểu ngôn ngữ được phi văn bản hóa và phản ánh khả năng ngôn ngữ của trẻ trong những hoàn cảnh khó khăn nhất. Đây là một phương pháp hỗ trợ cho bài kiểm tra khả năng hiểu chính thức, có thể hữu ích để đánh giá phản ứng của trẻ trong các tình huống quen thuộc hơn, theo ngữ cảnh hơn. Miller và Paul (1995) đã đề xuất kết hợp đánh giá khả năng hiểu truyền thống với đánh giá khả năng hiểu ngôn ngữ trong các môi trường tự nhiên hơn với các hỗ trợ phi ngôn ngữ, chẳng hạn như cử chỉ, ánh mắt và các dấu hiệu ngữ cảnh khác. So sánh hiệu suất trong hai thiết lập bối cảnh này này có thể tạo ra bức tranh đầy đủ hơn về sự hiểu biết của trẻ.

Bất kể hình thức đánh giá nào, điều quan trọng là phải nhớ rằng sự hiểu biết, như Miller và Paul (1995) đã nói, là một sự kiện riêng tư, một cái gì đó xảy ra trong tâm trí của đứa trẻ. Chúng ta chỉ có thể đưa ra suy luận về khả năng hiểu của trẻ dựa trên các phản ứng hành vi đối với các câu hỏi và thăm dò của chúng ta. Nếu một đứa trẻ phản ứng như mong đợi, chúng tôi có thể suy ra rằng chúng đã hiểu cấu trúc mà chúng ta  đang đánh giá, nhưng điều quan trọng cần nhớ là đứa trẻ cũng có thể chỉ hành động theo ý mình, không phụ thuộc vào hướng dẫn của chúng ta. Nếu trẻ đưa ra phản hồi không chính xác, chúng ta không thể chắc chắn rằng chúng chưa hiểu chúng ta; trẻ em có thể không hiểu một mục nào đó vì nhiều lý do khác nhau. Ví dụ, trẻ có thể đã quên hướng dẫn bằng lời nói, trẻ có thể không chú ý đến những gì chúng ta nói, trẻ có thể không nghe được những gì đang được nói, hoặc trẻ có thể chọn không tuân theo đánh giá của chúng ta. Do đó, chúng ta cần hiểu các nhu cầu bổ sung của các bài lượng giá ngôn ngữ khác nhau và lựa chọn các biện pháp của chúng ta một cách khôn ngoan để các suy luận của chúng ta về khả năng hiểu có giá trị nhất có thể. Chúng ta sẽ nói thêm về điều này sau trong chương này.

Diễn đạt

Không giống như lượng giá khả năng hiểu, lượng giá diễn đạt ngôn ngữ cho phép chúng ta tiếp cận trực tiếp với cách trẻ thể hiện bản thân bằng ngôn ngữ. Các bài kiểm tra yêu cầu trẻ lặp lại các câu có độ dài và độ phức tạp ngày càng cao có thể là dấu hiệu rất nhạy cảm của sự suy giảm ngôn ngữ (Conti-Ramsden, Botting, & Faraher, 2001). Nhưng cũng giống như việc trẻ em thực hiện khác nhau trong các bài kiểm tra khả năng hiểu trong các ngữ cảnh khác nhau, chúng cũng có thể diễn đạt ngôn ngữ khác nhau trong các ngữ cảnh khác nhau. Do đó, chúng ta cần đảm bảo rằng ngoài các test tiêu chuẩn của mình, chúng ta lấy mẫu lời nói tự phát trong môi trường tự nhiên để xác định các mục tiêu hợp lý về mặt chức năng và sinh thái để can thiệp.

Lượng giá các lĩnh vực liên quan

Có vẻ công việc lượng giá chức năng ngôn ngữ đã rất đồ sộ, nhưng vẫn không phải là toàn bộ nhiệm vụ của việc tiến hành lượng giá. Ngoài việc phân tích tất cả các khía cạnh trên của ngôn ngữ, việc lượng giá kỹ lưỡng cũng đi kèm việc xem xét các lĩnh vực liên quan có liên hệ đến chức năng giao tiếp của trẻ. SLP có thể không thu thập tất cả thông tin này một mình. Trong một nhóm đa ngành, các chuyên gia khác có thể cung cấp một số dữ liệu cần thiết. Nhưng ngay cả khi việc lượng giá được coi là một cuộc đánh giá ngôn ngữ được giới hạn trong phạm vi nhất định, thì vẫn cần phải lấy thông tin lĩnh vực liên quan này. Sau khi hoàn thành phần lời nói, ngôn ngữ và giao tiếp của lượng giá, SLP có thể cần yêu cầu thêm thông tin từ các chuyên gia khác. Điều này có thể được thực hiện bằng cách giới thiệu trẻ đi thăm khám chuyên khoa thêm.

Thính giác.

Không có lượng giá ngôn ngữ nào hoàn thành nếu không có cuộc kiểm tra về tình trạng thính giác của đứa trẻ. Nhiều SLP sàng lọc trẻ khiếm thính bằng cách sử dụng các máy đo thính lực nhỏ, cầm tay được thiết kế đặc biệt cho mục đích này. Trong môi trường trường học, y tá của trường có thể chịu trách nhiệm thực hiện các cuộc kiểm tra thính giác, hoặc thông tin này có thể đến từ hồ sơ y tế. ASHA đã đưa ra các hướng dẫn cho việc sàng lọc này. Gần đây hơn, Otoacoustic Emissions Test [Thử nghiệm cho biết các tế bào lông ngoài ốc tai có hoạt động bình thường hay không] đã được giới thiệu như một phương pháp sàng lọc. Những trẻ không đạt một trong hai cuộc kiểm tra này cần được chuyển đến bác sĩ thính học để đánh giá thính lực toàn diện.

Lượng giá vận động miệng.

Một lĩnh vực khác cần được đánh giá đối với bất kỳ trẻ bị rối loạn ngôn ngữ nào là tính toàn vẹn của hệ thống vận động miệng. Bất cứ khi nào một đứa trẻ gặp khó khăn trong việc diễn đạt bằng ngôn ngữ nói, điều bắt buộc là phải xác định xem có những rào cản thực thể nào đối với ngôn ngữ diễn đạt hay không.

Đánh giá hệ thống vận động lời nói bao gồm kiểm tra tính đối xứng của khuôn mặt; răng; cấu trúc và chức năng của môi, lưỡi, hàm, và hầu; và các chức năng hô hấp, thanh âm và cộng hưởng khi chúng được sử dụng cho lời nói. MacRoy-Higgins và Galletta (2014) và Shipley và McAfee (2016) cung cấp một số hướng dẫn trong việc diễn giải bài kiểm tra miệng-mặt. McCauley và Strand (2008) cung cấp một đánh giá về các biện pháp tiêu chuẩn hóa để lượng giá các chức năng vận động miệng. Các xếp hạng tổng thể sẽ được thực hiện là:

• Bình thường

• Độ lệch nhẹ; có lẽ không có tác dụng bất lợi cho lời nói

• Độ lệch vừa phải; có thể ảnh hưởng đến lời nói, đặc biệt nếu các cấu trúc khác cũng lệch lạc

• Độ lệch lớn; đủ để can thiệp vào việc tạo ra giọng nói bình thường, cần sửa đổi cấu trúc

Để ngăn ngừa sự lây nhiễm, nhà lâm sàng phải luôn rửa tay kỹ lưỡng bằng xà phòng và nước, và họ nên đeo găng tay phẫu thuật cho thủ thuật khám này. Cần rửa tay lại khi tháo găng tay.

1)Khám ngoài mặt và đầu.

Khuôn mặt có thể được kiểm tra từ một cái nhìn chính diện để xác định sự thẳng hàng; khoảng cách của các mắt; tỷ lệ của khuôn mặt; và tính đối xứng của mũi, nhân trung, và vành môi. Nhà lâm sàng có thể quan sát xem môi có ngậm kín khi nghỉ không, liệu chúng có co đối xứng khi bệnh nhân mỉm cười hay tạo ra âm / i / hay không và liệu chúng có co đối xứng khi họ tạo ra / u / hay không.

Quan sát khuôn mặt khi nhìn chếch hoặc nghiêng, nhà lâm sàng sẽ kiểm tra lại sự liên kết của các đặc điểm trên khuôn mặt. Việc quan sát này có thể được thực hiện trên khách hàng ở mọi lứa tuổi, kể cả trẻ sơ sinh.

Có thể quan sát tính toàn vẹn về chức năng của cơ mặt bằng cách yêu cầu khách hàng nhướng mày, nhắm mí mắt khi có lực cản của ngón tay nhà lâm sàng đang giữ chúng mở ra [nghiệm pháp đối kháng], khi mỉm cười và cau mày. Có thể quan sát tư thế nghỉ ngơi của khuôn mặt có cân xứng không. Chuyển động và tỷ lệ của các nét mặt có thể được đánh giá. Trẻ được 24 tháng tuổi là nhỏ nhất khi thực hiện các lượng giá này. Tuy nhiên, ngay cả một đứa trẻ 2 hoặc 3 tuổi cũng có thể gặp khó khăn với một số hoạt động như vậy. Trẻ nhỏ có thể sẽ cần bắt chước những chuyển động này hơn là tạo ra chúng theo yêu cầu bằng lời nói. Yêu cầu cha hoặc mẹ của đứa trẻ bắt chước nhà lâm sàng trước, rồi sau đó yêu cầu đứa trẻ làm như vậy, có thể hữu ích. Đề nghị trẻ giả làm chú hề làm mặt hài hước có thể hữu ích; vì vậy có thể sử dụng một chiếc gương để đứa trẻ có thể nhìn thấy những khuôn mặt vui nhộn được tạo ra. Vẽ mặt cũng có thể tạo điều kiện thuận lợi cho việc đánh giá này, nhưng hãy kiểm tra với phụ huynh trước.

2) Kiểm tra trong miệng.

Khi tiến hành khám trong, phải đeo găng tay phẫu thuật vì sự an toàn của nhà lâm sàng cũng như của trẻ. Sự thẳng hàng của răng và khớp cắn của hàm có thể được đánh giá. Cũng có thể quan sát thấy sự mọc răng, khoảng cách và hướng của răng cũng như cấu trúc và tỷ lệ của lưỡi. Có thể khuyến khích cử động của lưỡi bằng cách sử dụng một chiếc kẹo mút và yêu cầu trẻ liếm nó khi bạn đặt ở trên, bên dưới và ở hai bên miệng của trẻ. Hãy chắc chắn để trẻ có kẹo khi bạn hoàn thành bài đánh giá!

Cấu trúc của vòm miệng cứng có thể được kiểm tra bằng cách sử dụng một cây đèn chiếu nhỏ. Bác sĩ lâm sàng cần đặc biệt cảnh giác các dấu hiệu của hở hàm ếch dưới niêm mạc và sự hiện diện của lưỡi gà bị chẻ đôi. Những dấu hiệu này bao gồm biểu hiện màu trắng ở vòm miệng mềm và chỗ lõm ở khu vực đó, có thể cảm nhận được khi sờ vào niêm mạc. Để sờ nắn vòm miệng, hãy đứng phía sau trẻ, tựa đầu vào bạn khi bạn di chuyển ngón tay đeo găng dọc theo đường giữa của vòm miệng từ rìa lợi đến màng mềm. Những phát hiện này cho thấy sự cần thiết phải đánh giá thêm các cấu trúc của cơ hầu. Chức năng của lưỡi gà có thể được quan sát bằng cách yêu cầu trẻ duy trì / a / và sau đó tạo ra các lần lặp lại ngắn của / a / – / a /.

Những đánh giá này khó thực hiện đối với trẻ em dưới 3 tuổi vì trẻ khó chịu khi khám miệng, cũng như trẻ khó bắt chước âm thanh khi ra lệnh. Để giúp trẻ nhỏ khi khám trong miệng, nhà lâm sàng có thể cho trẻ dùng đèn soi trong miệng cha mẹ trước, sau đó chiếu đèn vào tay mình để thấy không đau. Bạn có thể yêu cầu trẻ mở miệng để bạn có thể xem chúng đã ăn gì trong bữa sáng hoặc xem có con voi nào (hà mã, khủng long, yêu tinh) trong đó không. Sử dụng con rối cũng có thể hữu ích; đứa trẻ và con rối có thể thay phiên nhau mở miệng khi đứa trẻ chơi SLP với con rối. Nếu trẻ vẫn từ chối không cho phép khám miệng, tốt nhất là bạn nên tiếp tục việc khác và thử lại khi trẻ hiểu bạn hơn trong quá trình can thiệp.

3) Kiểm tra chức năng vòm họng và cộng hưởng.

Ngay cả khi cấu trúc vòm họng có vẻ bình thường khi kiểm tra, việc đánh giá khả năng sử dụng vòm họng trong các hoạt động nói của trẻ là điều khôn ngoan, vì chức năng của nó là cần thiết để phát âm chính xác âm thanh bằng miệng và mũi. Điều này có thể được thực hiện khá dễ dàng với hai công cụ nhanh chóng và hiệu quả. Bài kiểm tra cấu âm bị chặn Iowa Pressure Articulation Test  (IPAT; Morris, Spreistersbach, & Darley, 1961) được phát triển để đánh giá các lỗi lời nói thường liên quan đến chứng suy yếu hầu họng. Quy trình này có thể được sử dụng với trẻ nhỏ từ 24 đến 30 tháng tuổi. Các từ được sử dụng cho thử nghiệm này gồm các âm vị quan trọng để lượng giá chức năng hầu họng. Nhà lâm sàng chỉ cần yêu cầu thân chủ lặp lại các từ và ghi chú xem các phân đoạn được gạch chân có được diễn đạt đúng hay không. Nếu đúng, một đánh đấu đúng được đặt cho mỗi từ. Nếu không, loại lỗi sẽ được ghi lại bằng cách sử dụng kí hiệu mã hóa. Nếu nghe thấy tiếng phát ra từ mũi, ngừng thở, tiếng cọ xát ở hầu họng hoặc tiếng khịt mũi, thì chức năng của vòm có khả năng bị tổn thương. Trong trường hợp này, cần tiến hành thăm khám thêm về nguyên nhân của vấn đề này với sự tư vấn của bác sĩ. Ngay cả khi không tìm thấy khiếm khuyết nào về cấu trúc, một đứa trẻ có lỗi khi diễn đạt biểu thị sự khiếm khuyết vòm hầu họng sẽ cần được điều trị cho những lỗi này, cũng cần thiết như bất kỳ chương trình trị liệu ngôn ngữ nào.

Có thể đánh giá mức độ cảm nhận được giọng nói quá đặc biệt và sự vắng mặt hoặc thay đổi của phụ âm “bị chặn” bằng cách sử dụng các quy trình có trong Đánh giá giọng nói Great Ormond Street (GOS.SP.ASS; Anne, Harding, & Grunwell, 1999), một lượng giá cụ thể được thiết kế để đánh giá tính toàn vẹn của vòm hầu họng. Quy trình khơi gợi câu bao gồm việc yêu cầu trẻ lặp lại các câu với một số lượng âm mũi có kiểm soát. Các câu được giới thiệu bởi Van Demark, Morris và Vandehaar (1979) có thể được sử dụng cho mục đích này. Các câu khác nhau về số lượng âm mũi bao gồm và có thể được sử dụng để xác định xem liệu những âm thanh này có “tràn sang” các từ khác trong câu hay không. Các câu cũng bao gồm các điểm dừng yêu cầu đóng vòm miệng để cấu âm thành công. Những biến dạng không điển hình của những phụ âm này có thể là dấu hiệu của khiếm khuyết vòm hầu họng. Cần có một mức độ phát triển của trẻ khoảng 36 tháng tuổi để thực hiện nhiệm vụ này.

Các lỗi được phiên âm và bất kỳ lỗi phát âm không điển hình nào về chất lượng đều phải nhanh chóng kiểm tra cấu trúc. Nếu không tìm thấy bất thường về cấu trúc, các mục tiêu can thiệp về giọng nói có thể bao gồm tạo sự khác biệt giữa miệng và mũi và tạo ra âm nổ trong lời nói liên tục.

4) Kiểm tra cử động miệng tự ý.

Xem xét hiệu suất cử động miệng trong các hoạt động không phải lời nói có thể hữu ích trong việc quyết định xem việc nói kém có liên quan đến âm sắc kém hay sự kiểm soát tự nguyện của cơ miệng. Các hoạt động có thể được sử dụng trong đánh giá này chủ yếu gồm các vận động miệng với các âm thanh đơn giản như tiếng kêu của các con vật, hay các tạo hình miệng … Hầu hết trẻ em sẽ có thể bắt chước hầu hết các chuyển động này ở mức độ phát triển 36 tháng tuổi. So sánh giữa cử động miệng tự ý và vận động bắt chước có thể hữu ích trong việc xem xét các chẩn đoán khác nhau, và nhà lâm sàng nên cảnh giác với những khác biệt tiềm ẩn.

5) Đánh giá động học âm vị (liên động).

Các hoạt động liên động có thể được sử dụng để quan sát tốc độ, kiểu mẫu và tính nhất quán của việc diễn đạt âm tiết. Bác sĩ lâm sàng có thể ghi nhận độ thành thục và độ chính xác của các âm tiết trong quá trình liên động. Ngoài ra, quy trình liên động có thể được kiểm tra ở trẻ em mẫu giáo bằng cách sử dụng quy trình của Williams và Stackhouse (2000). Trong quy trình này, nhà lâm sàng sẽ hướng dẫn trẻ “xem bạn có thể nói những âm thanh này nhanh như thế nào.” Sau khi diễn đạt và thực hành phát âm nhanh một số âm tiết, trẻ được yêu cầu lặp lại nhanh chóng các âm tiết đơn lẻ, chẳng hạn như / pA // pA // pA /, chuỗi âm tiết / pA / / tA / / kA /. Đối với trẻ nhỏ, độ chính xác (số lượng âm vị đúng) và tính nhất quán của quá trình diễn đạt giữa các mục lặp đi lặp lại có thể là thước đo năng lực với nhiều thông tin hơn (Williams & Stackhouse, 2000). Đối với trẻ lớn hơn, tốc độ là phép đo thường xuyên nhất của hiệu suất liên động (Williams & Stackhouse, 2000) trong trường hợp này, là thời gian cần theo dõi tương ứng tạo ra năm lần lặp lại của chuỗi mục tiêu.

Đối với trẻ lớn hơn, Fletcher (1978) đưa ra tỷ lệ lặp lại trung bình mỗi giây, với độ lệch chuẩn, cho độ tuổi từ 6 đến 13 tuổi.

Trẻ mẫu giáo gặp rất nhiều khó khăn với những nhiệm vụ này có thể cho thấy bằng chứng về các đặc điểm chưa trưởng thành hoặc thiếu tỉnh táo, nhưng tốt nhất là không nên vội vàng kết luận. Với nhóm tuổi này, sự sẵn lòng và động lực có thể có tác động đặc biệt lớn đến hiệu suất. Để tăng động lực này, bạn có thể thử yêu cầu trẻ đóng giả thành đoàn tàu “choo-choo” bằng cách tạo ra âm thanh / pApApApA /, ô tô đua bằng cách tạo ra âm thanh / tAtAtAtA /, v.v. Hãy nhớ rằng, nếu một đứa trẻ thực hiện những nhiệm vụ này như mong đợi, chúng ta có thể kết luận rằng những khó khăn về ngôn ngữ diễn đạt khác không thể do những hạn chế trong cấu trúc hoặc chức năng vận động miệng. Tuy nhiên, nếu trẻ không thực hiện tốt nhiệm vụ này, chúng ta cần cẩn thận trong việc tạo mối liên hệ nhân quả; một đứa trẻ có thể thất bại vì bất kỳ lý do nào mà có thể ít liên quan đến cấu trúc và chức năng vận động miệng. Trong những trường hợp này, nên tiến hành đánh giá liên tục khi nhà lâm sàng hiểu rõ hơn về đứa trẻ.

6) Đánh giá chức năng hô hấp và âm thanh.

Khi thực hiện đánh giá này, nhà lâm sàng lại quan tâm đến việc xác định đơn giản xem liệu các chức năng hô hấp và âm thanh có đủ tối thiểu để hỗ trợ lời nói và ngôn ngữ cơ bản hay không. Chức năng hô hấp có thể được đánh giá bằng cách yêu cầu trẻ phát ra bất kỳ nguyên âm kéo dài nào. Trẻ nhỏ có thể gặp khó khăn trong việc kiên trì thực hiện nhiệm vụ này vì lý do phát triển, hơn là vì chúng không có đủ hỗ trợ thông khí để nói. Nếu trẻ dường như không thể duy trì việc diễn đạt nguyên âm, trẻ có thể được yêu cầu giả làm ca sĩ và giữ một nốt dài trong một bài hát quen thuộc hoặc giả làm tiếng còi của một đoàn tàu đi qua một đường hầm dài. Một đứa trẻ có thể duy trì bất kỳ ngữ âm nào trong thời gian tối thiểu 5 giây có thể được đánh giá là có đủ khả năng hô hấp để nói.

Đánh giá chức năng âm thanh có ba thành phần: âm lượng, cao độ và chất lượng. Khả năng kiểm soát âm lượng có thể được đánh giá bằng cách yêu cầu trẻ phát ra giọng nói rất nhỏ và sau đó nói rất to. Để trẻ giả vờ đang ở trong nhà thờ hoặc thư viện có thể giúp trẻ im lặng. Yêu cầu trẻ giả vờ la hét với một người bạn ở bên kia đường hoặc cổ vũ cho một đội thể thao yêu thích sẽ tạo ra tiếng nói lớn. Trẻ em có thể được yêu cầu thể hiện phạm vi cao độ của mình bằng cách bắt chước nhà lâm sàng, giả vờ như diễn tả một con chuột đang phình to đến kích thước một con gấu, hoặc bằng cách giả vờ làm còi báo động với bác sĩ lâm sàng, người thể hiện các biến thể cao độ trong tiếng kêu của còi báo động. Chất lượng giọng có thể được đánh giá trong bất kỳ hoạt động phát biểu nào, kể cả khi chơi hoặc trò chuyện tự do.

Tổng kết đánh giá vận động miệng.

Đối với đại đa số trẻ em được coi là có khả năng ngôn ngữ diễn đạt hạn chế, kết quả đánh giá ảnh hưởng cấu trúc vận động miệng và chức năng là “không đáng kể”, có nghĩa là không có dấu hiệu cho thấy bất kỳ khía cạnh nào của cơ chế lời nói đang can thiệp vào việc diễn đạt ngôn ngữ. Tuy nhiên, SLP nên biết rằng những vấn đề như vậy thỉnh thoảng vẫn phát sinh; và khi chúng xảy ra, chúng phải được giải quyết về mặt y tế, phẫu thuật hoặc hành vi để đứa trẻ đạt được tiềm năng giao tiếp tối đa của mình.

Đối với một số trẻ, những khiếm khuyết về vận động miệng ngăn cản sự phát triển của lời nói. Trong những trường hợp này, có thể khuyến nghị một phương thức giao tiếp thay thế, chẳng hạn như bộ tổng hợp giọng nói được được đưa vào phần mềm hỗ trợ trên thiết bị di động hoặc bảng giao tiếp bằng chữ cái, ký hiệu hoặc hình ảnh. Hầu hết những đứa trẻ này đều có những hạn chế về thể chất có liên quan đến các bệnh lý cơ thể, chẳng hạn như bại não hoặc rối loạn ăn nuốt nghiêm trọng. Đối với trẻ em bị khiếm khuyết vận động miệng ở mức độ nhẹ, việc đánh giá vận động lời nói có thể giúp xác định các điểm mạnh và nhu cầu vận động miệng, và vận động miệng có thể được giải quyết trong một chương trình can thiệp.

Cũng cần nhớ rằng SLP thường là chuyên gia duy nhất sẽ kiểm tra cơ chế miệng. Ví dụ, chúng ta không thể cho rằng bác sĩ nhi khoa sẽ làm như vậy trước khi được giới thiệu một đứa trẻ đến thăm khám. Bác sĩ nhi khoa và các chuyên gia y tế khác ghi nhận các khiếm khuyết cấu trúc thô nhưng có thể không tìm kiếm dấu hiệu của khe hở dưới niêm mạc hoặc về tính toàn vẹn chức năng của cấu trúc cấu âm.

Việc kiểm tra đó là công việc của SLP, và trừ khi đứa trẻ được biết là mắc một số khuyết tật hoặc hội chứng về răng miệng, nếu không sẽ không có bất kỳ ai khác thực hiện kiểm tra. Ngay cả khi chỉ có 1 trong số 1000 trẻ em bị khiếm khuyết ngôn ngữ được phát hiện có vấn đề về vận động miệng, thì trách nhiệm của chúng ta là nhà lâm sàng xác định trẻ đó.

Nhận thức phi ngôn ngữ

Một phần thông tin cần thiết khác trong lượng giá toàn diện là thước đo nhận thức phi ngôn ngữ, hoặc ước tính khả năng giải quyết vấn đề của trẻ mà không cần dựa vào kỹ năng ngôn ngữ. Các bài kiểm tra nhận thức phi ngôn ngữ thường yêu cầu trẻ hoàn thành các nhiệm vụ thị giác mà không cần phản hồi bằng lời nói (DeThorne & Schaefer, 2004). Nhà tâm lý học là những chuyên gia được đào tạo để đánh giá chính thức các kỹ năng nhận thức phi ngôn ngữ, và thực tiễn là tốt nhất hãy yêu cầu giới thiệu đến nhà tâm lý học khi có lý do để tin rằng kỹ năng nhận thức của trẻ không phù hợp với các bạn cùng lứa tuổi. Khi SLP nghi ngờ sự cần thiết phải đánh giá nhận thức, có các biện pháp không chính thức dựa trên đánh giá trò chơi, nhiệm vụ kiểu Piaget và hiệu suất vẽ, có thể được sử dụng để đánh giá sơ bộ hoạt động phi ngôn ngữ của trẻ. Theo quan điểm của chúng tôi, nhà lâm sàng sẽ có lý khi sử dụng các biện pháp sàng lọc nhận thức không chính thức này nếu không có phương pháp kiểm tra nhận thức chính thức của một nhà tâm lý học. Nhà lâm sàng có thể chỉ cần đánh giá xem đứa trẻ có đang hoạt động ở mức độ tuổi gần hoặc bằng với các nhiệm vụ nhận thức phi ngôn ngữ (Moodie, et al., 2014.)

Chức năng xã hội

Bởi vì giao tiếp là một hoạt động tương tác, chúng ta cần biết điều gì đó về các kỹ năng xã hội của trẻ và về môi trường xã hội mà trẻ hoạt động để hiểu nhu cầu ngôn ngữ của chúng. Chúng tôi muốn nhấn mạnh rằng điều này không có nghĩa là chúng ta đang tìm kiếm ai đó để đổ lỗi cho chứng rối loạn ngôn ngữ của trẻ. Các nhà lâm sàng thường quá nhanh chóng khi kết luận rằng nếu mô hình tương tác giữa cha mẹ / con cái của một gia đình hơi khác với mô hình tương tác trong một gia đình trung lưu điển hình, thì các vấn đề của đứa trẻ là do những mô hình tương tác đó gây ra. Tuy nhiên, điều quan trọng không kém là nhận thức rằng cha mẹ thích ứng để đáp ứng nhu cầu giao tiếp của con cái; vì vậy, những thay đổi trong phong cách tương tác của cha mẹ với trẻ bị rối loạn phát triển có thể là kết quả của sự suy giảm ngôn ngữ của trẻ, chứ không phải là nguyên nhân của nó. Ngoại trừ những trường hợp bị lạm dụng hoặc bỏ rơi quá mức, cha mẹ hầu như không bao giờ là nguyên nhân chính gây khó khăn trong giao tiếp của con họ.

Phần đánh giá này dựa trên những quan sát ban đầu của chúng tôi về việc cha mẹ và con cái tương tác với nhau và từ những cuộc trò chuyện của chúng tôi với phụ huynh như một phần của cuộc phỏng vấn bệnh sử. Khi tập hợp tất cả thông tin này lại với nhau, chúng ta cần đảm bảo rằng chúng ta đã thiết lập:

• Trẻ sử dụng bất kỳ kỹ năng giao tiếp nào mà trẻ có và các vấn đề giao tiếp ảnh hưởng đến sự phát triển kỹ năng sống hàng ngày của trẻ như thế nào.

• Sự điều chỉnh về cảm xúc và hành vi của trẻ.

• Nhận thức của gia đình về các nhu cầu của trẻ và các ưu tiên của họ trong việc đáp ứng các nhu cầu đó.

• Điểm mạnh và nhu cầu của gia đình về sự hỗ trợ từ các đồng nghiệp và chuyên gia trong nhiệm vụ khó khăn là nuôi dạy một đứa trẻ có nhu cầu đặc biệt.

• Sự khác biệt về văn hóa và ngôn ngữ trong nhà có thể ảnh hưởng đến kỹ năng giao tiếp của trẻ hoặc nhận thức của gia đình về chúng.

Các khía cạnh khác của đánh giá môi trường xã hội có thể do nhân viên công tác xã hội thực hiện trong đánh giá đa ngành, bằng cách sử dụng các thang điểm đã công bố hoặc thông qua phỏng vấn. Nếu các dịch vụ công tác xã hội không có sẵn, SLP có thể chỉ cần trao đổi với các thành viên trong gia đình về nhận thức, mối quan tâm, nhu cầu và hy vọng của họ đối với đứa trẻ. Mục đích chính của việc thu thập thông tin này là để gia đình biết rằng họ là những thành viên quan trọng của nhóm, trong việc giúp con họ đạt được mức độ hoạt động tối đa có thể. Không chỉ các chuyên gia mới quyết định đứa trẻ cần học gì và học nó như thế nào; gia đình cần có thông tin quan trọng về những vấn đề này và đặt kế hoạch quản lý. Gia đình cũng có quyền giúp xác định mục tiêu và phương pháp can thiệp nào đáp ứng chặt chẽ nhất nhu cầu của họ cũng như của trẻ, bởi vì để trẻ hoạt động tốt thì gia đình cũng phải hoạt động tốt. Bên cạnh đó, nếu gia đình tham gia tích cực vào quá trình can thiệp thì sẽ có nhiều phạm vi hơn để tổng quát hóa các mục tiêu trị liệu sang môi trường hàng ngày.

Các nhiệm vụ được nêu trong IDEA năm 2004, nhấn mạnh sự cần thiết của sự can thiệp lấy gia đình làm trung tâm cho trẻ nhỏ. Nhưng tất cả các gia đình đều đáng được xem xét như nhau, bất kể con họ ở độ tuổi nào. SLP có trách nhiệm thiết lập một bầu không khí trong đó gia đình cảm thấy rằng họ là đối tác trong sự tiến bộ của trẻ. Một số bảng câu hỏi và công cụ phỏng vấn đã được phát triển để hỗ trợ việc đánh giá môi trường xã hội. Chúng bao gồm Quan sát tại nhà để Đo lường Môi trường (Caldwell & Bradley, 2003), Đo lường Đánh giá Gia đình-III (Skinner, Steinhauer, & Santa-Barbara, 1995), và Phỏng vấn Homelife (Leventhal, Selner-O’Hagan, Brooks-Gunn, Bingenheimer và Earls, 2004).

Ngoài ra, có thể hữu ích nếu nhận được một số dấu hiệu về các tương tác xã hội và trải nghiệm xã hội hàng ngày của trẻ. Một số công cụ tiêu chuẩn hóa có sẵn để thu thập loại thông tin này. Thang đo hành vi thích ứng Vineland-II (Sparrow, Cicchetti, & Balla, 2005) là một công cụ được xây dựng đặc biệt tốt, sử dụng định dạng phỏng vấn có cấu trúc và cung cấp các tiêu chuẩn cho các nhóm tuổi từ trẻ sơ sinh đến thanh thiếu niên và từ dân số phổ thông, cũng như dân số khuyết tật. Nhà lâm sàng có thể thực hiện đánh giá này với sự đào tạo được cung cấp trong sổ tay hướng dẫn. Trong đánh giá đa ngành, nhân viên xã hội, nhà giáo dục đặc biệt hoặc chuyên gia sức khỏe tâm thần có thể thực hiện đánh giá này. Một số công cụ bổ sung đã được phát triển gần đây để hỗ trợ đánh giá các kỹ năng giao tiếp xã hội, bao gồm CCC-2 US Edition (Bishop, 2006), Social Responsiveness Scale-Second Edition (SRS-2; Constantino, 2012), Điểm mạnh và khó khăn Bảng câu hỏi (SDQ; Goodman, 1997), Bảng câu hỏi giao tiếp xã hội (Rutter, Bailey, & Lord, 2003), và Kiểm kê sử dụng ngôn ngữ (O’Neill, 2007). Một số công cụ này coi sự thay đổi là bình thường trong hành vi xã hội (SDQ, SRS-2), trong khi những công cụ khác xem xét cụ thể về các hành vi xã hội không điển hình có thể là dấu hiệu của ASD (CCC-2 U.S. Edition, SDQ).

Đánh giá tình trạng cảm xúc có thể cần sự tham gia của nhân viên xã hội, nhà tâm lý học hoặc bác sĩ tâm thần. SLP có thể giới thiệu những chuyên gia này khi sự điều chỉnh hành vi và cảm xúc của trẻ, như được quan sát thấy trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ lượng giá hoặc được báo cáo bởi người giới thiệu, dường như gây ra vấn đề hoặc cản trở giao tiếp thành công. Khi đưa ra những nhận xét này, điều khôn ngoan là hãy nhớ rằng không có khả năng giao tiếp là một tình trạng rất khó chịu. Sự phát triển của các hành vi không tốt thường là kết quả của việc không thể bày tỏ mong muốn và nhu cầu. Mặc dù việc đánh giá các khía cạnh cảm xúc và hành vi của chứng rối loạn ngôn ngữ là quan trọng trong việc lập kế hoạch khắc phục và phát triển kế hoạch phục vụ gia đình, nhưng một lần nữa chúng ta cần phải cẩn thận khi đi đến kết luận và cẩn thận để không nhầm lẫn giữa nguyên nhân và kết quả. Rối loạn ngôn ngữ của trẻ có thể là kết quả của rối loạn cảm xúc. Điều này đặc biệt đúng trong các trường hợp câm có chọn lọc, khi trẻ từ chối nói trong một số tình huống nhất định, mặc dù chúng nói với người khác (Muris & Ollendick, 2015; Shu-Lan Hung, Spencer, & Dronamraju, 2012). Nhưng ít nhất có khả năng là những khó khăn trong giao tiếp đã gây ra rối loạn hành vi hoặc cảm xúc được quan sát thấy ở một đứa trẻ khiếm khuyết về ngôn ngữ.

Điều quan trọng cần ghi nhớ là đánh giá vai trò của sự khác biệt về văn hóa và ngôn ngữ bao gồm việc phỏng vấn những người chăm sóc về kỳ vọng của họ đối với giao tiếp, và phong cách giao tiếp của chính họ. Trong một số trường hợp, có thể cần một thông dịch viên nói ngôn ngữ của gia đình.