TÌM HIỂU VỀ ĐÀO TẠO Y KHOA

Khác với các ngành nghề khác, việc chào mời từ các chương trình hợp tác đào tạo y khoa hay đi du học từ cấp đại học khá ít ỏi. Đào tạo y khoa mất thời quá dài và chi phí quá lớn. Các chương trình sau đại học, có nhiều hơn, nhưng thường chỉ khi có học bổng thì các ứng viên người Việt mới đi học. Tuy nhiên, nếu là chương trình Master hay PhD thì chỉ đào tạo học thuật và nghiên cứu. Việc hành nghề lại đòi hỏi các yếu tố khác.

Có hai chương trình liên quan nhóm ngành sức khỏe trong 5-7 năm qua mà mình biết thì chỉ liên quan điều dưỡng- chủ yếu cao đẳng (nhưng rất lộn xộn giữa 2 hay 3 năm) cho thị trường Nhật và Đức. Dù sao cũng là nhóm ngành sức khỏe nên tính chất đào tạo, đối chiếu bằng cấp cũng rất phức tạp.

Nhưng xét về học thuật, việc chúng ta nắm bắt được những tiêu chí đào tạo của các chương trình tiên tiến hẳn là cần thiết. Đối với bác sĩ y học cổ truyền, việc Bộ Y tế ra các văn bản dựng rào cản trong việc mở rộng phạm vi hoạt động phát triển chuyên môn nên được những người mới bước chân vào giảng đường y khoa cũng như các bạn đang và đã học hiểu về vị trí của mình trong bức tranh toàn cảnh, không nên coi là ngăn cấm đơn thuần. Các bạn cần hiểu rõ về việc đào tạo 4 năm- 6 năm- hay các khái niệm bác sĩ y khoa/ các chuyên viên, kĩ thuật viên trong các ngành cận y/ khái niệm bằng hành nghề… và không nên giữ cái nhìn hạn hẹp về những gì chúng ta nhìn thấy hiện tại trong các cơ sở y tế công lập. Hệ thống quản lý hành chính cũng như đào tạo của chúng ta hiện chưa theo kịp bức tranh can thiệp đa ngành cũng như khái niệm chăm sóc y khoa hiện đại. Ví dụ khái niệm bác sĩ nội trú dưới đây hoàn toàn khác bác sĩ nội trú ở VN (theo hệ thống Pháp cũ thì phải).

Chương trình USMLE giúp các bạn cơ hội thực tập bác sĩ nội trú tại Mỹ

CHƯƠNG TRÌNH USLME HỌC VÀ THỰC TẬP NỘI TRÚ DÀNH CHO BÁC SĨ VIỆT NAM: CỦA KAPLAN MEDICAL

Tại Mỹ, New Zealand và rất nhiều quốc gia phát triển khác trên thế giới như Canada, Úc, … chính phủ luôn dành một tỷ lệ rất cao từ ngân sách cho đầu tư và chăm sóc y tế, sức khỏe của toàn dân, trong đó ngoài việc đào tạo các sinh viên ngành Y, thì việc nâng cao tay nghề cho các bác sĩ là một hướng chủ đạo do các nhu cầu ngày càng cao của bệnh nhân. 

Ngoài việc học trong nước, việc chọn du học ngành Y để tiếp cận, nâng cao các kiến thức y học tiên tiến, thực hành và làm việc tại nước phát triển không chỉ là xu hướng của sinh viên, bác sỹ Việt Nam mà còn là của hàng ngàn sinh viên Y khoa, bác sĩ trên toàn thế giới. 

Để đáp ứng yêu cầu này, KAPLAN MEDICAL – Một Tập đoàn Giáo dục chuyên về Y khoa, trụ sở tại Mỹ – cung cấp cho các Bác sĩ chương trình học và Trao Đổi Văn Bằng Bác Sĩ Mỹ. Chương trình có tên gọi là United States Medical Licensing Examination (sau đây gọi tắt là USMLE).

Việc học bác sĩ hay thực hành tay nghề, trao đổi văn bằng bác sĩ ở Mỹ là con đường giúp các Bác sĩ Việt Nam có cơ hội tiếp cận kiến thức tiên tiến của thế giới và thực tập nghề bác sĩ tại các nước phát triển. Chương trình USMLE này mang đến cơ hội định cư và hành nghề bác sĩ tại Newzealand và Mỹ sau khi các bạn vượt qua kỳ thi tuyển chọn của chương trình USMLE.

USMLE tạo ra cơ hội công bằng cho tất cả các bác sĩ tốt nghiệp ở bên ngoài nước Mỹ như Việt Nam một hướng học, thực hành và thành công mới. Kaplan Medical (KM) gần như là tổ chức giáo dục chuyên về Y khoa và xếp hàng đầu trong việc chuẩn bị kỳ thi USMLE ở Mỹ, New Zealand và các nước trên thế giới.

Kaplan Medical giúp các Bác sĩ Việt Nam đạt được điểm số cao nhất có thể trong các kỳ thi của USMLE.
– 75%, tức là 3 trong 4 Bác sĩ luyện thi USMLE ở Mỹ đã chọn Kaplan Medical cho việc học của mình
– KM cung cấp các Giáo trình chuyên cho chương trình USMLE, được chấp thuận của
•    National Board of Medical Examiners (NBME)
•    Educational Commission for Foreign Medical Graduates (ECFMG)
•    Federation of State Medical Boards (FSMB)
– Hướng dẫn học và thực hành trực tiếp từ những chuyên gia luyện thi USMLE.
– KM có Chương trình học trực tuyến dành cho tất cả học viên rất linh hoạt.

Kaplan Medical là chọn lựa đầu tiên cho các bạn khi thực hiện việc thi USMLE. KM đã giúp hàng ngàn sinh viên và bác sĩ đạt kết quả tốt tại các kỳ thi với điểm số cao và tiếp tục thành công trong sự nghiệp.

Kaplan Medical đứng đầu trong việc chuẩn bị kỳ thi USLME, chương trình học và đào tạo theo sát tiêu chuẩn cao và khó khăn của ngành Y, KM cam kết giúp bạn đạt được điểm số cao nhất trong các kỳ thi của USMLE, và cung cấp cho bạn những thông tin để đảm bảo việc xin thực tập bác sĩ thường trú.

Chứng nhận y khoa tại Newzealand
 
Kaplan Medical: một sự đảm bảo cho việc thực tập bác sĩ thường trú tại Newzealand
Sau khi các bạn vượt qua kỳ thi USMLE Step 1 và Step 2 CK, bạn đã được đảm bảo tham dự kỳ thi NZREX Clinical. Các bạn phải có Anh ngữ tương đương IELTS 7.5 cho phần nghe & nói, IELTS 7.0 cho phần thi đọc – viết.

Sau khi bạn hoàn thành hai kỳ thi Step 1 và Step 2 CK, bạn sẽ tham gia kỳ thi NZREX để hành nghề y ở New Zealand. Nếu bạn muốn đăng ký cho việc thực tập thường trú tại Mỹ thì bạn phải tham gia 4 kỳ thi. Step 2 CS và Step 3 chỉ  tổ chức tại Mỹ.

Về Chứng nhận Y khoa tại Mỹ
Vài nét về các kỳ thi USMLE: sẽ có tất cả 3 bước thực hiện

Step 1: Tham dự kỳ thi trắc nghiệm gồm 336 câu hỏi. Thi trên máy tính, thời gian thi là suốt 8 giờ (có một tiếng cho giải lao), bài thi gồm 8 môn về khoa học cơ bản trong ngành Y.

Step 2 CK: (CK: Clinical Knowledge – kiến thức lâm sàng) bao gồm 370 câu hỏi trắc nghiệm (9 giờ thi), bài thi đánh giá về những kiến thức bệnh lý lâm sàng cơ bản nhất của các bạn

Step 2 CS (CS: Clinical Skills – kỹ năng lâm sàng) đánh giá kỹ năng ghi nhận thông tin từ khoảng 12 bệnh nhân cho bạn thực nghiệm, khám bệnh, ghi nhận kết quả bệnh, giải thích và truyền đạt kết quả lại cho bệnh nhân.

Step 3: đây là bước quan trọng, thi kéo dài trong 2 ngày để đánh giá toàn bộ kiến thức và khả năng điều trị bệnh nhân khi bạn không có bác sĩ giám sát.

9/3/2022 Mấy hôm nay lại xuất hiện tranh luận về việc chọn tổ hợp môn học để xét điểm đầu vào đào tạo Y khoa. Có một số thông tin

https://vnexpress.net/truong-y-cac-nuoc-tuyen-sinh-nhu-the-nao-4436285.html

Bài này viết không tốt lắm, thông tin không có độ phân tích tốt, chỉ mô tả bề mặt, lan man- vì đề tài đang bàn luận là về đối tượng tốt nghiệp THPT. Thậm chí có cả Nguyễn Văn Tuấn từ Australia, một GS đã làm việc nhiều ở VN những năm 2000, và có nhiều cáo buộc về liêm chính, nhưng ở mức độ mô tả thì cũng không cụ thể. Có thể là do lỗi của nhà báo, chứ không phải GS Tuấn.

https://vnexpress.net/cach-tuyen-sinh-y-khoa-o-australia-4435790.html

Bài này tốt hơn rất nhiều, phân tích được mục đích của các tiêu chí tuyển sinh.

Một lý giải về phân loại hành vi nghiện phi chất trên DSM5

Charles P. O’Brien, M.D., Ph.D. – Chủ tịch Bộ phận chuyên trách của Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ DSM về Rối loạn Lạm dụng Chất gây nghiện

Trong DSM-5, lần đầu tiên, Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ đã thêm chứng nghiện phi chất- còn gọi là nghiên hành vi- vào danh mục các rối loạn nghiện. Vào tháng 5 năm 2013, Rối loạn cờ bạc được nhóm lại trong phần Rối loạn sử dụng chất gây nghiện. Cờ bạc xuất hiện trong các phiên bản trước của DSM dưới dạng “Cờ bạc bệnh lý” được nhóm với các rối loạn kiểm soát xung động. Do đó, hiệu quả chính của bản sửa đổi năm 2013 là thay đổi tên và cách phân nhóm. Các tiêu chí đã được sửa đổi một chút theo ngưỡng triệu chứng thành bốn triệu chứng trở lên.

Nghiên cứu gần đây về cờ bạc đã tiết lộ một quá trình lâm sàng tương tự như nghiện ma túy, và các phát hiện hình ảnh não gần đây cho thấy, các dấu hiệu liên quan đến cờ bạc bệnh lý kích hoạt cấu trúc phần thưởng trong não giống như cách nghiện ma túy. Ủy ban đã cho rằng nghiện là một căn bệnh của hệ thống khen thưởng, và cờ bạc kích hoạt các cấu trúc phần thưởng của não để củng cố các hành vi cờ bạc cưỡng bức. Do đó, một hành vi kích hoạt hệ thống khen thưởng có thể có tác dụng tương tự như một loại ma túy.

Nhóm làm việc coi các hành vi khác là những ứng viên tiềm năng để đưa vào DSM nhưng vẫn duy trì chính sách nhất quán yêu cầu dữ liệu trong tài liệu được đánh giá ngang hàng về bằng chứng để đưa vào. Một chứng rối loạn hành vi khác, chơi game trên Internet quá mức- nghiện game- , đã được xem xét nghiêm túc để đưa vào vì có hơn 200 ấn phẩm về “Nghiện Internet”. Tuy nhiên, các bài báo thiếu các tiêu chí chẩn đoán nhất quán. Hầu hết các trường hợp đã được báo cáo ở các dân số châu Á như Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản. Cuối cùng nhóm đã quyết định bổ sung “Rối loạn chơi game trên Internet” trong phần 3 (Phụ lục) với mô tả về những nghiên cứu trong tương lai sẽ được yêu cầu để có chứng rối loạn này sau đó được thêm vào nhóm chính. Người ta hy vọng rằng việc bổ sung rối loạn chơi game trên Internet vào Phụ lục của DSM-5 sẽ kích thích nhiều nghiên cứu hơn và có thể dẫn đến việc đưa nó vào phần chính của phân loại trong một bản sửa đổi trong tương lai.

Các rối loạn hành vi khác đã được xem xét. Chúng bao gồm nghiện tình dục, nghiện thực phẩm, nghiện tập thể dục và nghiện mua sắm. Việc xem xét bất kỳ rối loạn nào mà chưa được hỗ trợ bởi nhiều nghiên cứu trong các tài liệu được đánh giá ngang hàng, thì có thể tham khảo sách “Nghiện hành vi: Tiêu chí, Bằng chứng và Điều trị”, đã giải quyết rất chi tiết nhiều chứng rối loạn này.

Có lẽ, theo bài viết này, ngoài nghiên game thì nghiện tập thể dục cũng cần chú ý tới.

Một tiền đề của chức năng điều hành

Từ năm học 2018, phân môn Tâm thần bắt đầu triển khai giảng dạy cho sinh viên năm 3. Sau thất bại thuyết phục bên bộ môn Y tế công cộng để kết hợp dạy về Tâm lý học, như là một môn y học cơ sở (vì chức năng tâm lý có tương quan như thể sinh lý vậy), tôi thấy may mắn vì học viện triển khai dạy chương trình module. Tôi biết mình có thể lợi dụng chương trình này về thời gian, và hi vọng tạo được một liên hệ đa ngành cho học thuật. Điều thứ 1 thì đạt được, điều thứ 2 chỉ đạt được với bộ môn Sinh lý.

Tài liệu lúc đầu được mang giảng dạy là giáo trình Tâm lý Y học của thày Nguyễn Sinh Phúc chủ biên, là giáo trình được thực hiện ở Bộ môn Y tế công cộng của Đại học Y Hà Nội. Thày cũng đã từng chia sẻ với tôi về giáo trình này (‘chỉ viết được thế, vì viết khác đi thì các giảng viên bên Đại học Y Hà Nội không dạy được’). Đến 2020 thì tôi soạn lại và giảng dạy nội dung dựa theo tác giả Roberts Feldman. Khi chuyển sang tác giả này, tôi có cập nhật phần tâm lý thần kinh theo các tác giả có chất ‘y khoa’ hơn, nhằm đáp ứng yêu cầu đào tạo bác sĩ y khoa. Tuy nhiên, khi đi sâu về chức năng điều hành tôi lại thấy các tài liệu trích dẫn một tác giả Liên xô cũ đã được trích trong phần cơ sở sinh lý của giáo trình Tâm lý y học. Vì vậy, xin trích lại quan điểm của A.R. Luria (1902- 1977) – được nêu trong giáo trình:

Dựa theo vai trò của tổ chức não đối với các hoạt động tâm lý, Luria – một nhà tâm lý học thần kinh Xô viết nổi tiếng đã chia não thành 3 khối chức năng chính:

– Khối thứ nhất: khối năng lượng

Thành phần của khối này bao gồm phần cao của thân não, thể lưới, nền giữa củ não sinh tư, vùng limbic và hồi hải mã.

Vai trò của khối này là bảo đảm trương lực thường xuyên và trạng thái hưng phấn của vỏ não. Chỉ trong điều kiện tối ưu của trạng thái hưng phấn, vỏ não mới có thể tiếp nhận thông tin từ bên ngoài vào, huy động trong “kho” trí nhớ những mối liên hệ, biểu tượng cần thiết, lập chương trình hành động, kiểm tra diễn biến của các hành động đó và tự điều chỉnh, nhằm đạt được mục đích đề ra.

Khối năng lượng có vai trò rất quan trọng trong đảm bảo, duy trì năng lượng hoạt động của vỏ não, song bản thân nó lại chịu sự điều khiển của vỏ não, trước hết là của thùy trán.

– Khối thứ hai: khối tiếp nhận, tu chỉnh và giữ gìn thông tin.

Khối này nằm ở phía sau hai bán cầu đại não, bao gồm thùy chẩm, thùy đỉnh và thùy thái dương. Các thùy não là bộ máy phân tích, tổng hợp thị giác, thính giác và cảm giác da – một phần của chức năng vận động.

– Khối thứ ba: khối lập chương trình, điều chỉnh và kiểm tra

Khối thứ ba này nằm phía trước của vỏ não, tập trung ở thùy trán, chiếm diện tích gần 1/3 bán cầu đại não và là thành quả sau cùng của quá trình tiến hóa loài người. Đây là phần “non trẻ” nhất của não. Chức năng chính của khối này là lên chương trình, điều khiển và kiểm tra các hoạt động tâm lý.

Như vậy, khối chức năng thứ 3 của Luria thực sự là một tiền đề cho chức năng điều hành mà chúng ta đang phát triển nghiên cứu hiện nay.

Để hiểu hơn về Luria, mình có lược dịch một tiểu sử ( viết ởi Michael Cole) như sau:

Alexander Luria sinh ra ở Kazan, một thị trấn cũ của Đại học Nga ở phía đông Moscow. Ông vào Đại học Kazan năm 16 tuổi và lấy bằng năm 1921 ở tuổi 19. Khi còn là sinh viên, ông đã thành lập Hiệp hội Phân tâm học Kazan, và lên kế hoạch theo đuổi sự nghiệp tâm lý học. Nghiên cứu đầu tiên của ông đã tìm cách thiết lập các phương pháp khách quan để đánh giá các ý tưởng của Freud về những bất thường của suy nghĩ và ảnh hưởng của sự mệt mỏi đối với các quá trình tâm thần.

Năm 1923, việc sử dụng các thước đo thời gian phản ứng để nghiên cứu các quá trình suy nghĩ trong bối cảnh công việc đã giúp ông có được một vị trí tại Viện Tâm lý học ở Moscow, nơi ông đã phát triển một quy trình chẩn đoán tâm lý mà ông gọi là “phương pháp vận động kết hợp” để xem xét các quá trình suy nghĩ cá nhân. Phương pháp này đã được áp dụng cho nhiều trường hợp xảy ra tự nhiên và do thực nghiệm gây ra, cung cấp một hệ thống mô hình cho chẩn đoán tâm thần, đã giành được sự chú ý rộng rãi ở phương Tây khi nó được xuất bản, trong khi lý thuyết phân tâm học vốn bị chính quyền Xô Viết không tán thành.

Năm 1924, Luria gặp Lev Semionovich Vygotsky, người có ảnh hưởng quyết định đến việc định hình sự nghiệp tương lai của ông. Cùng với Vygotsky và Alexei Nikolaivitch Leontiev, Luria đã tìm cách thiết lập một phương pháp tiếp cận tâm lý học có thể cho phép họ “khám phá cách các quá trình tự nhiên như trưởng thành về thể chất và các cơ chế cảm giác gắn bó với nhau với các quá trình được xác định về mặt văn hóa để tạo ra các chức năng tâm lý của người lớn” (Luria , 1979, trang 43). Vygotsky và các đồng nghiệp của ông gọi cách tiếp cận mới này là tâm lý học “văn hóa”, “lịch sử” và “công cụ”. Ba nhãn này đều chỉ ra vị trí trung tâm của trung gian văn hóa trong việc cấu thành các quá trình tâm lý cụ thể của con người, và vai trò của môi trường xã hội trong việc cấu trúc các quá trình mà trẻ em thích hợp với các công cụ văn hóa của xã hội chúng trong quá trình bản thể học. Người ta đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò của ngôn ngữ, “công cụ của công cụ” trong quá trình này: việc tiếp thu ngôn ngữ được coi là thời điểm then chốt khi sự phát sinh loài và lịch sử văn hóa được hợp nhất để hình thành nên những hình thức tư duy, cảm giác, và hoạt động.

Từ cuối những năm 1920 cho đến khi ông qua đời, Luria đã tìm cách giải thích về tâm lý tổng hợp văn hóa-lịch sử này trong các lĩnh vực khác nhau của tâm lý học. Vào đầu những năm 1930, ông đã dẫn đầu hai cuộc thám hiểm đến Trung Á, nơi ông điều tra những thay đổi trong nhận thức, cách giải quyết vấn đề và trí nhớ liên quan đến những thay đổi lịch sử trong hoạt động kinh tế và trường học. Trong cùng thời gian này, ông đã thực hiện các nghiên cứu về các cặp song sinh giống hệt nhau và là anh em được nuôi dưỡng trong một ngôi trường lớn để khám phá mối quan hệ năng động giữa các yếu tố phát sinh loài và văn hóa-lịch sử trong sự phát triển của ngôn ngữ và tư duy.

Vào cuối những năm 1930, phần lớn để loại bỏ bản thân khỏi tầm nhìn của công chúng do thời kỳ thanh trừng do Stalin khởi xướng, Luria vào trường y, nơi ông chuyên nghiên cứu về chứng mất ngôn ngữ, vẫn tập trung vào mối quan hệ giữa ngôn ngữ và suy nghĩ trong một lĩnh vực chính trị trung lập. . Chiến tranh thế giới 2 bắt đầu khiến kiến ​​thức chuyên môn của ông có tầm quan trọng cực kỳ quan trọng đối với nỗ lực chiến tranh của Liên Xô, và sự phổ biến rộng rãi đáng kinh ngạc của những người bị chấn thương sọ não đã cung cấp cho ông những tài liệu phong phú để phát triển các lý thuyết của mình về chức năng não và các phương pháp khắc phục tổn thương não khu trú. Chính trong thời kỳ này, ông đã phát triển phương pháp tiếp cận có hệ thống đối với não bộ và nhận thức mà người ta gọi là kỷ luật tâm lý học thần kinh. Trung tâm trong cách tiếp cận của ông là niềm tin rằng “để hiểu được nền tảng của não bộ cho hoạt động tâm lý, người ta phải chuẩn bị để nghiên cứu cả bộ não và hệ thống hoạt động” (1979, trang 173). Sự khăng khăng này liên kết cấu trúc và chức năng của não với môi trường gần, được tổ chức về mặt văn hóa, cung cấp sợi dây liên tục giữa các phần đầu và sau trong sự nghiệp của Luria.

Sau chiến tranh, Luria tìm cách tiếp tục công việc của mình trong lĩnh vực tâm lý thần kinh. Kế hoạch của anh ta bị gián đoạn trong vài năm khi anh ta bị loại khỏi Viện của phẫu thuật thần kinh trong một thời kỳ đàn áp chống ký hiệu đặc biệt độc hại. Trong thời gian này, ông theo đuổi sở thích khoa học của mình thông qua một loạt các nghiên cứu về sự phát triển của ngôn ngữ và tư duy ở trẻ em chậm phát triển trí tuệ. Vào cuối những năm 1950, Luria được phép quay trở lại nghiên cứu tâm lý học thần kinh, ngành mà ông theo đuổi cho đến khi qua đời vì bệnh suy tim năm 1977. Trong những năm ngay trước khi qua đời, ông đã trở lại với ước mơ đầu tiên là xây dựng một tâm lý học thống nhất. Ông đã xuất bản hai nghiên cứu điển hình, một nghiên cứu về một người đàn ông có trí nhớ phi thường và ngu ngốc (Luria, 1968), nghiên cứu còn lại về một người đàn ông bị chấn thương sọ não (Luria, 1972). Hai nghiên cứu điển hình này minh họa sự pha trộn giữa phương pháp tiếp cận cổ điển, thực nghiệm với phương pháp tiếp cận lâm sàng và phương pháp điều trị, một sự tổng hợp được coi là mô hình cho khoa học nhận thức cuối thế kỷ 20.

Truyền đạt khoa học cho các nhà hoạch định chính sách: sáu chiến lược để thành công

Việc đặt ra nhiệm vụ truyền đạt như tiêu đề cho bài viết thật thú vị. Trong rất nhiều tình huống ở VN, đặc biệt trong đại dịch này, rất nhiều phản biện từ nguồn khác nhau đi kèm phàn nàn về tính quan liêu và tính thiếu khoa học của bộ máy chính quyền, (tất nhiên là kèm theo nhiều vấn đề khác- nhưng đó là những vấn đề “dưới mặt bàn”), nhưng chúng ta, những người làm khoa học, cũng nên nghiêm túc kiểm điểm bản thân xem chúng ta đã có tính thuyết phục đến đâu. Vì vậy tôi dịch bài viết ở đây, để nhấn mạnh một chức năng tâm lý cơ bản của con người, ” tính thuyết phục”, mà nó cần được rèn luyện nếu mỗi chúng ta mong muốn phát triển bản thân. Vì thế, tôi hi vọng những chiến lược được các tác giả đề ra ở đây, vượt ra ngoài khuôn khổ của việc hướng dẫn các nhà khoa học ở tầm tác động đến chính sách [các bạn cũng nên biết, “chính trị” đã là một ngành học ở cấp độ cử nhân, và các bạn trẻ VN đã đăng kí học rồi nhé, ít nhất mình biết 2 bạn, 1 bạn sinh năm 1999 học ở Canada, một bạn sinh năm 2003 học ở Anh, chứ không chỉ là chủ đề trừu tượng], sẽ hữu ích khi chúng ta muốn thuyết phục ai đó.

Bài viết gốc ở đây:

https://www.nature.com/articles/d41586-019-02372-3?fbclid=IwAR1Btiy8evepqISeqlR-_2np1xkbvQ5H2o3gEiT39RWz6M1e5PLXnuOJP-U

Hannah Safford và Austin Brown cho biết các nhà khoa học có thể cải thiện cách họ thông báo cho các chính trị gia và các nhà hoạch định chính sách khác về cách đưa ra quyết định.

Greta Thunberg, một nhà hoạt động môi trường đến từ Thụy Điển, nói chuyện với các chính trị gia, giới truyền thông và khách mời tại Nhà Quốc hội về khí hậu.

Bất kể các nhà khoa học làm việc chăm chỉ như thế nào, tác động của chúng ta hầu như sẽ luôn bị giới hạn trong giới học thuật trực tiếp của chúng ta nếu kết quả của chúng ta không bao giờ thu hút sự chú ý của những người có quyền lực tác động lên chúng. Những người này thường là các nhà hoạch định chính sách – các quan chức địa phương, tiểu bang hoặc trung ương, những người viết luật và quy định, lập ngân sách và điều hành cộng đồng.

Nhưng sự hợp tác hiệu quả đòi hỏi sự giao tiếp mạnh mẽ. Thế giới chính sách có thể khó điều hướng. Các thể chế dường như không thể xuyên thủng và việc ra quyết định thường không rõ ràng. May mắn thay, một số chiến lược đơn giản có thể giúp các nhà khoa học giao tiếp hiệu quả với các nhà hoạch định chính sách.

Các chiến lược để thành công

1. Biết về người bạn muốn tiếp cận. Giao tiếp với các quan chức cấp cao nhất – chẳng hạn như thống đốc bang hoặc thượng nghị sĩ Hoa Kỳ – không phải lúc nào cũng là cách hiệu quả nhất để thúc đẩy thay đổi. Có lẽ nghiên cứu của bạn cho thấy rằng các cống thoát nước mưa tràn đang gây hại cho hệ sinh thái gần đó. Một vấn đề địa phương như vậy không có khả năng tăng cao trong danh sách ưu tiên của một thượng nghị sĩ, nhưng lại nằm trong tầm giám sát của cơ quan bảo vệ môi trường tiểu bang hoặc hội đồng giám sát quận của bạn.

Các đối tác tốt nhất của bạn thậm chí có thể ở bên ngoài chính phủ. Các tổ chức phi lợi nhuận, nhóm ngành, tổ chức vận động chính sách và các công ty thuộc khu vực tư nhân không thực hiện chính sách công như vậy, nhưng chắc chắn định hình cuộc tranh luận. Nếu bạn không chắc mình cần liên hệ với ai, hãy hỏi xung quanh! Văn phòng quan hệ chính phủ của trường đại học và các đồng nghiệp trong lĩnh vực của bạn có thể chỉ cho bạn đi đúng hướng.

2. Có khuyến nghị rõ ràng và có thể hành động. Việc cung cấp các đề xuất cụ thể giúp khán giả của bạn dễ dàng hành động hơn. Chỉ ra rằng nhiều bộ sạc hơn sẽ hỗ trợ nhu cầu ngày càng tăng đối với xe điện là một khởi đầu tốt, nhưng việc giải thích chính xác vị trí và số lượng cần thiết sẽ hữu ích hơn. Tính cụ thể cũng chuẩn bị cho bạn để bảo vệ các đề xuất của mình bằng cách buộc bạn phải suy nghĩ thấu đáo các chi tiết.

Đề xuất của bạn phải khả thi. Mọi cơ quan chính phủ đều bị ràng buộc bởi sứ mệnh và ngân sách của mình. Cố gắng hết sức để đề xuất các hành động thuộc thẩm quyền của đối tác mục tiêu của bạn.

Cuối cùng, hãy nhớ rằng đưa ra các khuyến nghị không giống như vận động. Một trong những vai trò có giá trị nhất mà một nhà khoa học có thể có là đưa ra những ưu và nhược điểm của các lựa chọn chính sách khác nhau. Trong khi một người vận động thường khuyến khích một nhà hoạch định chính sách “làm Y”, thì một nhà khoa học có thể dẫn chứng những nghiên cứu tốt nhất hiện có để giải thích rằng, “Nếu bạn làm Y, rất có thể là Z sẽ mang lại kết quả”.

3. Tổng hợp lại ý tưởng của bạn. Bài báo được đánh giá ngang hàng là đơn vị “tiền tệ” của lĩnh vực khoa học, nhưng nó sẽ không giúp người khác hiểu rõ về chính sách. Một khán giả mới yêu cầu một định dạng mới – một định dạng dễ tiếp cận và dễ hiểu.

Cân nhắc tổng hợp các phát hiện và khuyến nghị chính của bạn thành một bản tóm tắt chính sách dài khoảng hai trang có thể được phân phối dễ dàng trực tiếp hoặc trực tuyến. Việc tổng hợp lại ý tưởng của bạn thành một blog có thể xuất bản hoặc bài viết quan điểm cũng hữu ích khi bạn đang cố gắng tiếp cận nhiều đối tượng hơn.

4. Bài viết tốt. Các cuộc trò chuyện và thuyết trình là những cách tuyệt vời để giới thiệu một chủ đề, nhưng các nhà hoạch định chính sách sẽ muốn có một sản phẩm bằng văn bản để phản ứng hoặc chia sẻ với đồng nghiệp.

Tính có cấu trúc, sự ngắn gọn và rõ ràng quan trọng hơn sự dí dỏm hay văn phong khi viết khuyến nghị chính sách. Nêu những điểm chính của bạn trước, sau đó cung cấp thêm lời giải thích. Hãy chắc chắn rằng có một câu rút ra rõ ràng trong đoạn đầu tiên. Thêm tiêu đề vào các phần riêng biệt và sử dụng các dấu hiệu trực quan, chẳng hạn như dấu đầu dòng, để thu hút sự chú ý vào các điểm chính. Xác định các thuật ngữ kỹ thuật và chú thích các từ viết tắt.

Trên hết, hãy nhờ người khác đọc bài viết của bạn. Truyền đạt khoa học của bạn cho bạn bè (đặc biệt là những người không phải chuyên gia) là cách tốt nhất để truyền đạt khoa học của bạn cho các nhà hoạch định chính sách tốt hơn.

5. Chọn thời điểm. Lựa chọn chiến lược thời điểm tham gia sẽ làm tăng cơ hội để ý tưởng của bạn lọt vào tai người tiếp thu. Lịch bầu cử và lập pháp có thể giúp bạn chọn thời điểm tốt. Các cuộc họp với các quan chức được bầu có xu hướng hiệu quả hơn nhiều vào đầu nhiệm kỳ (khi các ưu tiên chính sách đang được đặt ra) so với cuối nhiệm kỳ.

Khi nghi ngờ, hãy tham gia sớm. Vào thời điểm một dự luật được đưa ra để bỏ phiếu hoặc một quy tắc đang trong giai đoạn cuối cùng, hầu hết các nhà hoạch định chính sách sẽ thảo luận về nó trong nhiều tháng hoặc lâu hơn. Ngay cả đầu vào đáng tin cậy cao cũng sẽ không thể thay đổi ý kiến. Tìm kiếm các bản tin và podcast có thể giúp bạn nhận biết khi nào các chủ đề bạn quan tâm sắp được tranh luận – và nói chuyện với các nhà lập pháp trước khi điều này xảy ra. Gửi ý kiến ​​về các quy tắc dự thảo và tham gia vào các hội thảo của các bên liên quan khi những quy tắc đó được đưa ra.

Các sự kiện hiện tại có thể mang lại nhiều cơ hội để thăng tiến công việc của bạn. Giá trị của “cửa sổ chính sách” do tin tức tạo ra đã được ghi lại đầy đủ. Nhận biết những gì đang diễn ra trên thế giới và liên kết nghiên cứu của bạn với nó.

6. Duy trì và tăng cường sự tham gia của bạn. Hỗ trợ xây dựng cần có thời gian và nỗ lực liên tục. Hợp tác với những người và tổ chức có chương trình làm việc tương tự như chương trình của bạn là một cách tuyệt vời để củng cố tình huống tập thể của bạn. Nó cũng rất quan trọng để theo dõi. Các đề xuất chính sách phát triển khi chúng được xem xét, tranh luận và lấy ý kiến ​​công chúng. Khi bạn đã thiết lập mối quan hệ với một người tham gia chính, hãy kiểm tra định kỳ để cập nhật các thay đổi và cập nhật các đề xuất của bạn cho phù hợp. Như một phần thưởng, giữ liên lạc thể hiện mức đầu tư giúp bạn khác biệt với đám đông. Do đó, điều này làm tăng khả năng một nhà hoạch định chính sách sẽ chủ động liên hệ với các câu hỏi, khiến bạn thậm chí còn dễ dàng nắm được thông tin khi các chính sách tiến triển.

Vô đề 2

https://thanhnien.vn/the-gioi/nha-khoa-hoc-giup-cac-nuoc-mua-vac-xin-astrazeneca-gia-re-1439841.html

Vì đã đọc lịch sử điều trị Động kinh của Simon Shorvon nên mình vô cùng cảm động khi đọc thông tin này. Cũng đã có thêm những nguồn tin đáng tin cậy xác nhận về thông tin nêu trên.

Đồng thời cũng cảm thấy bản thân mình chưa làm được bao nhiêu.

Ngày hôm nay, mình còn nhận được món quà to lớn (cả nghĩa bóng và nghĩa đen) từ Thảo Chíp Sóc. Mà lẫn này chắc là lần thứ trên 10 rồi, bạn viện trợ cho mình vì biết mình bận rộn và hăng say đọc tài liệu, soạn nội dung học tập cho hoạt động Can thiệp đa ngành- điều mà bạn cũng rất tâm huyết.

Mình cũng nhớ đến một kỉ niệm:

đây là một phần của một bức thư mà một sinh viên đã gửi cho mình tháng 10/ 2020

Hồi đó, mình đã không trả lời lá thư này, vì cảm thấy dường như mình chưa đủ nhiệt huyết như kì vọng của bạn sinh viên đó. Hôm nay đây, mình hi vọng bạn ấy sẽ cảm thấy tin tưởng vào tương lai, khi mà cuộc sống của chúng ta vẫn còn nhiều sự nhiệt huyết và nhiều can đảm để duy trì nhiệt huyết ấy.

Thế nào là chăm sóc y khoa

Chăm sóc là một hành vi chúng ta hay nói đến, với nhiều hình ảnh trực quan, gắn với sức khỏe của đối tượng được chăm sóc- và chúng ta đều biết là sức khỏe bao hàm cả thể chất và tinh thần. Vì thế, tham gia hoạt động chăm sóc có cả những người không có chuyên môn y khoa, rồi đến những người có chuyên môn liên quan đến y khoa (cận y), và tất nhiên là cộng đồng những người hành nghề y ở các mức độ đào tạo và tham gia lâm sàng khác nhau.

Vì hoạt động này liên quan đến sức khỏe một người, nên lẽ dĩ nhiên, nó bao gồm cả hoạt động điều trị.

Tôi chụp ảnh trang viết trên mà không dẫn link vì thấy mình không tranh luận trực tiếp với luận điểm mà nó nêu ra. Trang viết còn chụp ảnh một số quảng cáo nhưng là ảnh cắt (không chụp toàn bộ thông tin) nên tôi không chụp lại. Bài viết xem xét đạo đức của một hoạt động nhưng không thỏa đáng vì:

-Việc xem xét thực hành dựa trên bằng chứng không đảm bảo. Thế nào là “kiếm tiền không rõ ràng”, thế nào là “cái cần nhất”? Bài viết chỉ xem xét một phân tầng điều trị (hiện bộ Y tế mô tả 3 tầng điều trị, thay vì 5 tầng như trước đây, đang thực hiện ở SG) nên thậm chí không xem xét được cả quan hệ trong 3 tầng này theo hướng dẫn của Bộ. Đừng nghĩ, mô tả 3 tầng điều trị thì nó là 3 tầng trong 1 tòa nhà.

-Việc xem xét y đức không phải là đối chiếu với 1 quy ước, dù là không thành văn, mà là 1 lập luận, bởi tính nhân văn của nó là sự tôn trọng con người. Việc xem xét lập luận y đức, tùy tác giả, có thể là 4-6 khía cạnh, nhưng tôi thì tuân theo xem xét 4 khía cạnh (theo Chương trình ngôn ngữ trị liệu Nhi của ĐHY Phạm Ngọc Thạch): không gây hại, liêm chính, công bằng và tôn trọng phẩm giá.

-Không xét đến tầng 3 của phân tầng điều trị, nơi mà chỉ các nhà chuyên môn y, thậm chí là chuyên ngành sâu liên quan đến hồi sức, hô hấp, tim mạch- hãy lưu ý là việc phân tầng thấp hơn là để các chuyên ngành khác, thậm chí các ngành cận y, và thậm chí không có chuyên môn y tham gia, trong bối cảnh dịch bệnh phức tạp. Nhưng nguồn lực đến từ đâu? Nó không phải là tiền? Hãy hiểu nó theo nghĩa kinh tế, không phải là vật lý.

-Khi chỉ chú ý huy động sức người, chúng ta quên mất một vấn đề trực quan, sự chăm sóc của người có chuyên môn sẽ khác người không có chuyên môn…

Trang viết trên đẩy sự xem xét ý đức đến sát ranh giới sống chết, có tác dụng gây áp lực mạnh, vì thế nó càng đòi hỏi mỗi cá nhân phải tự suy ngẫm, nhưng muốn thế, phải có lập luận.

17/9/2021

https://www.facebook.com/plugins/post.php?href=https%3A%2F%2Fwww.facebook.com%2Fpermalink.php%3Fstory_fbid%3D1757016621169631%26id%3D100005839293560&show_text=true&width=500

Bài viết trên của một bạn, mình thấy ghi trong lịch sử là trước kia học Y tế công cộng. Một bài viết mang nặng cảm xúc. Nhưng chúng ta nên xem xét một cách “lập luận hơn”. Bạn nói “bác sĩ là người”, vậy người mang đặc điểm gì?

  • Tiền bạc: là một động lực thúc đẩy của cuộc sống thực- và không chỉ có nó (ví dụ: động viên- xã hội đang ném đá, không động viên?). Nhưng giả sử chỉ xét mỗi tiền bạc, ở đây tính thiếu rất nhiều nguồn lực đầu vào cho 1 một bác sĩ (học 6 năm, thực hành nghề 1,5 năm, – chuyên ngành thêm 1-2 năm/ mà đấy là VN chưa áp đủ tiêu chuẩn ngành của quốc tế, thường mất 9-10 năm có 1 bác sĩ, với chi phí đào tạo cao gấp đôi các ngành học khác cùng trường).
  • Sức chịu đựng: ở đây là ứng phó. Tuy nhiên, trong đoạn này, về giao tiếp chúng ta sai căn bản (sai về mục đích và vì thế, sai về nội dung giao tiếp, chỉ đúng mỗi tương tác thôi), và về ứng phó cũng sai luôn (áp dụng ứng phó vô thức)
  • Ở điểm thứ 3 này, nó cho thấy, chúng ta- bác sĩ- tự lấy đá ghè chân mình. Chúng ta không thay đấng tạo hóa, nên chẳng chắc chắn cứu được chính chúng ta khi mắc bệnh, sao chúng ta cứ gương lá cờ “cứu người” rồi kì vọng họ- bệnh nhân- phải biết ơn chúng ta vì cứu họ? Điểm này mình đã phân tích nhiều năm với sinh viên Y. Vì đặt sai kì vọng như vậy/ do sai về khoa học y học, nên chúng ta quên, chính chúng ta lựa chọn nghề nghiệp này, và trong thực hành nghề, quên mất cần tôn trọng sự lựa chọn của người bệnh, luôn cảm thấy mình ban phát ơn huệ cho họ.

Vì “chăm sóc y khoa”, bao gồm cả các điều trị chuyên sâu, chỉ là một “hỗ trợ có tính chuyên nghiệp sâu sắc ở nhiều mức độ” nhằm đảm bảo tối đa sự sống sinh học và góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của mỗi cá nhân, với quyền lựa chọn của chủ thể.

Phục hồi chức năng tim mạch trong thời đại COVID-19: ‘một con phượng hoàng nảy sinh từ đống tro tàn?’

Ioannis D LaoutarisAthanasios Dritsas, and Stamatis Adamopoulos

Onassis Cardiac Surgery Center, 356 Sygrou Boulevard, Athens 176 74, Greece

Eur J Prev Cardiol. 2021 Jun 28 : zwab116.

Published online 2021 Jun 28. doi: 10.1093/eurjpc/zwab116

Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) báo cáo rằng các dịch vụ phục hồi chức năng luôn nằm trong số các dịch vụ y tế bị gián đoạn nghiêm trọng nhất do cuộc khủng hoảng bệnh Coronavirus 2019 (COVID-19) cho tất cả bệnh nhân có nhu cầu. Có ý kiến ​​cho rằng việc không được tiếp cận với phục hồi chức năng có thể ảnh hưởng đến kết quả sức khỏe, kéo dài thời gian điều trị nội trú và dẫn đến nhập viện có thể phòng ngừa được do các biến chứng sức khỏe. Đại dịch đã làm tăng nhu cầu phục hồi chức năng cho những bệnh nhân bị nhiễm bệnh, những người không khỏe mạnh với căn bệnh này, nhưng cũng cho các nhóm bệnh nhân không COVID-19 như bệnh nhân bị bệnh tim cần phục hồi chức năng tim mạch (CR).

Tuy nhiên, mặc dù đại dịch đã đặt ra những thách thức đáng kể đối với CR cho bệnh nhân nội trú và ngoại trú cần được giải quyết, nhưng nó lại tạo ra cơ hội để thay đổi khả năng tiếp cận và cung cấp dịch vụ CR. Trong ‘giai đoạn COVID-19 cấp tính’ hiện tại, tác động đến CR của bệnh nhân nội trú có liên quan đến việc chuyển nhân viên y tế từ các can thiệp CR sang hỗ trợ bệnh nhân COVID-19. Hơn nữa, trong khi tỷ lệ nhập viện giảm một cách nghịch lý đối với bệnh nhân tim mạch có nguy cơ cao đã được báo cáo (có thể do bệnh nhân ngại đến bệnh viện), các quan sát chưa được công bố của nhóm chúng tôi dường như đồng ý với các báo cáo khác cho thấy rằng bệnh nhân mắc bệnh tim mạch nhập viện phức tạp hơn. Vì vậy, những bệnh nhân nhập viện cuối cùng, đặc biệt là người già và bệnh nhân mắc bệnh đồng mắc, có vẻ yếu hơn và kém chức năng hơn so với thời kỳ trước đại dịch. Do đó, những bệnh nhân này cần phải ở lại bệnh viện lâu hơn để cải thiện tình trạng sức khỏe tổng thể và tình trạng thể chất của họ, đặc biệt quan trọng trong bối cảnh thiếu giường bệnh, tăng yêu cầu đối với bệnh nhân nội trú CR. Hơn nữa, vì những hạn chế của đại dịch, gần như tương tự như những bệnh nhân bị nhiễm COVID-19, những bệnh nhân này thiếu sự hỗ trợ và yên tâm của gia đình trong quá trình đòi hỏi nhiều thời gian để phục hồi chức năng. Bệnh nhân cũng lo sợ về nguy cơ lây nhiễm trong khi đôi khi họ bày tỏ sự đau đớn vì bị bỏ mặc vì họ nghĩ rằng có thể ưu tiên cho những bệnh nhân bị nhiễm coronavirus. Do đó, cần đặc biệt chú ý đến tình trạng cá nhân của bệnh nhân và cảm giác căng thẳng, lo lắng (lo lắng, sợ hãi) hoặc trầm cảm (tâm trạng thấp, buồn bã) mà họ có thể trải qua sâu sắc. CR nội trú nên tập trung vào giáo dục rèn luyện sức khỏe, tự quản lý, điều chỉnh hành vi, hoạt động sinh hoạt hàng ngày và hỗ trợ tâm lý xã hội, nhằm mục đích xuất viện sớm và giảm thiểu tình trạng tái phát.

Đồng thời, CR cho bệnh nhân ngoại trú cũng được thử thách. Mặc dù CR dựa trên luyện tập đã được cấp loại khuyến cáo và mức độ bằng chứng cao nhất (IA), cải thiện khả năng luyện tập và chất lượng cuộc sống, nhưng cũng như các trường hợp nhập viện và bệnh tật, hầu hết các chương trình CR cho bệnh nhân ngoại trú đã ngừng hoạt động. Những hạn chế liên quan đến đại dịch như khoảng cách xa về mặt vật chất, nguồn nhân lực hạn chế, phương tiện giao thông công cộng hạn chế và nguy cơ lây nhiễm cho thấy hiện nay rất có thể cần phải phục hồi chức năng từ xa sau khi xuất viện. Phục hồi chức năng từ xa là một can thiệp hứa hẹn hiệu quả về chi phí, cải thiện khả năng gắng sức và chất lượng cuộc sống ở bệnh nhân tim mạch. Tuy nhiên, dịch vụ này chưa được phát triển một cách thỏa đáng ở cả Châu Âu và trên toàn thế giới do một số lý do. Ví dụ, điện thoại thông minh, khả năng kết nối internet và máy tính không khả dụng cho một số cá nhân do hạn chế tài chính và bất bình đẳng kỹ thuật số. Ngoài ra, cần có thêm các nghiên cứu về nhóm người cao tuổi, về ảnh hưởng lâu dài của nó đối với hồ sơ tâm lý của bệnh nhân, như cũng như về tỷ lệ mắc bệnh và tử vong. Tuy nhiên, trong thời đại COVID-19, điều quan trọng hàng đầu là đảm bảo tiếp tục chăm sóc và tạo điều kiện liên lạc dễ dàng bằng cách sử dụng các chương trình phục hồi chức năng từ xa có cấu trúc khi có sẵn, các cuộc gọi điện thoại, sử dụng video, e-mail và các dịch vụ bưu chính, giữa bệnh nhân và các chuyên gia phục hồi chức năng để đưa ra lời khuyên dành riêng cho từng cá nhân và đào tạo tập thể dục từ xa khi an toàn và thích hợp để làm như vậy.

COVID-19 cũng được cho là sẽ thách thức các dịch vụ phục hồi chức năng trong ‘giai đoạn COVID-19 sau cấp tính’. Nhiều bệnh nhân COVID-19 tiếp tục chịu hậu quả lâu dài của bệnh, có thể cần đầu vào phức tạp lâu dài hơn như can thiệp phục hồi chức năng phổi, tim mạch, tâm thần và thần kinh cơ, với một số quốc gia đã tổ chức các trung tâm phục hồi chức năng COVID-19. Trong Ngoài ra, có thể những bệnh nhân không COVID-19 mắc bệnh tim mạch (hoặc các bệnh lý khác, ví dụ như bệnh hô hấp, bệnh thần kinh) không thể tham gia bất kỳ chương trình ngoại trú nào trong thời gian đại dịch cần được tăng cường chú ý. Mặc dù bản chất của vấn đề chưa được biết, nhưng chắc chắn nhất là các cấu trúc phục hồi hiện có sẽ không thể duy trì được nhu cầu cao này. Trong khi phục hồi chức năng từ xa dự kiến ​​sẽ được phát triển và đóng một vai trò quan trọng trong tương lai, các chương trình CR cho bệnh nhân ngoại trú vẫn sẽ được yêu cầu, đặc biệt đối với những bệnh nhân có nguy cơ cao, những người cần bắt đầu tập luyện trong môi trường có giám sát, ít nhất là giai đoạn đầu của CR, Để có thể phát hiện các biến chứng tiềm ẩn, điều chỉnh thuốc và lấy lại sự tự tin về thể chất. ‘giai đoạn COVID-19 sau cấp tính’, trong đó cảm giác bị cô lập và trầm cảm đã được tăng cường. Do đó, trừ khi có sự thay đổi đáng kể trong việc ra quyết định chính trị và quản lý liên quan đến các dịch vụ phục hồi chức năng, rất nhiều bệnh nhân có thể không nhận được sự phục hồi chức năng từ chuyên gia.

Ngay cả trước đại dịch và mặc dù CR được chứng minh là dựa trên bằng chứng và hiệu quả về chi phí, hầu hết bệnh nhân mắc bệnh tim mạch ở Châu Âu cần CR điều trị ngoại trú đã không được điều trị. thường chỉ được tài trợ trong một khoảng thời gian ngắn hoặc hoàn toàn không được tài trợ ở một số quốc gia, dẫn đến việc không có lợi ích bền vững trong việc cung cấp và hoa hồng CR cũng như tỷ lệ bệnh nhân giới thiệu và tuân thủ thấp. Ví dụ, Bảo hiểm Y tế Quốc gia ở Hy Lạp không chi trả CR cho bệnh nhân ngoại trú. Do đó, tại Viện của chúng tôi, CR cho bệnh nhân ngoại trú chủ yếu được cung cấp thông qua các quy trình nghiên cứu CR. Các giao thức này dựa trên sáng kiến ​​và tính chuyên nghiệp của các nhân viên khoa học có liên quan và đôi khi được hỗ trợ bởi Quỹ Công ích Alexander S. Onassis. Thiếu một chiến lược thực hiện CR thống nhất là một vấn đề khác cũng có thể cần được xem xét. Mặc dù đã có những bước tiến về phía trước, các dịch vụ CR có thể cải thiện hơn nữa nếu ban quản lý chăm sóc sức khỏe nhận thức rõ hơn rằng việc phục hồi chức năng được đóng khung trong bối cảnh của một mô hình bệnh lý xã hội sinh học toàn diện (do Engel giới thiệu vào năm 1977), chứ không phải là một mô hình y sinh. Điều này có nghĩa là việc tổ chức các dịch vụ CR có thể trở thành một nhiệm vụ phức tạp đòi hỏi sự phối hợp và cộng tác của các chuyên gia khác nhau như bác sĩ y khoa, nhà vật lý trị liệu, nhà tâm lý học, chuyên gia dinh dưỡng, nhân viên xã hội và y tá.

Một ‘tiếng chuông đang reo lên’ cho giai đoạn ‘cấp tính’ và đặc biệt cho sự gia tăng dự kiến ​​về nhu cầu phục hồi chức năng ‘sau cấp tính COVID-19’. Những nhu cầu này cần được gắn với một chính sách thống nhất của Châu Âu về tài trợ và lập kế hoạch về việc cấu hình lại CR và các dịch vụ phục hồi chức năng khác. Do đó, coi việc luyện tập thể dục là nền tảng của CR, đề nghị rằng tất cả bệnh nhân sau một đợt bệnh tim mạch (ví dụ: nhồi máu cơ tim, can thiệp mạch vành qua da, phẫu thuật tim, suy tim, cấy ghép thiết bị) nên được chỉ định 36 buổi CR bằng việc tập thể dục cho bệnh nhân ngoại trú (3 lần / tuần, 12 tuần) được chi trả bởi tất cả các Bảo hiểm Y tế Quốc gia trên khắp Châu Âu. Đối với những bệnh nhân mắc bệnh tim mãn tính hoặc những bệnh nhân có nguy cơ cao, nên mở rộng phạm vi bảo hiểm lên 36 buổi CR cho bệnh nhân ngoại trú hoặc điều trị phục hồi chức năng từ xa mỗi năm, tùy theo nhu cầu cá nhân. Tài trợ cũng nên bao gồm các dịch vụ hỗ trợ tâm lý xã hội và chuyên gia dinh dưỡng CR. Hơn nữa, việc tăng cường cơ sở vật chất như trung tâm cộng đồng và trang thiết bị, tuyển dụng nhân viên phục hồi chức năng có kinh nghiệm và đầu tư vào các chương trình phục hồi chức năng từ xa đều là những hành động được ưu tiên cao (Hình 1).

Đại dịch COVID-19 và phục hồi chức năng: thời gian để chuyển đổi các dịch vụ phục hồi chức năng tim mạch trên khắp Châu Âu.

Do đó, cuộc khủng hoảng COVID-19 không chỉ được coi là một thảm họa mà còn là cơ hội để chuyển đổi các dịch vụ CR (và các dịch vụ phục hồi chức năng khác), thúc đẩy sự thay đổi nhằm tăng hiệu quả và hiệu lực mà còn để tích hợp đầy đủ can thiệp này vào các dịch vụ chăm sóc sức khỏe . Bằng cách này, các hệ thống chăm sóc sức khỏe cũng sẽ được chuẩn bị tốt hơn để đối mặt với đại dịch trong tương lai, nếu cần.

Hi lạp là một quốc gia “yếu” trong liên minh châu Âu, đã có một cuộc khủng khoảng kinh tế nghiêm trọng (mà tôi không nhớ rõ cách đây mấy năm- phản ánh một nền kinh tế bị tham nhũng/ kém hiệu quả). Đọc bài viết này tôi thấy có mấy điểm cần chú ý:

-Khái niệm phục hồi chức năng tim mạch. Nội dung của hoạt động này có thể không quá xa lạ với chúng ta, nhưng việc có một cái tên như vậy, gắn với một chính sách, thì cần sự nghiêm túc tìm hiểu của nhà chuyên môn.

-Việc can thiệp phục hồi chức năng trong các hoạt động chăm sóc ngoài bệnh viện ở Hi Lạp có những nét khá giống với VN. Một cách trực quan, lợi ích từ việc can thiệp chăm sóc phục hồi chức năng, làm giảm tổng các chi phí do bệnh tật gây ra, nâng cao chất lượng cuộc sống, đã được chứng minh trong rất nhiều nghiên cứu, không chỉ giới hạn trong lĩnh vực y khoa, mà còn cho các lĩnh vực kinh tế, quản lý chính sách, nhưng chúng ta dường như vẫn không sẵn sàng chi trả cho các dịch vụ. Có thể hiểu là bản thân các đối tượng được chăm sóc này đang ở trong tình trạng rất khó tự mình chi trả. Vì thế các can thiệp chăm sóc được thiết kế rất ngắn hạn trong các dự án, các chương trình mà thôi. Ở cấp độ các chính sách an sinh, việc chi trả vẫn rất nhỏ giọt.

-Vì vậy, không chỉ đối tượng được can thiệp gặp khó mà ngay cả nhân lực làm công việc này cũng gặp khó khi tiếp cận công việc. Sự thay đổi trong việc chấp nhận chi trả, vì thế, không chỉ từ phía đối tượng được can thiệp, mà cả từ chuyên viên can thiệp, người cần nhìn nhận rõ ràng những khía cạnh trong dịch vụ mình cung cấp và các bên liên quan.

Coronavirus ở trẻ sơ sinh và trẻ em: Triệu chứng và Phòng ngừa

Bài này ở trên trang https://www.hopkinsmedicine.org- Mình có thay đổi một chút thông tin để phù hợp với cộng đồng Việt Nam.

Muốn được biết nhiều hơn về coronavirus, đây là những gì cha mẹ và người giám hộ cần biết về virus này và COVID-19 ở trẻ sơ sinh và trẻ em.

Aaron Milstone, M.D., M.H.S., bác sĩ nhi khoa tại Trung tâm Trẻ em Johns Hopkins và là một chuyên gia về bệnh truyền nhiễm tại Bệnh viện Johns Hopkins, nói về các triệu chứng COVID-19 ở trẻ em, cách giữ an toàn cho trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ, nguy cơ trẻ bị nhiễm bệnh và có thể lan ra cho người khác- và tổng quan về MIS-C, một tình trạng hiếm gặp có thể liên quan đến việc tiếp xúc với virus.

Trẻ em và trẻ mới biết đi có thể bị nhiễm coronavirus không?

Có, trẻ em và trẻ mới biết đi có thể mắc COVID-19. Các ca bệnh đang gia tăng ở trẻ em, được chỉ ra bởi dữ liệu gần đây từ Học viện Nhi khoa Hoa Kỳ.  Điều này có thể một phần là do không có vắc-xin COVID-19 nào được phép sử dụng cho những người dưới 12 tuổi. Sự lưu hành rộng rãi ở Hoa Kỳ của biến thể delta rất dễ lây lan của coronavirus là một yếu tố khác.

Trong hầu hết các trường hợp, COVID-19 có thể nhẹ hơn ở trẻ nhỏ so với người lớn, nhưng cha mẹ và người chăm sóc nên hiểu rằng trẻ em có thể bị nhiễm coronavirus, có thể phát triển các biến chứng cần nhập viện và có thể truyền virus cho người khác.

Trong một số trường hợp hiếm hoi, trẻ em bị nhiễm coronavirus có thể bị nhiễm trùng phổi nghiêm trọng và trở thành bệnh nặng với COVID-19, và tử vong đã xảy ra. Đó là lý do tại sao điều quan trọng là phải sử dụng các biện pháp phòng ngừa và ngăn ngừa nhiễm trùng ở trẻ em cũng như người lớn.

Cha mẹ nên biết gì về các biến thể của coronavirus và trẻ em?

Các biến thể của coronavirus, bao gồm cả biến thể delta rất dễ lây lan, tiếp tục để lây lan, đặc biệt là ở những khu vực có tỷ lệ tiêm chủng COVID-19 trong cộng đồng thấp.

Đối với trẻ em quá nhỏ để được chủng ngừa (và người lớn chưa được chủng ngừa coronavirus), điều quan trọng là phải tuân theo các biện pháp phòng ngừa COVID-19 đã được chứng minh chẳng hạn như đeo khẩu trang khi ở nơi công cộng, thậm chí trong không gian kín, để giảm nguy cơ bị nhiễm coronavirus.

Milstone nói: “Các hoạt động trong không gian kín có rủi ro cao hơn các hoạt động ngoài trời, nhưng rủi ro có thể được giảm thiểu bằng cách đeo khẩu trang, giữ khoảng cách, rửa tay và cải thiện hệ thống thông gió.

Trẻ sơ sinh có thể bị nhiễm COVID-19 không?

Có vẻ như phụ nữ bị nhiễm coronavirus, trong một số trường hợp rất hiếm, có thể truyền bệnh cho con của cô ấy. Trẻ sơ sinh cũng có thể bị nhiễm bệnh ngay sau khi được sinh ra. Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC), hầu hết trẻ sơ sinh có kết quả xét nghiệm dương tính với coronavirus đều có các triệu chứng nhẹ hoặc không có triệu chứng nào và khỏi bệnh, nhưng cũng có các trường hợp nghiêm trọng đã xảy ra. Phụ nữ mang thai nên thực hiện các biện pháp phòng ngừa bổ sung, bao gồm cả nói chuyện cho bác sĩ của bạn về việc chủng ngừa COVID-19, để tránh coronavirus.

Các triệu chứng coronavirus ở trẻ sơ sinh và trẻ em là gì?

Nói chung, các triệu chứng COVID-19 ở trẻ em nhẹ hơn ở người lớn và một số trẻ bị nhiễm bệnh có thể không có bất kỳ dấu hiệu bị bệnh nào.

Các triệu chứng cho trẻ em và người lớn bao gồm:

  • Ho
  • Sốt hoặc ớn lạnh
  • Hụt hơi hoặc khó thở
  • Đau nhức cơ hoặc toàn thân
  • Viêm họng
  • Mất vị giác hoặc khứu giác mới
  • Tiêu chảy
  • Nhức đầu
  • Xuất hiện mệt mỏi
  • Buồn nôn hoặc nôn mửa
  • Nghẹt mũi hoặc chảy nước mũi

Sốt và ho là những triệu chứng COVID-19 phổ biến ở cả người lớn và trẻ em; khó thở dễ gặp ở người lớn. Trẻ em có thể bị viêm phổi, có hoặc không có các triệu chứng rõ ràng. Trẻ cũng có thể bị đau họng, mệt mỏi quá mức hoặc tiêu chảy.

Tuy nhiên, có thể xảy ra bệnh nghiêm trọng ở trẻ em với COVID-19, và cha mẹ nên cảnh giác nếu con họ được chẩn đoán hoặc có dấu hiệu của căn bệnh này.

Trẻ em bị COVID-19: Khi nào cần gọi cấp cứu

Cha mẹ hoặc người giám hộ nên ngay lập tức tìm kiếm sự chăm sóc y tế khẩn cấp nếu họ nhận thấy những dấu hiệu cảnh báo này ở trẻ:

  • Khó thở hoặc thở gấp
  • Không có khả năng uống bất kỳ chất lỏng nào
  • Xuất hiện lơ mơ hoặc không có khả năng đánh thức
  • Môi hơi xanh

Rửa tay và Phòng ngừa Coronavirus cho Trẻ em

Rửa tay – cùng với việc hạn chế tiếp xúc với những người (hoặc có thể) bị bệnh với COVID-19 – là chìa khóa để giữ cho con bạn khỏe mạnh. Chuyên gia của chúng tôi chia sẻ cách rửa tay đúng cách và tạo niềm vui cho cả gia đình.

Các yếu tố nguy cơ gây ra COVID-19 nghiêm trọng ở trẻ em

Dữ liệu từ nghiên cứu của CDC chỉ ra rằng một số trẻ em có thể có nguy cơ cao mắc trường hợp COVID-19 nghiêm trọng, cần được chăm sóc y tế tại bệnh viện:

  • Trẻ dưới 2 tuổi
  • Trẻ em ở những vùng khóp khăn, khiến chúng dễ bị tổn thương bởi các biến chứng COVID-19 nghiêm trọng
  • Trẻ em sinh non
  • Những trẻ có béo phì hoặc bệnh phổi mãn tính

Nếu bạn cho rằng con mình bị bệnh với COVID-19, hãy tin vào bản năng của bạn, đặc biệt nếu trẻ bị ho hoặc sốt. Liên hệ với bác sĩ nhi khoa, bác sĩ chăm sóc gia đình hoặc phòng khám chăm sóc khẩn cấp nếu bạn không có bác sĩ và làm theo hướng dẫn của họ một cách cẩn thận về cách ly và xét nghiệm.

Hội chứng viêm đa hệ ở trẻ em (MIS-C)

Các bác sĩ tại các bệnh viện dành cho trẻ em ở Hoa Kỳ và Vương quốc Anh đã lưu ý rằng trẻ em từ 2 đến 15 tuổi có thể gặp phải tình trạng được gọi là hội chứng viêm đa hệ ở trẻ em hoặc MIS-C sau khi bị nhiễm coronavirus.

Gọi cho bác sĩ gia đình hoặc bác sĩ nhi khoa của bạn ngay lập tức nếu con bạn bị sốt từ 100,4 độ F (38 độ C) trở lên kéo dài hơn 24 giờ và có ít nhất một trong các triệu chứng sau:

  • Suy nhược hoặc mệt mỏi bất thường
  • Phát ban đỏ
  • Đau bụng
  • Nôn mửa và tiêu chảy
  • Môi đỏ, nứt nẻ
  • Mắt đỏ
  • Bàn tay hoặc bàn chân bị sưng

Trẻ em có bệnh nền

Hen suyễn: Trẻ em bị hen suyễn có thể có các triệu chứng nghiêm trọng hơn do COVID-19 hoặc bất kỳ bệnh hô hấp nào khác, bao gồm cả bệnh cúm. Không có dấu hiệu nào cho thấy hầu hết trẻ em bị hen suyễn đều trải qua các triệu chứng nghiêm trọng do coronavirus, nhưng hãy quan sát chúng cẩn thận và nếu các triệu chứng phát triển, hãy gọi cho bác sĩ của trẻ để thảo luận về các bước tiếp theo và sắp xếp đánh giá thích hợp nếu cần. Tiếp tục dùng thuốc đầy đủ cho con bạn và cẩn thận hơn để tránh những thứ gây ra các cơn hen suyễn ở con bạn.

Bệnh tiểu đường: Kiểm soát lượng đường trong máu là chìa khóa. Trẻ em mắc bệnh tiểu đường được quản lý tốt sẽ không dễ bị nhiễm COVID-19 hơn. Nhưng bệnh tiểu đường được kiểm soát kém có thể làm suy yếu hệ thống miễn dịch, vì vậy cha mẹ và bác sĩ nên theo dõi những đứa trẻ này cẩn thận để biết các dấu hiệu và triệu chứng có thể cần đánh giá.

Cách bảo vệ con bạn khỏi Coronavirus và COVID-19

Đối với trẻ em quá nhỏ để được chủng ngừa COVID-19, Milstone nói rằng cách tốt nhất để ngăn ngừa trẻ em bị bệnh với COVID-19 là tránh để chúng tiếp xúc với những người bị (hoặc có thể) bệnh do Coronavirus, bao gồm cả các thành viên trong gia đình. Dưới đây là ba trong số những cách tốt nhất để bảo vệ con bạn khỏi bị nhiễm trùng.

Duy trì khoảng cách về thể chất.

Con bạn càng tiếp xúc với nhiều người và thời gian tiếp xúc càng lâu thì nguy cơ nhiễm coronavirus càng cao.

Trẻ em nên ở cách những người khác bên ngoài ít nhất 6 feet (khoảng 1,8- 2m).

Kiểm tra nhà trẻ và trường học của con bạn (nếu chúng mở cửa) để đảm bảo có các biện pháp điều chỉnh khoảng cách về thể chất. Hạn chế chơi trực tiếp với trẻ em khác và đảm bảo trẻ em đeo khẩu trang đúng cách.

Đảm bảo rằng trẻ em hạn chế tiếp xúc gần gũi với trẻ em và người lớn dễ bị tổn thương, chẳng hạn như những người có tình trạng sức khỏe không tốt.

Đeo khẩu trang. Biến thể delta rất dễ lây lan đang được lưu hành. Đeo khẩu trang ngăn ngừa sự lây lan và bùng phát của vi rút. Đây là một lý do tại sao Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh (CDC) và Học viện Nhi khoa Hoa Kỳ khuyến nghị đeo khẩu trang cho trẻ từ lớp K-12 (lớp mẫu giáo đến lớp 12), ngay cả đối với những trẻ đã được tiêm chủng đầy đủ. Dữ liệu tiếp tục hỗ trợ giá trị của việc đeo khẩu trang trong trường học để ngăn ngừa nhiễm trùng. Milstone gợi ý rằng cha mẹ nên giúp trẻ nhỏ thực hành đeo khẩu trang trước khi trở lại trường học để trẻ cảm thấy thoải mái khi đeo chúng trong lớp.

Vệ sinh tay.

Trẻ em nên rửa tay sau khi đi vệ sinh, hắt hơi, ho hoặc xì mũi, trước khi ăn (kể cả đồ ăn nhẹ) và ngay sau khi chơi ngoài trời vào trong nhà.

Milstone khuyên các bậc cha mẹ nên dạy trẻ rửa tay thường xuyên, với xà phòng và nước ấm, trong ít nhất 20 giây. “Họ có thể giúp theo dõi thời gian bằng cách hát bài ABC, mất khoảng 20 giây để kết thúc,” anh nói. Nếu không có xà phòng và nước, Milstone cho biết lựa chọn tốt nhất tiếp theo là nước rửa tay có chứa ít nhất 60% cồn.

Những đứa trẻ ‘khó bảo’. Milstone nói: “Nếu con bạn không chịu rửa tay hoặc tỏ ra rất khó chịu khi được yêu cầu làm như vậy, bạn có thể tặng cho chúng một phần thưởng nhỏ, chẳng hạn như một miếng sticker, để ghi nhận mỗi lần chúng rửa tay. Khen ngợi trẻ vì đã làm một công việc thực sự tốt trong khi rửa tay. ” Sẽ hữu ích khi cha mẹ làm gương bằng cách rửa tay thường xuyên.

Trẻ em có được chủng ngừa COVID-19 không?

Một số vắc xin COVID-19 đã được Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) cho phép sử dụng khẩn cấp. Một trong những loại vắc-xin này được phép cho những người từ 12 tuổi trở lên, có khả năng sẽ được phép cho trẻ nhỏ hơn trong những tháng tới. Johns Hopkins Medicine coi tất cả các vắc xin COVID-19 được ủy quyền là có hiệu quả cao trong việc ngăn ngừa bệnh hiểm nghèo, nhập viện và tử vong do COVID-19.

Trẻ em và gia đình có thể cùng nhau giảm nguy cơ coronavirus

Mặc dù trong hầu hết các trường hợp COVID-19 dường như ít gây hậu quả nghiêm trọng đến sức khỏe cho trẻ em hơn người lớn, nhưng điều quan trọng là tránh lây nhiễm cho trẻ em, đảm bảo chúng được tiêm phòng cúm và các loại vắc-xin khác, đề phòng bệnh trở nên nghiêm trọng ở trẻ em và giúp ngăn ngừa virus lây lan.

Các gia đình có trẻ em có thể khuyến khích các biện pháp phòng ngừa sau:

Cẩn thận khi ho và hắt hơi. Milstone nói: “Khuyến khích mọi người trong gia đình ho và hắt hơi vào khuỷu tay của họ, thay vì bàn tay của họ, và rửa tay sau mỗi lần điều này xảy ra. Ông nói thêm: “Hãy vứt bỏ khăn giấy sau khi chúng được sử dụng”.

Giữ tay xa khuôn mặt. Cha mẹ nên nhắc trẻ tránh chạm vào mặt càng nhiều càng tốt. Milstone nói rằng có thể hữu ích nếu trẻ em mang theo một món đồ chơi khiến đôi tay của chúng bận rộn, nhưng ông lưu ý rằng cha mẹ nên rửa những món đồ chơi đó thường xuyên.

Giữ mọi thứ sạch sẽ. Lau sạch đồ chơi và các bề mặt mà con bạn chạm vào thường xuyên, đặc biệt là khi đi du lịch hoặc khi ở gần người bị bệnh. Làm sạch các bề mặt ở nhà và cất giữ chất tẩy rửa trong tủ quá cao để con bạn có thể với tới hoặc được bảo vệ bằng khóa tủ an toàn cho trẻ em.

Giải quyết sự lo lắng và căng thẳng. Nói chuyện với nhau như một gia đình có thể giúp xác định những nỗi sợ hãi cụ thể và làm sáng tỏ sự thật. Nó cũng giúp các gia đình thảo luận về một kế hoạch trong trường hợp ai đó bị ốm hoặc điều gì khác xảy ra làm gián đoạn thói quen bình thường.

“Trẻ em sẽ nhìn vào bạn khi bạn quyết định cảm nhận của mình về COVID-19. Nếu bạn cảm thấy bình tĩnh và chuẩn bị, trẻ có thể cảm thấy tương tự, ”Milstone lưu ý.

Chúng ta có thể sử dụng xoa bóp bấm huyệt hay massage để hỗ trợ hô hấp, đặc biệt trên trẻ có hen xuyễn để hỗ trợ các bệnh nhi?

Phục hồi chức năng cho bệnh nhân hậu COVID-19

Bài báo này trên một tạp chí y học có vẻ xa lạ, tuy nhiên nội dung thì mình cho là có tính logic cho tổng quan một chương trình phục hồi chức năng. Số lượng các đối tượng cần được chăm sóc trong chương trình như vậy ở VN không phải là ít- tuy là không phải toàn bộ số bệnh nhân này đều cần đưa vào chương trình chăm sóc:

Số liệu trên báo điện tử Dân trí ngày 20/8/2021

Việc sàng lọc nhóm trên để đưa vào chăm sóc những đối tượng cần hỗ trợ là việc làm cần thiết.

Mouna Asly, Asmaa Hazim- Cite this article: Mouna Asly et al. Rehabilitation of post-COVID-19 patients. Pan African Medical Journal. 2020;36(168).

Available online at: https://www.panafrican-med-journal.com//content/article/36/168/full

Kể từ trường hợp đầu tiên mắc bệnh do coronavirus xuất hiện ở Vũ Hán, Trung Quốc vào ngày 31 tháng 12 năm 2019, căn bệnh này đã nhanh chóng lây lan sang phần còn lại của Thế giới, gây ra tỷ lệ mắc và tử vong cao. Ở Ma-rốc, trường hợp COVID-19 đầu tiên được xác nhận ở Casablanca vào ngày 2 tháng 3 năm 2020. Sau đó, các trường hợp đã tăng lên một cách đáng báo động trong tháng trước [tháng 4/2020- ND]. Vào ngày 23 tháng 3 năm 2020, Bộ Y tế Maroc đã cho phép các bác sĩ bắt đầu sử dụng hydroxychloroquine hoặc chloroquine và azithromycine để điều trị những người nhập viện với COVID-19 đã được xác nhận, nếu không có chống chỉ định. Tính đến ngày 26 tháng 5 năm 2020, đã có 7.577 trường hợp được xác nhận, trong đó 4.881 trường hợp đã hồi phục và 202 trường hợp tử vong. Hội chứng SARS CoV-2 có thể được đặc trưng bởi các bệnh hô hấp nhẹ hoặc viêm phổi từ trung bình đến nặng, có thể gây ra Hội chứng suy hô hấp cấp tính (ARDS) và suy đa cơ quan (tổn thương tim, ảnh hưởng thần kinh, huyết khối tĩnh mạch, gan, thận). Rodriguez-Morales và cộng sự, trong một phân tích tổng hợp báo cáo rằng khoảng 32,8% phát triển ARDS, 20,3% bệnh nhân cần chăm sóc nghiêm trọng và 6,2% phát triển sốc. Kết cục tử vong được quan sát thấy ở 13,9% bệnh nhân [1]. Tuổi già, các bệnh mãn tính (tăng huyết áp, bệnh hô hấp và tim mạch, đái tháo đường), tiền sử hút thuốc lá có liên quan đáng kể đến mức độ nghiêm trọng của bệnh [2,3].

ARDS sau COVID-19 có thể tiến triển thành suy hô hấp hạn chế do yếu cơ hô hấp và xơ phổi thứ phát với suy giảm khuếch tán [4,5] liên quan đến suy giảm chức năng cơ thể. Cả ARDS và thời gian nằm viện kéo dài do COVID-19, bao gồm cả thời gian nằm trong phòng chăm sóc đặc biệt đều dẫn đến rối loạn hô hấp, thể chất và tâm lý ở bệnh nhân. Điều này khiến họ có nhiều nguy cơ phát triển hội chứng sau chăm sóc đặc biệt (PICS). PICS được định nghĩa là tình trạng suy giảm mới hoặc trầm trọng hơn về tình trạng sức khỏe thể chất, nhận thức hoặc tâm thần, phát sinh sau khi mắc bệnh hiểm nghèo và kéo dài sau khi xuất viện khỏi cơ sở chăm sóc cấp tính. [6,7]. Việc trình bày PICS có thể rất đa dạng. Các triệu chứng thường gặp bao gồm: 1, Suy giảm thể chất: suy nhược thần kinh cơ, mệt mỏi, giảm khả năng vận động, ngã tái phát, suy nhược cơ thể; 2, Suy giảm tâm lý: tâm trạng lo lắng hoặc chán nản, rối loạn chức năng tình dục, rối loạn giấc ngủ; 3, Các vấn đề về nhận thức: rối loạn trí nhớ, xử lý tâm thần chậm, kém tập trung, mê sảng). Các triệu chứng có thể kéo dài vài tháng đến nhiều năm sau khi hồi phục. Các thành viên trong gia đình của bệnh nhân cũng có thể bị ảnh hưởng tương tự [8,9].

Di chứng phổi, cơ xương khớp, thần kinh, tim, tâm lý ở một số người sống sót sau COVID-19, có thể ảnh hưởng đến khả năng thực hiện các hoạt động sinh hoạt hàng ngày của một người và dẫn đến các hạn chế xã hội. Chăm sóc phục hồi chức năng sẽ đóng vai trò là một mắt xích quan trọng trong quá trình chăm sóc liên tục, đặc biệt đối với các thể nặng và người già phụ thuộc mắc các bệnh mãn tính. Các can thiệp phục hồi chức năng phải dựa trên nhu cầu riêng của từng bệnh nhân. Do đó, sau khi phục hồi COVID-19, bệnh nhân cần được đánh giá xem có thể có hoặc có khiếm khuyết xảy ra, để xác định các phương thức phục hồi chức năng (ở bệnh viện hoặc chăm sóc cấp cứu, người can thiệp, chương trình) và họ phải được quản lý bởi một nhóm đa ngành bao gồm y học sinh thể và bác sĩ phục hồi chức năng, nhà tâm lý học, nhà vật lý trị liệu, nhà hoạt động trị liệu và nhà trị liệu hô hấp, với việc sử dụng các biện pháp can thiệp dược lý và không dùng thuốc. Tùy theo tình trạng khiếm khuyết, chương trình Phục hồi chức năng bao gồm [10]:

– Phục hồi chức năng vận động với: 1, Vận động thụ động, các bài tập và tư thế tích cực để phục hồi hoặc bảo tồn phạm vi vận động khớp của chi dưới, khớp vai và cột sống cổ; 2, Tăng cường cơ bắp bắt đầu bằng việc tăng cường cơ bắp tổng thể, sử dụng máy đo tốc độ cơ học;

– Phân tích cường độ tiến triển và tăng cường cơ năng động có thể được kết hợp với các bài tập chức năng (di chuyển trên giường, ngồi ra khỏi giường, ngồi thăng bằng, ngồi để đứng, đi bộ); Tạo tư thế theo chiều đứng để chống lại sự trật khớp, với nén tĩnh mạch thích hợp và theo dõi monitor huyết áp và mạch.

– Phục hồi chức năng hô hấp: Các bài tập thở nhằm cải thiện khả năng kiểm soát hơi thở có thể được đề xuất, dưới sự đánh giá và theo dõi khả năng chịu tập luyện. Chúng có hiệu quả để tăng thể tích hít vào/ tidal volume và giảm hậu quả tâm lý (căng thẳng, lo lắng và trầm cảm); Sự thanh thải bài tiết ở phổi nên thực hiện, nếu cần, sử dụng kỹ thuật máy gia tốc dòng thở ra (EFA);

– Phục hồi chức năng tâm thần kinh: có thể được đề xuất sau khi đánh giá cho bệnh nhân rối loạn nhận thức, liên quan đến bệnh não thiếu oxy hoặc các tổn thương não do coronavirus (đột quỵ, v.v.); Liệu pháp ngôn ngữ được đề xuất trong trường hợp rối loạn nuốt hoặc rối loạn giọng nói sau khi đặt nội khí quản kéo dài hoặc tổn thương não khu trú; Liệu pháp hoạt động: được chỉ định cho người cao tuổi, mất khả năng tự chủ và hạn chế trong việc thực hiện các hoạt động hàng ngày của họ. Nó cho phép khuyến khích sự độc lập và tăng tốc trở về nhà; Chăm sóc tâm lý được cung cấp cho bệnh nhân có các rối loạn tâm lý: lo âu, trầm cảm, căng thẳng sau chấn thương; Phục hồi sức khỏe để tập thể dục, bao gồm các bài tập đạp xe tại chỗ và tăng cường cơ bắp, sẽ hữu ích để chuẩn bị cho sự trở lại với các hoạt động xã hội – nghề nghiệp.

Tùy từng trường hợp, việc phục hồi chức năng này có thể được thực hiện theo một số phương thức tổ chức: bệnh nhân nội trú, ngoại trú hoặc tại nhà. Trong bối cảnh của đại dịch COVID-19, việc sử dụng các công nghệ giám sát từ xa và với các thiết bị thông minh đeo di động được, có thể thực hiện để thực hành phục hồi chức năng. Các bài tập thực tế ảo từ xa có thể được cung cấp cho những bệnh nhân này, hiệu quả và độ an toàn của các công cụ này đã được chứng minh là không thua kém các phương pháp truyền thống.

Kết luận Chúng tôi chia sẻ tình hình sức khỏe ở Ma-rốc trong đại dịch COVID-19 và chúng tôi đề xuất các hướng dẫn phục hồi chức năng cho những bệnh nhân đã phục hồi sau COVID-19 và những người vẫn đang bị khuyết tật.

Tập PHCN cho người nhiễm covid 19

https://vietnamnet.vn/vn/suc-khoe/nhung-bai-tap-phuc-hoi-chuc-nang-phoi-cho-f0-cach-ly-tai-nha-762297.html

Bệnh viên 1A là bệnh viên chuyên PHCN và chỉnh hình tại tp HCM. Tại thời điểm này, sự tham gia đa ngành trong chăm sóc, hỗ trợ người bệnh và nhiễm bệnh covid 19 là rất cần thiết. Thật tiếc, YHCT vẫn chưa có các động thái phù hợp để tham gia công tác này. Hi vọng, việc tham khảo hoạt động của ngành PHCN sẽ dẫn đường cho các hoạt động chuyên ngành khác cùng tham gia.

Bài tập trên đang được khuyến cáo cho “người nhiễm”, có thể tạm hiểu là F0 không có triệu chứng. Nhưng chúng ta giúp gì được cho bệnh nhân có triệu chứng ở các mức độ khác nhau? Ngoài ra, còn PHCN cho các bệnh nhân có di chứng sau khi nhiễm bệnh.

Nội dung sau đây được trích từ đường link https://vietnamese.cdc.gov/coronavirus/2019-ncov/long-term-effects.html- tôi không rõ lắm về cơ sở của đường link này nhưng các nội dung được nêu thì phù hợp với nhiều thông tin mà tôi đã nhận được (chủ yếu qua báo tiếng Việt) và có tính khái quát. Bài viết được viết lại cho phù hợp hơn về mặt ngôn ngữ và chuyên môn (vì tôi là BS chuyên khoa Tâm Thần). Tôi lưu ở đây để hi vọng chúng ta tìm kiếm thêm các giải pháp hỗ trợ từ YHCT với xoa bóp bấm huyệt trên bệnh nhân mức độ nhẹ hay tập dưỡng sinh ở người nhiễm bệnh.

Tổng Quan

Mặc dù hầu hết những người mắc COVID-19 trở nên khỏe hơn chỉ trong vòng vài tuần kể từ khi nhiễm bệnh, một vài người lại gặp phải các tình trạng hậu COVID. Tình trạng hậu COVID là một loạt các vấn đề về sức khỏe mới, đang tái phát hoặc đang diễn ra mà mọi người có thể gặp phải  trong khoảng bốn tuần trở lên sau lần đầu tiên bị nhiễm vi-rút gây ra COVID-19. Thậm chí những người không có các triệu chứng COVID-19 trong nhiều ngày hoặc nhiều tuần sau khi bị nhiễm, cũng có thể có các tình trạng hậu COVID . Các tình trạng này có thể có nhiều loại và có thể kết hợp nhiều bệnh trạng trong thời gian khác nhau.

Tình trạng hậu COVID có thể được biết đến như di chứng COVID, hội chứng COVID kéo dài, COVID-19 hậu cấp tính, tác động lâu dài của COVID hoặc COVID mãn tính. CDC và các chuyên gia trên toàn thế giới đang nỗ lực tìm hiểu thêm về các ảnh hưởng ngắn hạn và dài hạn đối với sức khỏe liên quan đến COVID-19, người nào bị mắc và tại sao.

Các loại tình trạng sau khi mắc COVID

Các triệu chứng mới hoặc đang tiếp diễn

Không giống với một số loại bệnh khác, di chứng chỉ có xu hướng xảy ra ở những người đã mắc bệnh nghiêm trọng, các triệu chứng hậu COVID-19 có thể xảy ra với bất kỳ ai đã bị COVID-19, ngay cả khi bị bệnh nhẹ, hoặc thậm chí ban đầu không có triệu chứng. Mọi người thường báo cáo rằng họ có các triệu chứng khác nhau sau đây:

  • Khó thở hoặc hụt hơi
  • Mệt mỏi hay chóng mặt
  • Các triệu chứng trở nên tồi tệ hơn sau khi hoạt động thể chất hay trí não
  • Khó suy nghĩ hay tập trung (đôi khi còn được gọi là “sương mù não”)
  • Ho
  • Đau ngực hoặc dạ dày
  • Đau đầu
  • Tim đập nhanh hoặc đập thình thịch (còn được gọi là trống ngực)
  • Đau cơ hay khớp
  • Cảm giác tê râm ran
  • Tiêu chảy
  • Gặp vấn đề về giấc ngủ
  • Sốt
  • Chóng mặt khi đứng dậy (choáng váng)
  • Phát ban
  • Thay đổi tâm trạng
  • Thay đổi về vị giác và khứu giác
  • Thay đổi về chu kỳ kinh nguyệt

Ảnh hưởng đa cơ quan của COVID-19

Một số người đã từng mắc các bệnh nghiêm trọng do COVID-19 gặp phải các ảnh hưởng đa cơ quan hoặc bệnh tự miễn dịch trong một thời gian dài kèm theo các triệu chứng kéo dài nhiều tuần hoặc nhiều tháng sau khi mắc COVID-19. Ảnh hưởng đa cơ quan có thể ảnh hưởng hầu hết, nếu không phải là tất cả, hệ thống cơ thể, bao gồm các chức năng tim, phổi, thận, da và não. Các tình trạng tự miễn xảy ra khi hệ miễn dịch của bạn tấn công các tế bào khỏe mạnh trong cơ thể do nhầm lẫn, gây viêm (sưng đau) hoặc tổn thương mô ở những bộ phận cơ thể bị ảnh hưởng.

Mặc dù rất hiếm nhưng một số người, chủ yếu là trẻ em, gặp phải hội chứng viêm đa hệ thống (MIS) trong hoặc ngay sau khi nhiễm COVID-19. MIS là tình trạng khi đó các bộ phận cơ thể khác nhau có thể bị viêm. MIS có thể dẫn đến các tình trạng sau khi mắc COVID nếu tiếp tục gặp các ảnh hưởng đa cơ quan hoặc các triệu chứng khác.

Ảnh hưởng của việc mắc bệnh hoặc do nhập viện vì COVID-19

Nhập viện và mắc các bệnh nghiêm trọng liên quan đến phổi, bao gồm COVID-19, có thể gây ra những ảnh hưởng đến sức khỏe như suy nhược nghiêm trọng và kiệt sức trong thời gian hồi phục.

Ảnh hưởng của việc nhập viện cũng có thể bao gồm hội chứng hậu săn sóc đặc biệt (PICS), tức là các ảnh hưởng sức khỏe bắt đầu khi một người ở trong phòng săn sóc đặc biệt (ICU) và có thể vẫn còn sau khi xuất viện. Những ảnh hưởng này có thể gồm suy nhược nghiêm trọng, các vấn đề về suy nghĩ và phán đoán – và rối loạn stress sau sang chấn (PTSD). PTSD bao gồm các phản ứng lo âu hoặc trầm cảm kéo dài đối với một sự kiện cực kỳ căng thẳng.

Một số triệu chứng xuất hiện sau khi nhập viện tương tự với những triệu chứng mà những người ban đầu có triệu chứng nhẹ hoặc không có triệu chứng gặp phải nhiều tuần sau khi mắc COVID-19. Có thể khó nhận biết liệu những triệu chứng này là do ảnh hưởng của việc nhập viện, tác động kéo dài của vi-rút hay do cả 2 yếu tố này . Những tình trạng này cũng có thể phức tạp do các tác động khác liên quan đến đại dịch COVID-19, bao gồm các ảnh hưởng đến sức khỏe tâm thần do bị cô lập, tình hình kinh tế tiêu cực và thiếu khả năng tiếp cận dịch vụ chăm sóc sức khỏe để quản lý các bệnh tiềm ẩn. Những tác nhân này ảnh hưởng tới cả những người đã từng mắc hoặc chưa từng mắc COVID-19.