Câu hỏi tìm hiểu cho phân môn Tâm thần năm học 2021- 2022

Chú ý: mục tiêu thuyết trình của sinh viên là trình bày về việc đọc hiểu bài- không phải là truyền đạt thông tin cho giảng viên

Sinh viên Y5

https://thanhnien.vn/van-hoa/chuyen-gia-phap-ly-len-tieng-vu-britney-spears-doi-tuoc-bo-quyen-giam-ho-cua-cha-1404635.html

https://thanhnien.vn/van-hoa/britney-spears-bi-toa-bac-yeu-cau-loai-bo-quyen-giam-ho-cua-cha-1407094.html

  • Bạn thấy những chức năng tâm lý nào cần được đề cập trong những vấn đề của Britney Spears. Các chức năng tâm lý này có đặc điểm gì?
  • Chẩn đoán tâm thần nào có thể liệt kê ra ở trường hợp này
  • Đánh giá ảnh hưởng của rối loạn tâm thần (nếu có) trên hoạt động của Britney Spears
  • Phân tích nguyên tắc “can thiệp dựa trên bằng chứng”
  • Nội dung giảng dạy: 4 buổi. Sinh viên chuẩn bị bài và phân công trình bày bài.

Một vài câu hỏi hướng dẫn cách đọc sách giáo trình :

Bài đại cương:

  1. Số liệu dịch tễ các bệnh lý thường gặp trong chuyên ngành tâm thần có đáng kể?
  2. Chăm sóc sức khỏe tâm thần đòi hỏi điều gì?
  3. Đối với bệnh nguyên của các rối loạn tâm thần, phương pháp điều trị nào mà bạn biết có thể có hiệu quả nhất?
  4. Phục hồi chức năng tâm lý xã hội trong bệnh lý tâm thần được mô tả thế nào?
  5. Xung đột đạo đức trong thực hành nghề là gì?/ xem bài Thế nào là chăm sóc y khoa trên blog này
  6. Vấn đề pháp y có thể là gì? (không phải y pháp: ngành y học tội phạm)

Chương 1

  1. Y học cổ truyền (nếu là sv thuộc hệ YHCT) có thể được bổ xung vào điều trị hội chứng sa sút trí tuệ như thế nào?
  2. Y học cổ truyền (nếu là sv thuộc hệ YHCT) có thể được bổ xung vào điều trị các rối loạn tâm thần thực tổn như thế nào?
  3. Khi can thiệp rối loạn tâm thần trên một bệnh nhân HIV, điều gì cần được chú trọng đối với bác sĩ?
  4. Đối với bệnh lý động kinh, biểu hiện tâm thần có đặc điểm gì? (cấp- mạn, chức năng tâm lý nào bị ảnh hưởng…)/ đọc thêm các bài về động kinh trên blog này

Chương 2:

  1. Nghiện- lạm dụng chất được hiểu là rối loạn chức năng tâm lý hay sinh lý?
  2. Để chăm sóc một bệnh nhân nghiện rượu phải biết những gì về bệnh nhân?
  3. YHCT có thể điều trị bệnh nhân nghiện rượu?

Chương 3:

  1. Trầm cảm là một rối loạn chức năng tâm lý hay sinh lý? Trầm cảm tâm sinh có bao gồm rối loạn sinh lý không?
  2. Bác sĩ YHCT giúp bệnh nhân bị trầm thế nào?
  3. Rối loạn cảm xúc lưỡng cực là một rối loạn nội sinh, vậy có gì giống và khác trầm cảm? Điều trị thời kì trầm cảm trong rối loạn lưỡng cực cần chú ý gì?
  4. Bác sĩ YHCT có cần học về Tâm thần phân liệt? Lý do cho cần/ không cần?

Để chuẩn bị cho thực hành :

  • cách làm bệnh án- cách phỏng vấn bệnh nhân (xem lại bài giao tiếp Y3) và tham khảo bệnh án các bệnh án trên link dưới cuối bài
  • xem các tình huống thông qua các bài ca bệnh lâm sàng trên blog này

Sinh viên Y3

Đọc bài viết “Bị tử vong”: nội dung chuẩn bị cho thực hành “giao tiếp thày thuốc bệnh nhân trong môi trường bệnh viện” (lưu ý, đây chỉ là một hướng dẫn, không phải một khái quát)

  • Phân tích tình huống theo cách tiếp cận trong bài xã hội tính của con người
  • Phân tích tình huống theo cách tiếp cận tâm lý phát triển
  • Phân tích tình huống theo cách tiếp cận stress và ứng phó
  • Phân tích tình huống theo cách tiếp cận giao tiếp “thày thuốc và bệnh nhân”

Sinh viên chuẩn bị bài thuyết trình và trình bày theo lịch buổi học

Trong khi chưa có sách các bạn có thể đọc tạm tài liệu này. Roberts Feldman là một tác giả được tham khảo chủ yếu cho các biên soạn sách của mình, bản này khá cũ, nhưng vẫn còn quan trọng

https://gacsach.com/doc-sach-truc-tuyen/114970/tam-ly-hoc-can-ban-full-roberts-feldman.html

link của trang gacsach đã die, tham khảo link này

để kịp cho phần thực hành, bài “sự hình thành và phát triển tâm lý, ý thức” chuyển thành bài đọc thêm, không thảo luận trên lớp, trừ khi có câu hỏi về bài này

phần trí nhớ làm việc đã có bài trên blog này

Hướng dẫn thực hành

Số buổi thực hành: 2

Thời gian thực hành: tương đương 4 tiết/ buổi

Chuẩn bị thực hành: mỗi tổ chia 4 nhóm. Chuẩn bị thực hành như sau:

Buổi 1:

  • Bước 1: Đọc lại tài liệu của môn Tâm lý y đức của bộ môn Y tế công cộng, phần Tâm lý nhận thức của sách này.
  • Bước 2: Đọc 4 mô tả hình huống giao tiếp mẫu.
  • Bước 3: Mỗi nhóm sẽ chuẩn bị 1 bài thuyết trình về “Lập kế hoạch cho tình huống giao tiếp mẫu” hoặc bài lý thuyết

Nhóm 1: bài Giao tiếp

Nhóm 2: Kĩ năng hỏi bệnh sử và tiền sử

Nhóm 3: Kĩ năng cung cấp thông tin

Nhóm 4: Kĩ năng thông báo tin xấu                                      

Buổi 2: Thực hành đóng vai tình huống giao tiếp mẫu.

  • Thực hành đóng vai 3 kĩ năng giao tiếp mẫu. Các nhóm ghi âm hội thoại trình bày.

Nhóm 1 bình luận bài Bị tử vong theo hướng dẫn ở trên- trình chiếu

Nhóm 2 Kĩ năng hỏi bệnh sử, tiền sử

Nhóm 3 Kĩ năng cung cấp thông tin

Nhóm 4 Kĩ năng thông báo tin xấu

Phần thực hành sẽ dùng để đánh giá điều kiện thi – không đạt tương đương vắng 2 buổi lý thuyết

Phần viết hướng dẫn dưới dạng trình chiếu có 4 bài thôi nhé. Phần RL ý thức- nhận thức khá dễ về mặt cấu trúc bài nên sinh viên tự làm.

Tài liệu: dùng tài liệu cũ của năm học 2020-2021 (có thông tin về năm học trên tài liệu)- các hướng dẫn để đọc bài cho cả Y3 và Y5 trình bày dưới dạng trình chiếu, được cập nhật dần trên link dưới đây

https://adongclinic.vn/chuyen-muc/than-kinh-tam-ly-hoc

Số đt/ zalo của giảng viên 0372776527

email: dothithuyanh73@gmail.com

chuẩn bị bài sinh viên có thể đặt câu hỏi trên comment

Định nghĩa và Phân loại Bệnh động kinh: Khảo sát Lịch sử và Phân loại Hiện tại, với Tham chiếu Đặc biệt đến ILAE- Bài 2

Các đề xuất của ILAE về phân loại bệnh động kinh từ năm 2000

Ủy ban về thuật ngữ, được thành lập vào năm 1963, được chuyển đổi thành Ủy ban về phân loại và thuật ngữ của ILAE vào năm 1973 và tiếp tục hoạt động như vậy cho đến năm 1997. Sau đó nó trở thành một Lực lượng chuyên trách về phân loại và thuật ngữ và sau đó được tái thiết thành Ủy ban vào năm 2005 ( trong ILAE-speak, một ủy ban lâm thời).

Nhóm công tác năm 1997 được giao các mục tiêu là (a) đánh giá lại các sơ đồ phân loại, (b) cung cấp một sơ đồ chẩn đoán để mô tả các trường hợp riêng lẻ, và (c) tạo ra một bảng chú giải thuật ngữ.

Một trong những hành động đầu tiên của họ là xuất bản Bảng chú giải thuật ngữ vào năm 2001. Bảng này ngắn hơn và cô đọng hơn từ điển năm 1973 của Gastaut, nhưng không toàn diện. Nó bao gồm một định nghĩa mới về chứng động kinh và cơn động kinh, và những định nghĩa này đã được sửa đổi vào năm 2005 và một lần nữa vào năm 2014.

Một bài báo quan trọng được xuất bản năm 2001 bởi Engel, thay mặt cho nhóm chuyên trách ILAE, về chủ đề phân loại và thuật ngữ. Người ta tuyên bố rằng không thể thay thế các phân loại quốc tế hiện tại bằng một phân loại khác sẽ được chấp nhận rộng rãi, và điều đó sẽ đáp ứng tất cả các nhu cầu về lâm sàng và nghiên cứu mà một hệ thống tổ chức chính thức như vậy sẽ được mong đợi cung cấp. Thay vào đó, nhóm chuyên trách đề xuất rằng ILAE nên tập trung vào “một sơ đồ chẩn đoán”. Lược đồ này phải cung cấp các bộ mô tả, có thể được sử dụng trên lâm sàng, để xác định bệnh động kinh của bệnh nhân, theo năm ‘trục’: hiện tượng kịch phát, loại động kinh, hội chứng, nguyên nhân gây bệnh và sự suy giảm chức năng. Khái niệm về ‘trục’ được dựa trên sự tương tự trong lĩnh vực tâm thần học. Sau đó, bài báo bao gồm danh sách cập nhật hữu ích về các hội chứng và các loại động kinh. Cần phải nói rằng ý tưởng về ‘trục’ cũng được tìm thấy trong các tiêu chí lâm sàng được sử dụng trong các chương trình 1964, 1969/1970, 1981 và 1989 nhưng sự khác biệt là không có nỗ lực nào được thực hiện để hợp nhất chúng thành một khuôn khổ duy nhất. Đây là một bước tiến quan trọng, và nó đã ngăn cản việc tạo ra những sơ đồ phân loại rất khó sử dụng, vốn không có giá trị thực tiễn (trên thực tế, có những lời chỉ trích đã đưa ra về việc phân loại các động kinh năm 1989).

Lần tác động lớn tiếp theo vào phân loại là vào năm 2006, khi Nhóm nòng cốt của lực lượng chuyên trách ILAE xuất bản một báo cáo về các hoạt động của mình. Nhóm nòng cốt này là một nhóm làm việc gồm các nhà động kinh học cao cấp, do Engel dẫn đầu, bao gồm cả Hans Lüder, những người không đồng ý với báo cáo và muốn tách khỏi báo cáo. Báo cáo mô tả các cuộc thảo luận liên quan đến: ‘tính khả thi của việc tạo ra sự thay đổi mô hình trong khái niệm phân loại của chúng tôi trong lĩnh vực động kinh, dựa trên việc thiết lập các tiêu chí khách quan có thể đo lường, để công nhận các loại động kinh và hội chứng động kinh như các thực thể chẩn đoán duy nhất, hoặc các phân lớp tự nhiên có thể được phân biệt một cách dễ dàng, dễ phối hợp với tất cả các chẩn đoán hoặc các phân lớp tự nhiên khác‘. Nhóm đưa ra danh sách loại co giật và các hội chứng động kinh, có những điểm khác biệt thú vị, nhìn chung ít toàn diện hơn so với danh sách trong báo cáo của nhóm nghiên cứu năm 2001. Những danh sách này đang được sử dụng rộng rãi ngày nay.

Nhóm cũng cho rằng phân loại năm 1981 về các loại co giật động kinh, và phân loại năm 1989 về các hội chứng động kinh và các chứng động kinh thường được chấp nhận và có thể thực hiện được và không cần phải loại bỏ. Nhóm cũng cảnh báo rằng danh sách của họ không nên được hiểu là một phân loại mới.

Theo quan điểm của tác giả, đây là một đóng góp và cách tiếp cận tuyệt vời. Tuy nhiên, vào năm 2005, một Ủy ban phân loại và thuật ngữ mới đã được thành lập thay cho lực lượng chuyên trách. Ủy ban này đã thiếu sự thận trọng của lực lượng chuyên trách trước đó, họ đề xuất một cách tiếp cận khác trong một báo cáo mới được xuất bản năm 2010. Báo cáo này đã không thành công và đã đưa vào lĩnh vực này một cảm giác tranh cãi và bối rối ngày càng tăng.

Báo cáo năm 2010 nhắc lại ý kiến ​​của nhóm chuyên trách năm 2001 và nhóm nòng cốt năm 2006 rằng không thể phân loại mới, nhưng thay vào đó cho thấy cần phải cung cấp ‘thuật ngữ và khái niệm mới phản ánh tốt hơn hiểu biết hiện tại về những vấn đề này’. Liên quan đến loại hình co giật, Ủy ban năm 2010 đề xuất những thay đổi sau đây đối với bản năm 1981 và cả bản năm 2006 của nhóm nòng cốt:

1 Cơn co giật ở trẻ sơ sinh không còn được coi là một thực thể riêng biệt. Co giật ở trẻ sơ sinh có thể được phân loại trong sơ đồ đề xuất.

2 Phân loại trước đây của cơn động kinh cơn vắng đã được đơn giản hóa và thay đổi. Co giật cơn vắng có giật cơ và giật cơ mí mắt hiện được công nhận là các loại co giật trong danh mục co giật cơn vắng.

3 Co thắt động kinh được đưa vào danh sách các loại co giật.

4 Liên quan đến cơn co giật khu trú, sự phân biệt giữa các loại khác nhau (ví dụ cục bộ phức tạp và cục bộ đơn giản) đã bị loại bỏ.

5 Cơn co giật mất trương lực cơ/ myoclonic atonic/myoclonic astatic hiện đã được công nhận.

Một số thay đổi này đã được đồng tình rộng rãi, mặc dù câu hỏi hóc búa về việc chia nhỏ các cơn động kinh khu trú (vẫn chưa được giải quyết trong nhiều năm) đã gây ra một làn sóng phản đối và sau đó đã được rút lại.

Danh sách các hội chứng điện lâm sàng (‘và các hội chứng khác’) không bị thay đổi theo bất kỳ cách nào đáng kể so với danh sách năm 2001 và 2006 (hoặc thực sự là năm 1989), mặc dù đã có những thay đổi về tên. Tuy nhiên, khái niệm ‘chòm sao’/ ‘constellations’ đã được thêm vào và cũng là một danh sách (hoàn toàn không đầy đủ) về các tình trạng ‘cấu trúc / chuyển hóa’, làm mờ đi sự phân biệt giữa căn nguyên và hội chứng và cũng gây ra sự nhầm lẫn.

Khía cạnh kém hài lòng nhất của báo cáo này (ít nhất là theo ý kiến ​​của Simon Shorvon) là sự thay đổi trong thuật ngữ. Các thuật ngữ mới chỉ cần thiết khi có những thay đổi đáng kể về ý nghĩa hoặc khái niệm, hoặc khi thuật ngữ cũ bị thiếu một cách nào đó, nhưng không nên thay đổi vì lợi ích khác. Tuy nhiên, đây chính xác là những gì báo cáo đã làm. Việc thay thế các thuật ngữ căn nguyên là vô căn, có triệu chứng và do nguyên nhân gây bệnh bằng di truyền, cấu trúc / chuyển hóa và không rõ, là những ví dụ đặc biệt nghiêm trọng (do đó, hội chứng Động kinh toàn thể tự phát đã được đổi thành Động kinh toàn thể di truyền).

Việc thay thế ‘di truyền’ cho ‘vô căn’ không những không cần thiết mà còn gây hiểu lầm. Cơ sở di truyền của phần lớn các chứng động kinh vô căn không được biết đến, và những chứng động kinh này có thể có ảnh hưởng nhân quả đa yếu tố bao gồm các yếu tố môi trường, phát triển, đáp ứng kích thích và di truyền. Gán nhãn những thứ này chỉ là “di truyền” là sự đơn giản hóa quá mức (và theo nghĩa này, mọi thứ chúng ta đang làm hoặc đang làm đều là “di truyền” bao gồm ý kiến, đặc điểm thể chất, trí thông minh của chúng ta, v.v.). Thuật ngữ “vô căn” ngụ ý một phạm vi rộng hơn và phức tạp hơn bao gồm các yếu tố di truyền, yếu tố biểu sinh, yếu tố môi trường, ảnh hưởng của các khía cạnh thời gian của sự phát triển não và ảnh hưởng (có thể là lớn) của cơ hội. Việc thay thế từ “chưa biết” cho “ẩn” không tạo ra khái niệm mới nhưng dường như hoàn toàn là một sự thay đổi vì lợi ích của sự thay đổi.

Thay thế ‘có triệu chứng’, một thuật ngữ được hiểu phổ biến được sử dụng trong y học, bằng ‘cấu trúc / chuyển hóa’ là ngôn ngữ vụng về và bỏ qua nhiều động kinh có triệu chứng không có sự thay đổi cấu trúc vĩ mô hoặc chuyển hóa có thể đo lường được, chẳng hạn như những bệnh do miễn dịch, viêm, thoái hóa, độc chất hoặc sinh hóa. Sự thiếu hụt này đã được công nhận trong các tuyên bố gần đây nhất từ ​​Ủy ban, trong đó các danh mục mở rộng hơn nữa; mặc dù chỉ cần quay lại thuật ngữ ‘có triệu chứng’ sẽ đơn giản hơn. Điều này sẽ không quá quan trọng nếu không có những bất lợi khi thay đổi thuật ngữ:

1 Thực tế là các thuật ngữ mới có khả năng gây nhầm lẫn cho cộng đồng y tế rộng lớn hơn, đặc biệt là những người không liên quan mật thiết đến việc phân loại (bao gồm bác sĩ chuyên khoa thần kinh chung, bác sĩ nhi khoa, bác sĩ đa khoa).

2 Có những hậu quả đối với việc thay đổi các điều khoản trong các lĩnh vực phi y tế (ví dụ: báo chí, tòa án, dịch vụ xã hội) nơi các hướng dẫn, định nghĩa quy định và án lệ sẽ trở nên thừa và cần một quá trình sửa đổi lâu dài.

3 Có những hậu quả xã hội khi đưa ra các thuật ngữ mới. Một ví dụ là việc thay thế từ “di truyền” cho “vô căn” – điều này sẽ gây khó khăn cho bệnh nhân ở các quốc gia nơi thuật ngữ “di truyền” có thể bị kỳ thị nhiều (ví dụ: đối với triển vọng kết hôn).

4 Thay đổi thuật ngữ cũng có thể làm giảm uy tín và thẩm quyền của bất kỳ sơ đồ phân loại nào. Các thuật ngữ mới được sử dụng mà không có bất kỳ nền tảng trí tuệ vững chắc nào có xu hướng hết tác dụng nhanh chóng, gây thêm nhầm lẫn.

5 Mục đích của việc phân loại là để tạo điều kiện thuận lợi cho việc nghiên cứu, chẩn đoán, nghiên cứu và điều trị. Bài kiểm tra quan trọng đối với bất kỳ thay đổi nào trong thuật ngữ là mức độ mà điều kiện thuận lợi này đã đạt được, và các thuật ngữ thay đổi tư duy và khuôn khổ của nỗ lực nghiên cứu hoặc lâm sàng. Chẳng hạn, việc thay thế thuật ngữ “vô căn” bằng “di truyền” có tác dụng ngược và việc thay đổi từ “ẩn” thành “chưa biết” và “có triệu chứng” thành “cấu trúc / chuyển hóa” không có lợi ích gì.

Điều cũng gây nhầm lẫn là việc xuất bản các bài báo có tựa đề ‘Phân loại co giật và động kinh đã được sửa đổi’ (cho rằng sơ đồ không nhằm mục đích là ‘phân loại’), và tuyên bố của họ rằng ‘cấu trúc phân loại đã chính thức bị loại bỏ’ vì không có một cơ sở kiến ​​thức đầy đủ để đề xuất một cách phân loại mới (theo nghĩa tổ chức) của động kinh.

Cố gắng giải thích những thay đổi đã không giúp được gì. Bài báo năm 2010 kết thúc với đề xuất khó hiểu:

Các dạng động kinh khác nhau (ở tất cả các mức độ cụ thể) sẽ được sắp xếp theo các chiều hướng phù hợp nhất với một mục đích cụ thể. Những thứ này có thể được so sánh với những thứ trong phân loại năm 1989 (khởi phát động kinh, “nguyên nhân” và tuổi khởi phát), một sự sắp xếp thứ bậc khác của những thứ nguyên này, một phiên bản chi tiết hơn của những thứ nguyên này hoặc theo những thứ nguyên hoàn toàn khác nếu cần. 

Ủy ban đã được tái thiết vào năm 2013 và hiện đang làm việc để sửa đổi báo cáo năm 2010 với một cách tiếp cận khác, và người ta hy vọng rằng Ủy ban mới sẽ làm cho nó có ý nghĩa và dễ hiểu hơn. Sổ tay chẩn đoán đang được phát triển sẽ hữu ích (một trong những mục tiêu ban đầu của nhóm chuyên trách năm 1997). Các khái niệm về động kinh toàn thể và cục bộ, đã bị loại bỏ trong phân loại năm 2010, đã được khôi phục và các danh mục bệnh nguyên được mở rộng để kết hợp di truyền, cấu trúc, chuyển hóa, miễn dịch, lây nhiễm và chưa biết. Tuy nhiên, những nhược điểm của việc thay đổi thuật ngữ không được giải quyết.

Hiện tại khá rõ ràng, ít nhất là đối với Simon Shorvon, liệu có ý định ‘phân loại bệnh động kinh’ bây giờ hay không. Hoàn toàn không rõ ràng tại sao người ta cho rằng cần phải thay đổi tình trạng của các sơ đồ phân loại năm 1981 và 1989, đặc biệt là quan điểm đã nêu rằng, kiến ​​thức hiện tại chưa nâng cao đủ để làm như vậy. Việc cung cấp sổ tay chẩn đoán và danh sách cho các ‘trục’ khác nhau rất có lợi, nhưng nhiều nhầm lẫn đã gây ra, liên quan đến phân loại và đặc biệt là thuật ngữ. Hơn nữa, những nỗ lực trong 5 năm qua đã trở nên sa lầy vào chính trị, sự phù phiếm cá nhân và các hoạt động quảng bá, không có hoạt động nào hỗ trợ cho các mục tiêu lâm sàng hoặc khoa học (và như vậy có lẽ phản ánh tình hình năm 1970).

Tương lai của các sơ đồ phân loại bệnh động kinh

Tất cả chúng ta đều mong muốn một phân loại có ý nghĩa khoa học – theo cách nói của Jackson, phân loại của một nhà thực vật học (thì theo kiểu người làm vườn) – là việc phân loại dựa trên cơ sở sinh lý bệnh, hệ thống hóa hệ thần kinh hoặc mạng lưới sinh lý hoặc giải phẫu. Đây sẽ là ‘sự thay đổi mô hình’ được nhóm Cốt lõi tìm kiếm. Chúng tôi còn một chặng đường dài để đạt được mục tiêu này. Thật thú vị, những cân nhắc tương tự hiện đang diễn ra trong lĩnh vực tâm thần học như một phản ứng về các danh mục Sổ tay chẩn đoán và thống kê các rối loạn tâm thần (DSM) (không gì có thể là ‘làm vườn’ hơn thế này). Chúng tôi vẫn chưa đạt được điều đó, và có thể hy vọng rằng vào thời điểm xuất bản tiếp theo, nhóm đặc nhiệm mới sẽ sửa đổi tình hình hiện tại và sẽ giải quyết dựa trên một hệ thống có cơ sở khoa học hơn.

Phân loại theo nguyên nhân

Với sự ra đời của quét MRI và cũng như sàng lọc di truyền và sinh hóa phức tạp hơn, việc khám phá căn nguyên cơ bản của bệnh động kinh ngày càng trở nên khả thi. Căn nguyên thường quyết định tiên lượng, mức độ nghiêm trọng, đáp ứng với điều trị và các đặc điểm lâm sàng khác và do đó có tầm quan trọng cơ bản trong bất kỳ phân loại khoa học hoặc thực dụng nào (trên thực tế, theo nhiều cách hơn loại co giật). Vì lý do này, khả năng phân loại bệnh động kinh chủ yếu theo nguyên nhân là điều đáng quan tâm. Tuy nhiên, việc chỉ định nguyên nhân gây bệnh động kinh không đơn giản vì một số lý do, hạn chế tính hữu ích của bất kỳ sơ đồ bệnh lý nào. 

Nguyên nhân của bệnh động kinh thường là do đa yếu tố. Các vấn đề trong việc xác định nguyên nhân phát sinh đặc biệt ở bệnh ‘động kinh vô căn’ mà không có nguyên nhân di truyền rõ ràng, như trường hợp của đại đa số bệnh nhân bị động kinh toàn thể vô căn chẳng hạn. Mặc dù tình trạng này có khả năng có khuynh hướng di truyền, nhưng kiểu hình có thể phụ thuộc nhiều vào các yếu tố phát triển ngang bằng khuynh hướng di truyền (tương tự như chiều cao của một người – có nhiều yếu tố di truyền đã biết, nhưng tầm quan trọng không kém là dinh dưỡng, môi trường vật chất yếu tố, căng thẳng tâm thần trong quá trình phát triển và cả tính cơ hội). Ảnh hưởng của bất kỳ gen riêng lẻ hoặc cơ chế di truyền nào (đôi khi được gọi là tính nhạy cảm), trong phần lớn các trường hợp vô căn, có khả năng tương đối nhỏ. Thật vậy, trong phần lớn các trường hợp vô căn cho đến nay, không có tính nhạy cảm di truyền nào được xác định. Trong một tỷ lệ nhỏ các trường hợp, một đột biến có ảnh hưởng lớn xuất hiện, nhưng ngay cả ở đây, thường có những yếu tố biến đổi môi trường hoặc di truyền chính ảnh hưởng đến kiểu hình.

Theo quan điểm của bản chất đa yếu tố của bệnh động kinh, sẽ hữu ích nếu coi các nguyên nhân là “yếu tố nhân quả” hơn là “nguyên nhân” và chỉ định nguyên nhân bằng cách sử dụng thống kê “có xác xuất xảy ra cao”. Việc ước lượng xác xuất của bất kỳ yếu tố nhân quả cụ thể nào sẽ cho phép đánh giá tầm quan trọng của nó. Do đó, chấn thương đầu hở như một yếu tố nhân quả của bệnh động kinh có xác xuất cao – và có thể được coi là có khả năng thống kê rằng ‘nguyên nhân’ này đóng góp phần lớn vào sự phát triển của bệnh động kinh, trong khi chấn thương đầu nhẹ có xác suất thấp, và có thể được coi là không có khả năng gây ra. Vấn đề với cách tiếp cận này là nó có cơ sở thống kê, bắt nguồn từ cấp độ một cộng đồng dân số, và đối với bất kỳ bệnh nhân nào trọng số đó có thể còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố riêng lẻ khác. Ở một số bệnh nhân, chấn thương đầu nhẹ có thể có ý nghĩa lớn hơn xác suất có thể đề xuất trong dân số chung.

Nguyên nhân với cơ chế nhân quả (nguyên nhân ‘từ xa’ so với ‘nguyên nhân gần’) Một cách phân loại nguyên nhân hiệu quả là thực hiện theo các cơ chế mà nguyên nhân từ xa dẫn đến co giật (tức là theo cơ chế nhân quả của cơn co giật). Ví dụ, chấn thương và khối u có thể gây ra co giật do tác động của màng hoặc do lắng đọng haematin – và theo nghĩa này, rối loạn chức năng màng tế bào hoặc lắng đọng haematin là ‘nguyên nhân gần gũi’ chứ không phải do chấn thương / khối u (là nguyên nhân từ xa) . Sự khác biệt này lần đầu tiên được Jackson chỉ ra. Ông mặc nhiên công nhận rằng phân loại theo nguyên nhân gần sẽ cho phép cách tiếp cận “thực vật” hơn là một cách tiếp cận “làm vườn”. Thật không may, trong nhiều trường hợp, kiến ​​thức không đủ nâng cao để thực hiện điều này. Vì hầu hết các tiến bộ trong tương lai trong lĩnh vực nguyên nhân của bệnh động kinh có khả năng là trong lĩnh vực khoa học phân tử, nên có thể một phân loại dựa trên cơ chế phân tử sẽ được chứng minh là khả thi trong tương lai. Điều này sẽ dẫn đến một cách tiếp cận hoàn toàn khác để phân loại, và là kiểu thay đổi mô hình mà phân loại động kinh đang rất cần.

Động kinh là một quá trình và là “nguyên nhân” của các cơn động kinh khác nhau ở chứng động kinh mới khởi phát và đã định hình Có bằng chứng đáng kể về những thay đổi phân tử xảy ra sau khi khởi phát cơn động kinh, bản thân những thay đổi này có thể góp phần vào sự tiến triển của chứng động kinh mới khởi phát thành động kinh mãn tính hoặc đã thành lập. Trong những trường hợp như vậy, quá trình bên trong có thể được coi là một phần ít nhất là “nguyên nhân” của chứng động kinh mạn tính. Bản chất phân tử của các quá trình này hiện chưa được hiểu rõ ràng.

Một vấn đề liên quan là phân biệt co giật ‘sớm’ và ‘muộn’ sau chấn thương não cấp tính (ví dụ: chấn thương, đột quỵ). Hai loại co giật này khác nhau về mặt sinh lý và lâm sàng. Cũng thường có một khoảng thời gian tiềm ẩn có thể kéo dài hàng tháng hoặc thậm chí hàng năm giữa cơn xúc phạm cấp tính (ví dụ như chấn thương ở đầu) và sự khởi đầu của các cơn co giật muộn và đây là bằng chứng thêm về một quá trình kéo dài của quá trình hình thành bệnh động kinh và có thể tiếp tục kéo dài sau khi bị động kinh đã phát triển. Các cơ sở sinh lý của quá trình này không được biết đến.

Vai trò của điều tra trong việc xác định phạm vi nguyên nhân Tất nhiên, việc xác định nguyên nhân ở bất kỳ cá nhân nào phụ thuộc vào việc điều tra kỹ lưỡng đã được thực hiện như thế nào. Phạm vi ‘nguyên nhân’ được xác định trong thực hành lâm sàng thay đổi khi các phương thức điều tra mới có sẵn, chẳng hạn như đã xảy ra với điện não đồ, hình ảnh thần kinh, hóa học lâm sàng và hóa mô phân tử. Có lẽ đúng khi nói rằng tất cả hoặc gần như tất cả các điều kiện nguyên nhân của bệnh động kinh gây ra thay đổi cấu trúc tổng thể và tất cả các tình trạng đơn nguyên đều đã được xác định, nhưng các cơ chế ảnh hưởng di truyền và các cơ chế phân tử gần nhau vẫn còn được khám phá. Một phương thức điều tra di truyền phân tử hoặc lâm sàng mới có thể có tác động lớn ở đây trong tương lai.

Cũng cần lưu ý rằng không phải tất cả các bệnh động kinh ‘có triệu chứng’ đều là ‘mắc phải’. Có nhiều nguyên nhân bẩm sinh và bẩm sinh gây ra chứng động kinh có nguồn gốc phát triển hoặc di truyền nhưng lại thuộc loại ‘có triệu chứng’. Chúng bao gồm ví dụ như loạn sản vỏ não, hội chứng da thần kinh (ví dụ: bệnh xơ cứng củ), bệnh đơn gen (ví dụ: hội chứng Rett, hội chứng Angelman), rối loạn nhiễm sắc thể (ví dụ: hội chứng nhiễm sắc thể vòng 20) và động kinh cơ tiến triển (ví dụ bệnh ti thể hoặc ung thư tế bào thần kinh).

Một khó khăn cuối cùng trong bất kỳ phân loại bệnh lý nào là vị trí bệnh học của chứng động kinh kích thích. Các yếu tố kích động thường bị bỏ qua trong phân loại nguyên nhân. Tuy nhiên, nếu ví dụ, một người mắc chứng động kinh toàn thể vô căn chỉ có cơn động kinh thức giấc sau khi thiếu ngủ chứ không phải lúc khác, thì sẽ không hợp lý khi coi sự hiện diện của yếu tố kích thích ít nhất cũng quan trọng về tính nhạy cảm như di truyền giả định. hay cơ địa bẩm sinh?

Phân loại theo ký hiệu học và vị trí giải phẫu

Một cái nhìn sâu sắc khác của Jackson (và các đồng nghiệp của ông là Sir David Ferrier và Sir Victor Horsley) trong những năm 1860 là nhận ra rằng dạng lâm sàng của cơn động kinh cung cấp manh mối về vị trí của trọng điểm động kinh trong não. Jackson nhận ra rằng: (i) một số chức năng của não được khu trú trong vỏ não; (ii) tiết dịch co giật ở những khu vực này sẽ tạo ra các triệu chứng ‘hoạt động quá mức’ của các chức năng này; và (iii) phân tích các triệu chứng xảy ra trong giai đoạn đầu của cơn động kinh (trước khi cơn động kinh lan rộng) sẽ cho phép phỏng đoán vị trí của trọng tâm động kinh và do đó cung cấp mục tiêu cho can thiệp phẫu thuật. Logic này vẫn là cơ sở cho tất cả các bản địa hóa lâm sàng cho phẫu thuật động kinh cho đến ngày nay. Đây cũng là lý do Jackson tập trung vào loại động kinh mà ngày nay được đặt tên chính xác là ký hiệu học) làm cơ sở để phân loại bệnh động kinh cá nhân và một lần nữa, trọng tâm này vẫn được duy trì cho đến ngày nay. Như Jackson đã viết vào năm 1868, ‘Một trong những câu hỏi quan trọng nhất mà chúng tôi có thể hỏi một bệnh nhân động kinh là “Cơn co giật bắt đầu như thế nào?”, Và vào năm 1873, “Không có gì quan trọng hơn là phải lưu ý nơi bắt đầu co giật, vì suy luận là, triệu chứng vận động đầu tiên là dấu hiệu của sự bắt đầu phóng điện trung ương ‘và’ Phương thức khởi phát là vấn đề quan trọng nhất trong điều tra giải phẫu của bất kỳ trường hợp động kinh nào. ‘

Năm 1993, Lüders và cộng sự đã xuất bản một bài báo sơ bộ liên quan đến một cách tiếp cận mới để phân loại, mà họ đặt tên là ‘sơ đồ phân loại triệu chứng học’, và đã trình bày vào năm 1998. Điều này dựa trên một phân tích chi tiết về các đặc điểm lâm sàng của các cơn kịch phát và được đề xuất như một giải pháp thay thế cho các sơ đồ điện lâm sàng được ILAE chấp thuận. Điều hợp lý là điện não đồ vùng / điện não đồ, là một phần không thể thiếu của hệ thống ILAE, tương quan không tốt với các đặc điểm lâm sàng. Phân loại triệu chứng học nhấn mạnh rằng điện não đồ và các phương thức xét nghiệm khác như hình ảnh thần kinh, nên được phân tích riêng biệt và tích hợp với các phát hiện lâm sàng chỉ sau khi các phát hiện lâm sàng đã được phân loại.

Trong cách phân loại này, các triệu chứng kịch phát được chia thành các loại cảm giác, ý thức và vận động. Có một sự nhấn mạnh vào cơn thoáng báo (thể hiện nguyên tắc Jacksonian rằng triệu chứng đầu tiên của cơn động kinh cho biết vị trí trên não của nó) và về chuỗi thời gian của các sự kiện trong một cơn động kinh. Một ví dụ về mô tả cơn động kinh bằng cách sử dụng sơ đồ này là ‘khứu giác → co giật vận động cơ → động kinh trái → động kinh co giật toàn thể’.

Năm 2005, các tác giả đã đi xa hơn và đề xuất một hệ thống phân loại năm bậc. Hai cấp độ (triệu chứng học và tần suất) xác định các triệu chứng (cơn động kinh) và ba cấp độ (nguyên nhân, suy giảm chức năng thần kinh liên quan và vị trí của chứng động kinh) xác định những gì đang tạo ra chứng động kinh và vị trí của bất thường trên não.

Việc phân tích bệnh động kinh, theo sơ đồ này, sẽ tiến hành theo các cấp độ sau: xác định vị trí não → bệnh lý co giật → nguyên nhân → tần suất co giật → các tình trạng y tế liên quan (sau đó được sửa đổi thành hệ thống bốn chiều, bỏ tần suất co giật). 

Phân loại triệu chứng học được nhúng trong lược đồ này có một số hạn chế. Nó giới thiệu các thuật ngữ mới (mô tả cơn động kinh) mà một số người cho rằng không cần thiết và ít người biết đến, chẳng hạn như cơn vắng ý thức, vận động tự động, tăng vận động và giảm vận động. Sự phân loại này được đặt ra bởi một đơn vị tập trung vào phẫu thuật động kinh, và do đó, sự nổi bật được trao cho các khía cạnh cấu trúc của bệnh động kinh và các khía cạnh liên quan nhất đến phẫu thuật. Không còn nghi ngờ gì nữa, nó có ý nghĩa nhất đối với các bệnh khởi phát là tổn thương khu trú nhưng ít hơn đối với các trường hợp toàn thể hoặc phân loại kiểu ‘làm vườn’. Vai trò chính của nó là trong đánh giá tiền phẫu thuật, nơi mà việc mô tả tỉ mỉ cơn co giật cung cấp thông tin hữu ích trong một số trường hợp.

Lüder đã từ chức khỏi Nhóm chuyên trách ILAE về phân loại, vì ông không đồng ý với cách tiếp cận của ILAE và ILAE cũng không tán thành kế hoạch của Lüder. Tuy nhiên, việc sử dụng nó, ngay cả khi đánh giá phẫu thuật cũng bị hạn chế bởi thực tế là các cơn co giật cục bộ, như bản thân Gastaut nhận ra, thường không khu trú ở một vùng của vỏ não mà được hình thành bởi mạng lưới tế bào thần kinh có thể mở rộng. Đây là một thực tế thường bị lướt qua bởi những người đam mê tìm điểm khu trú, săn lùng một ‘tiêu điểm’ ảo tưởng bằng cách sử dụng các manh mối triệu chứng. Không có phân tích triệu chứng học nào trên số lượng đáng kể bệnh nhân này sẽ có thể vượt qua trở ngại về cơ bản không thể vượt qua này.

Định nghĩa và Phân loại Bệnh động kinh: Khảo sát Lịch sử và Phân loại Hiện tại, với Tham chiếu Đặc biệt đến ILAE- Bài 1

Vẫn là Simon Shorvon từ Viện Thần kinh học UCL, Luân Đôn, Vương quốc Anh trong loạt bài về vấn đề thuật ngữ, phân loại.

Bộ môn đầu tiên mà tôi được phân công làm việc năm 2006, khi mà khóa Đại học đầu tiên của Học viện được tuyển sinh, là Bộ môn Y lý. Sự phân công này làm tôi lo sợ, nhưng cũng phấn khích vì những thách thức nó mang lại. Nhưng tôi đã không biết vấn đề thực sự mình phải đối mặt là gì. Tôi đã cùng với sinh viên khóa 2 thử đi phân tích vấn đề, và các bạn ấy đã viết tiểu luận về những khái niệm, phân loại của YHCT. Cô trò lúc đó không nhận thức được như vậy. Thật tiếc, do vấn đề sức khỏe cá nhân và lần chuyển nhà sau đó khiến tôi không giữ được thành quả đã làm. Sau đó, khoảng 2008-2009 tôi được phân công giảng phân môn Y dịch. Tôi nói với chị giáo vụ Bộ môn là không biết giảng thế nào, dù đã có một quyển giáo trình được nhét vào tay, nhưng được trả lời là vẫn phải lên lớp. Tôi bèn quyết định đi tìm hiểu và thuyết trình một nội dung ‘lịch sử về quá trình áp dụng học thuyết ngũ hành vào YHCT’. Cho tới giờ, tôi vẫn cảm thấy tự hào về nội dung này, vì thấy mình soạn được một nội dung có ý nghĩa, có thể giúp cho sự hình thành một ‘lý thuyết’ thực sự, ngay cả khi tôi nhận ra là đã để thất lạc mất bài thuyết trình đó. Và bây giờ, khi tiếp cận nội dung này của Simon Shorvon, tôi thấy cách tiếp cận năm xưa của mình thực sự có ý nghĩa.

Theo Simon Shorvon:

Định nghĩa (thuật ngữ) và em song sinh của nó, phân loại, là những đầm lầy. Cả hai đều là những chủ đề mà chỉ những người ưa khám phá mạo hiểm hãy tham gia. Những quan điểm mạnh mẽ và khác biệt thường được giữ vững, và những niềm đam mê bị kích thích, nhưng không rõ ràng lắm. Tuy nhiên, định nghĩa và phân loại là chủ đề bắt buộc của mọi sách giáo khoa, vì cả hai đều cần thiết cho việc giao tiếp và phân chia trong thực hành lâm sàng, và do đó cả hai đều nhất thiết phải làm nền tảng cho việc điều trị thành công.

Trong chương này, các khía cạnh khác nhau được xem xét, đặc biệt là từ quan điểm của Liên đoàn Quốc tế Chống Động kinh (ILAE). Tổng quan ngắn gọn về quá trình phát triển lịch sử của chủ đề được đưa ra, vì chỉ khi hiểu được điều này thì lược đồ hiện tại mới trở nên dễ hiểu. Các định nghĩa và phân loại hiện tại đã được nêu ra, và tôi cũng tập trung phê bình vào các khía cạnh gây tranh cãi nhiều của chúng, vì chúng là mối quan tâm lớn nhất, mặc dù tôi nhận ra rằng một số quan điểm của tôi không được chia sẻ.

Định nghĩa

Động kinh và co giật động kinh

Có thể lập luận rằng các định nghĩa hiện đại về động kinh và co giật động kinh đã được phát triển vào những năm 1870 với sự phát hiện của John Hughlings Jackson. Với sự hiện đại đáng kinh ngạc, vào năm 1870, ông đã định nghĩa cơn động kinh là tương quan lâm sàng của ‘tình trạng phóng điện chất xám không thường xuyên, đột ngột và quá mức’, và năm 1873 mở rộng định nghĩa này để đề cập đến ‘chất xám’ của não, phản ánh những tiến bộ diễn ra trong khoa học mới về phân vùng hóa não: ‘Động kinh là tên gọi của sự phóng điện không thường xuyên, đột ngột, quá mức, nhanh chóng và cục bộ của chất xám’. Ông nhận ra rằng sự bắt đầu của cơn động kinh (cơn thoáng báo/ aura) cung cấp manh mối cho trọng tâm của cơn động kinh và do đó ký hiệu học [dấu hiệu lâm sàng] về cơn động kinh cần được phân tích tỉ mỉ. Ông cũng dành nhiều trang để thảo luận về bản chất và sinh lý bệnh của bệnh động kinh, cùng dựa trên các định nghĩa và sơ đồ phân loại của ông về vấn đề này. Từ quan điểm của ngày nay, thật đáng chú ý khi thấy định nghĩa của ông về cơn co giật động kinh vẫn là cốt lõi của tất cả các sơ đồ và nó đã được thay đổi rất ít. Quan điểm của ông về phân loại cũng vẫn còn giá trị và không bị phản đối. Thật vậy, ông là đóng góp cá nhân lớn nhất cho chủ đề này.

Sau Jackson, các tác giả ít ảnh hưởng hơn đã đề xuất nhiều định nghĩa và thuật ngữ thay thế khác nhau. Sự ra đời của điện não đồ (EEG), vào đầu những năm 1940, cũng có ảnh hưởng sâu sắc đến định nghĩa và phân loại cơn động kinh và phương pháp ‘điện lâm sàng’ ra đời.

Đến giữa thế kỷ XX, nhu cầu tiêu chuẩn hóa phát sinh. Henri Gastaut, chỉ huy vĩ đại thứ hai của trận chiến này, đã nhận ra điều đó và dưới sự bảo trợ của ILAE, ông đảm nhận vai trò lãnh đạo, kết tinh cả định nghĩa và đặc biệt là phân loại. Trong khoảng thời gian vài thập kỷ, với công trình nghiên cứu đặc biệt của Fritz Dreifuss, một hệ thống định nghĩa và phân loại đã được phát triển, được sử dụng phổ biến và cũng có tác dụng thúc đẩy ILAE trở nên nổi tiếng trên thế giới.

Vào những năm 1960, Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) đã vào cuộc, lo ngại rằng các định nghĩa và thuật ngữ trong nhiều lĩnh vực thần kinh học và tâm thần học là khó hiểu và mâu thuẫn. WHO đã thành lập các hội đồng chuyên gia trong các lĩnh vực khác nhau, và Gastaut được yêu cầu chủ trì hội đồng về bệnh động kinh, đưa ra Từ điển về Bệnh động kinh (thực chất là một bảng chú giải thuật ngữ), cuối cùng được xuất bản vào năm 1973. Tính cấp thiết của việc tiêu chuẩn hóa trong lĩnh vực này đã được công nhận, và trong phần mở đầu cho cuốn từ điển đã xuất bản có ghi rằng: ‘Tình hình đã trở nên xấu đi cùng với sự gia tăng của thông tin được xuất bản; các thuật ngữ thường không được định nghĩa và có thể có các ý nghĩa khác nhau đối với tác giả và người đọc. . . Do đó, nhu cầu về tính chính xác và khả năng so sánh trong việc báo cáo dữ liệu chính ngày càng trở nên cấp thiết. ”Bản thảo đầu tiên của Từ điển được Gastaut chuẩn bị và sau đó được xem xét nhiều lần bởi các nhóm nhỏ chuyên gia (Gastaut ở vị trí chủ tịch, cùng Masland, Pond, Collomb , Saradzisvilli, Broughton, Valasco Suarez, và Wada) và sau đó bởi một nhóm chuyên gia rộng hơn từ 16 quốc gia. Phiên bản cuối cùng được tạo ra như một tài liệu đồng thuận, và trong đó, lần đầu tiên, nhiều loại động kinh và cơn động kinh và các thuật ngữ khác liên quan đến động kinh được định nghĩa chính thức.

Sự thôi thúc tìm tòi các định nghĩa đã tỏ ra không thể cưỡng lại được đối với ILAE, và trong những năm gần đây, một loạt các định nghĩa ‘chính thức’ được sửa đổi, sau đó được xuất bản. Lần đầu tiên là vào năm 2001, một bảng thuật ngữ sửa đổi đã được xuất bản bởi Bộ phận chuyên trách về Phân loại và Thuật ngữ của ILAE, với mục đích đã nêu là ‘mô tả và hiện tượng hóa, để cung cấp một thuật ngữ tiêu chuẩn cho nhân viên y tế khi truyền đạt những gì quan sát được và những gì bệnh nhân báo cáo trong cơn động kinh’. Các định nghĩa về động kinh và cơn động kinh đã được định dạng lại. Thật không may, vào năm 2005, ILAE lại thấy cần thiết phải đưa ra các định nghĩa cập nhật, tuyên bố rằng có ‘ít đồng thuận chung’ về các định nghĩa về động kinh và co giật, mặc dù không rõ tại sao lại nghĩ đến điều này. Người ta cũng nói rằng định nghĩa trong bảng chú giải năm 2001 là ‘sơ bộ’, mặc dù không có gì gợi ý điều này trong ấn phẩm năm 2001. Sau đó, vào năm 2014, cùng một nhóm chuyên trách, một số người có thể cảm thấy khá ngớ ngẩn khi tuyên bố rằng định nghĩa năm 2005 về chứng động kinh là một định nghĩa ‘khái niệm’, quyết định rằng điều này có thể được ‘dịch’ thành một ‘định nghĩa hoạt động’ mới (một định nghĩa thực tế lâm sàng) thay thế các nỗ lực trước đó. Các định nghĩa này được trình bày, và thật thú vị khi xem chúng đã phát triển như thế nào. Định nghĩa về một cơn động kinh đã thay đổi rất ít, và thực sự vẫn được Jackson quan niệm phần lớn. Định nghĩa về chứng động kinh đã phát triển, và có thể không tốt hơn, nhưng người ta tự hỏi thực sự điểm quan trọng của những thay đổi không ngừng này là gì.

Định nghĩa ILAE hiện tại rõ ràng nhưng hơi khó sử dụng (và với độ dài của nó khiến cho các định nghĩa của Jackson, đáng ngạc nhiên, là không mắc phải!) Và, trong hầu hết các cơ sở thực tế lâm sàng, công thức của Gastaut năm 1973 vẫn được sử dụng và vẫn đủ tiêu chuẩn.

Phân loại

ILAE phân loại động kinh và cơn động kinh

Như với định nghĩa, phân loại là quan trọng để giao tiếp và phân chia trong thực hành lâm sàng và nghiên cứu. Một sơ đồ phân loại cũng quan trọng vì một lý do khác – nó cung cấp một khuôn khổ để khái niệm hóa kiến ​​thức và nghiên cứu; một kế hoạch kém sẽ có khả năng dẫn đến nghiên cứu không tập trung hoặc vô ích trong tương lai. Do đó, nó là một chủ đề có ý nghĩa lớn.

Jackson đã đưa ra một điểm cực kỳ quan trọng khác khi ông phân biệt giữa cái mà ông gọi là phân loại khoa học và cái mà ông coi là ‘thực dụng thuần túy’. Ông đã sử dụng phép loại suy của một phân loại thực vật. Phân loại khoa học dựa trên những gì một nhà thực vật học có thể sử dụng, bằng cách cung cấp danh sách các lớp tự nhiên, ví dụ như các loài, chi, họ, v.v. Mặt khác, phân loại thực tế là những gì một người làm vườn có thể sử dụng và là ‘sự sắp xếp như vậy- nhưng đi theo những gì bề ngoài hoặc nổi bật nhất’. Sự phân loại thực tế tạo điều kiện thuận lợi cho việc xác định và áp dụng kiến ​​thức cho các mục đích thực dụng, nhưng như Jackson đã chỉ ra: ‘nó có thể không được tin cậy như một cách phân loại tự nhiên. Tuy nhiên, phần lớn trong số đó có thể được chi tiết hóa hơn nữa, thậm chí nó không phải là một cách tiếp cận để phân loại khoa học. “

Sự tương tự này giữa người làm vườn và nhà thực vật học, và giữa người thực dụng và người khoa học xuất hiện ở nhiều nơi khác nhau trong ấn phẩm của Jackson, và tầm quan trọng của sự khác biệt này rất rõ ràng đối với ông và với độc giả của ông. Sự phân loại xuất hiện thường xuyên trong các bài viết của ông, với các mục chi tiết và rõ ràng, và Jackson luôn cố gắng điều chỉnh điều này với các lý thuyết của ông về cấu trúc và chức năng thần kinh, theo cách mà người đọc hiện đại có thể thu được nhiều lợi ích.

Phân loại lâm sàng và điện não của ILAE về co giật động kinh (1964 và 1969/1970)

Sau Jackson và cho đến những năm 1940, không có nhiều phát triển đáng chú ý xảy ra trong lĩnh vực phân loại, nhưng điều này đã thay đổi với sự ra đời của EEG dường như mang lại tiềm năng cho một cách tiếp cận ‘khoa học’ hơn. Điều này đã kích thích nhiều hoạt động trong lĩnh vực phân loại, với sự đóng góp quan trọng của Charles Symonds (nhà thần kinh học hàng đầu Queen Square), Francis McNaughton (Chủ tịch ILAE 1961–1965) và Richard Masland (Giám đốc NINDS 1958–1968 và Chủ tịch WFN 1981–1989), nhưng chính Henri Gastaut (Tổng thư ký ILAE 1965–1969 và Chủ tịch 1969–1973) mới là người có ảnh hưởng lớn nhất. Ông, cùng với các đồng nghiệp, đã đề xuất tạo ra “một phân loại quốc tế” bởi vì, như ông đã viết: “các phân loại động kinh hiện tại khác nhau đáng kể, và nhu cầu về một hệ thống phân nhóm thống nhất và tiêu chuẩn hóa là rất rõ ràng”. Ông đã bắt tay vào một loạt các sơ đồ phân loại trong những năm 1960 và 1970 đã được áp dụng rộng rãi.

Qua đó, thật thú vị khi quan sát quá trình Gastaut thiết lập để hình thành sự phân loại của mình. Ông đã tự mình soạn thảo một đề xuất và sau đó tập hợp 120 nhân vật hàng đầu trong một cuộc họp ở Marseilles vào ngày 1 đến ngày 2 tháng 4 năm 1964. Họ đã tranh luận trong hai ngày, cho đến khi có vẻ kiệt sức. Sau hai ngày, một bản dự thảo mới đã được tạo ra và sau đó được đệ trình. cho một Ủy ban thuật ngữ mới được thành lập bao gồm đại diện của các Chi nhánh Hoa Kỳ và Châu Âu của ILAE và đại diện của Liên đoàn Thần kinh học Thế giới (WFN) và của Liên đoàn Quốc tế về Điện não và Sinh lý Thần kinh Lâm sàng (IFSECN). Ủy ban này đã họp vào tháng 5 năm 1964 tại Heemstede, và Gastaut sau đó đã công bố đề xuất của họ về Phân loại quốc tế về các cơn co giật do động kinh trong cùng năm. Một bản sao đã được gửi cho tất cả các nhà thần kinh học là thành viên của một hội thần kinh quốc gia và có vẻ như Gastaut đã nhận được 170 bình luận. Dự thảo sửa đổi sau đó đã được tranh luận tại Đại hội ILAE, bốn năm một lần, ở Vienna vào năm 1965 (được tổ chức cùng với Đại hội thần kinh học lần thứ 8 và Đại hội quốc tế lần thứ 6 về điện não đồ và sinh lý thần kinh lâm sàng) và sau đó được gửi lại cho Ủy ban, và với nhiều ý kiến ​​khác nhau đã được tranh luận, tại cuộc họp của Ban điều hành ILAE năm 1967. Một dạng tóm tắt rút gọn của phân loại cũng được xuất bản vào cuối phiên bản năm 1964, nhưng rõ ràng là Gastaut không thích điều này và ông đã loại bỏ nó từ các phiên bản sau (mặc dù nó rất dễ sử dụng và nhanh chóng được áp dụng trong thực hành động kinh bên ngoài chuyên khoa sâu).

Sơ đồ phân loại được xuất bản vào năm 1969 trong phần bổ sung cho Động kinh như một phần của chương trình của hội nghị New York 1969 và sau đó được tái bản dưới dạng giống hệt ở Động kinh vào năm 1970. Rõ ràng là, mặc dù phản đối sự tham vấn rộng rãi của ông, Gastaut đã không chấp nhận nhiều sửa đổi đối với dự thảo năm 1964 của ông. Sự chuyển mình là một trong những dấu ấn nổi bật của ông, và ông đã cải tiến việc phân loại theo kiểu không thể bắt chước. Tuy nhiên, có một vài khác biệt đáng kể giữa phiên bản 1964 và phiên bản cuối cùng 1969/1970, đáng chú ý là những thay đổi đối với thuật ngữ động kinh cơn vắng (điển hình / không điển hình được thay đổi thành đơn giản / phức tạp), năm 1969/1970 với cơn co giật ở trẻ sơ sinh- như một loại động kinh toàn thể, sự vắng mặt / hiện diện của thay đổi ý thức được đề cập với các cơn co giật từng phần đơn giản / phức tạp, và loại trừ các loại co giật thất thường ở trẻ sơ sinh năm 1964.

Phân loại sửa đổi đã được trình bày trước Đại hội đồng của Đại hội ILAE bốn năm ở New York vào năm 1969, nơi nó được thảo luận thêm. Mặc dù có vẻ như nó chưa được chính thức thông qua tại đại hội New York, nhưng ‘phân loại loại động kinh’, như nó đã được biết đến, đã được áp dụng rộng rãi, không nghi ngờ gì, phần lớn là do sự quảng bá không mệt mỏi của Gastaut. Hơn nữa, việc gắn phân loại với tên ILAE giống như một cuộc đảo chính công khai. Nhờ hành động đơn lẻ này, ILAE đã trở thành đồng nghĩa với cơ quan chuyên môn về bệnh động kinh, và điều này hơn bất kỳ hoạt động nào khác đã đưa ILAE lên vị trí hàng đầu trong thế giới về bệnh động kinh.

Trong sơ đồ phân loại 1969/1970, cơn động kinh được xác định theo sáu trục (mà Gastaut gọi là các tiêu chí): dấu hiệu lâm sàng, điện não đồ, điện não đồ vùng, giải phẫu, nguyên nhân và tuổi. Về mặt này, phân loại ILAE tương tự như cấu trúc phân loại của Symonds với năm trục: lâm sàng, bệnh lý, giải phẫu, sinh lý và điều trị. Các cơn co giật được chia thành hai nhóm cơ bản trong cả hai sơ đồ: co giật cục bộ và toàn thể của Gastaut,- cục bộ và trung tâm của Symonds.

Các cơn động kinh cục bộ được Gastaut xác định là:

Động kinh trong đó những thay đổi lâm sàng đầu tiên cho thấy sự hoạt hóa của một vùng giải phẫu và / hoặc chức năng của các tế bào thần kinh, giới hạn ở một phần của bán cầu đơn lẻ; trong đó các cơn co giật biểu hiện điện não đồ không nhất quán, bị hạn chế, ít nhất là khi bắt đầu, ở một vùng của da đầu (vùng tương ứng với đại diện vỏ não của hệ thống liên quan); và trong đó sự phóng điện ban đầu của tế bào thần kinh thường bắt nguồn từ một phần vỏ não nhất định hoặc hơi lan tỏa (phần dễ tiếp cận và dễ bị tổn thương nhất) của một hệ thống như vậy.

Loại co giật cục bộ cũng bao gồm co giật toàn thể thứ phát, có thể phát triển từ triệu chứng cơ bản (đơn giản) hoặc phức tạp, và các cơn động kinh toàn thể có thể đối xứng hoặc không đối xứng, tăng trương lực hoặc giật, nhưng thường là tăng trương lực-giật.

Co giật toàn thể được định nghĩa trong sơ đồ của Gastaut là:

Động kinh trong đó các đặc điểm lâm sàng không bao gồm bất kỳ dấu hiệu hoặc triệu chứng nào liên quan đến hệ thống giải phẫu và / hoặc chức năng khu trú ở một bán cầu, và thường bao gồm suy giảm ý thức ban đầu, thay đổi vận động toàn thân hoặc ít nhất là hai bên và ít nhiều đối xứng và có thể đi kèm với sự phóng điện tự động ‘hàng loạt’; trong đó các bản ghi điện não ngay từ đầu là hai bên, đồng bộ tổng thể và đối xứng qua hai bán cầu; và trong đó sự phóng điện động kinh diễn ra, nếu không phải trong toàn bộ chất xám, thì ít nhất là ở phần lớn hơn và đồng thời ở cả hai bên.

Tất nhiên, ILAE chỉ đơn giản tuân theo các khái niệm cơ bản, bắt nguồn từ Jackson, rằng các cơn co giật toàn thân được tạo ra rộng (trung tâm não bộ) và các cơn co giật cục bộ là ‘khu trú’, và theo cùng một mô hình của Symonds, McNaughton , Masland và Penfield và Jasper. Tuy nhiên, mô tả chi tiết và các định nghĩa cẩn thận trong sơ đồ ILAE đã phân biệt nó với các sơ đồ khác và dẫn đến một cấu trúc vẫn tồn tại cho đến ngày nay.

Cũng cần lưu ý rằng Gastaut đã cẩn thận không sử dụng thuật ngữ ‘khu trú’/ focal để chỉ các cơn động kinh ‘cục bộ’ như đã từng xảy ra cho đến thời điểm đó, vì ông nhận ra rằng một hệ thống (một mạng lưới) liên quan đến các vùng rộng và sâu của chất xám vỏ não và các mối liên hệ khác làm cơ sở cho nhiều cơn động kinh cục bộ. Sự khác biệt này đáng tiếc đã bị mất một lần nữa trong các sửa đổi ILAE được đề xuất gần đây.

Phân loại lâm sàng và điện não của ILAE về cơn động kinh (1981)

Điều thú vị là tại Đại hội New York 1969, tại đó việc phân loại ILAE đã được tranh luận, cũng có một bài báo về EEG đo từ ngoài. Trong thập kỷ tiếp theo, phép đo EEG từ ngoài đã trở nên phổ biến rộng rãi và những phát hiện từ máy đo từ ngoài được cho là cần thiết để đưa vào phân loại kiểu động kinh. Ủy ban về thuật ngữ ILAE tiếp tục nhóm họp, hiện là chủ tịch Fritz Dreifuss (Tổng thư ký ILAE 1981–1985 và Chủ tịch 1985–1989), và coi vai trò của nó là ‘cập nhật, sửa đổi và cải thiện phân loại dựa trên khả năng của các kỹ thuật mới hơn [tức là đo từ ngoài] để nghiên cứu cơn động kinh ‘. Năm 1981, một phân loại động kinh đã được sửa đổi được công bố là “một thỏa hiệp thể hiện sự tổng hợp những nỗ lực của nhiều người, nghiên cứu hàng trăm vụ động kinh trong nhiều năm. Việc tổng hợp kiến ​​thức này đã được đưa ra phù hợp với công nghệ hiện đại mà không ngoại suy những gì không thể quan sát được, nhưng nhận thức được sự phát triển của bất kỳ nỗ lực ngữ nghĩa sống động nào vẫn phải được sửa đổi liên tục ‘.

Phân loại động kinh và điện não đồ lâm sàng năm 1981 sửa đổi này đã được Đại hội đồng ILAE của ILAE tại Kyoto phê duyệt vào năm 1981, và vẫn là phân loại vẫn được chấp nhận rộng rãi nhất hiện nay.

Sự phân loại năm 1981 khác ở hai điểm chính so với sơ đồ của năm 1969/1970. Đầu tiên, các thông số về giải phẫu, tuổi và nguyên nhân đã bị loại bỏ. Điều này được tuyên bố là bởi vì “chúng phần lớn dựa trên thông tin lịch sử hoặc suy đoán hơn là thông tin dựa trên quan sát trực tiếp”. Do đó, phân loại năm 1981 đã trở thành ‘phân loại điện lâm sàng’ giới hạn chỉ hoàn toàn là dữ liệu lâm sàng và điện não đồ (phần lớn dữ liệu này bắt nguồn từ điện não đồ và video đo từ ngoài), nói cách khác là phân loại kiểu động kinh (‘phân loại của người làm vườn’). Nó cũng được gọi là một phân loại ký hiệu học; sử dụng sai thuật ngữ ngôn ngữ chuyên môn dùng để chỉ ý nghĩa của các dấu hiệu và ký hiệu. Thứ hai, động kinh cục bộ được chia thành các loại đơn giản và phức tạp tùy thuộc vào việc ý thức có bị rối loạn hay không, và điều này khác với cách sử dụng từ đơn giản và phức tạp trong các phân loại năm 1964 và 1969/1970. Các loại co giật toàn thể cũng thay đổi.

Phân loại năm 1981 đã đứng trước thử thách của thời gian và đã trở thành ngôn ngữ phổ biến của các chuyên gia động kinh trên toàn thế giới. Nó vẫn là phân loại chính thức được công nhận của các cơn co giật động kinh cho đến ngày nay.

Phân loại ILAE của chứng/ bệnh động kinh (1969/1970)

Ngay sau khi soạn thảo phân loại cơn động kinh của mình, Gastaut chuyển sự chú ý của mình sang một công việc hoàn toàn nguyên bản hơn, phân loại “các bệnh động kinh”.

Vào tháng 7 năm 1968, không nghi ngờ gì về sự xúi giục của Gastaut, WHO đã chính thức yêu cầu các chuyên gia nghiên cứu từ điển về bệnh động kinh của mình đưa ra bảng phân loại bệnh động kinh để đi kèm với việc phân loại cơn động kinh. Gastaut đã yêu cầu Ủy ban về thuật ngữ ILAE đảm nhận nhiệm vụ này, giống như ông đã làm để phân loại các cơn động kinh, kịp thời tham dự Đại hội New York vào tháng 9 năm 1969. Đây chỉ là một yêu cầu trên danh nghĩa, vì thực tế Gastaut đã đưa ra một bản thảo đầu tiên, và ông đã gửi thông báo này vào tháng 8 và tháng 11 năm 1968 cho các thành viên Ủy ban ILAE và hội đồng chuyên gia của WHO / IFECN. Khoảng thời gian cũng ngắn đến mức nực cười, và ông cố gắng một lần nữa cho qua cải thiện sự phân loại của mình, nhưng trong dịp này, có sự phản đối đáng kể mà ông không thể vượt qua. Một phần ba số thành viên mà ông tham khảo ý kiến ​​đã chấp thuận phân loại (mặc dù có thắc mắc), một phần ba phản đối dự thảo và một phần ba không phản hồi. Thời gian không còn nhiều, và vì vậy Gastaut quyết định gửi bản thảo của chính mình tới cuộc họp ở New York. Rõ ràng là có nhiều tranh cãi đằng sau hậu trường và theo một cách chưa từng có, Merlis, Chủ tịch ILAE lúc bấy giờ, đã vội vàng triệu tập và chủ trì Ủy ban Quốc tế về Phân loại các kiểu Động kinh, với các thành viên từ WFN, Liên đoàn Thế giới. của Hiệp hội Thần kinh (WFNS) và ILAE (bao gồm cả Masland và Gastaut đều có mặt) một tuần trước cuộc họp ở New York. Một báo cáo dự thảo  đã được soạn thảo và trình bày cùng với bản thảo của Gastaut cho Đại hội đồng New York. Thật kỳ lạ, một sơ đồ phân loại thứ ba cũng được đưa ra, bởi Richard Masland, mặc dù ông là thành viên của hội đồng WHO và cũng là Ủy ban của Merlis. Sơ đồ này cũng được trình bày trong cuộc họp ở New York.

Gastaut vắng mặt tại Đại hội New York – một cách bất thường, vì ông là Tổng thư ký vào thời điểm đó. Merlis cho rằng điều này là do nhiệm vụ khẩn cấp của ông với tư cách là Hiệu trưởng Đại học Marseilles. Những gì thực sự diễn ra giữa Merlis và Gastaut không được ghi lại, nhưng tại Đại hội đồng ILAE, được mô tả là ‘sôi nổi’, các thành viên của ILAE đã được mời gửi ý kiến ​​về các dự thảo khác nhau. Trên thực tế, có lẽ không có gì đáng ngạc nhiên, dường như không có tiến bộ nào khác được thực hiện. Merlis và Gastaut sau đó rời khỏi các cuộc tranh luận và chắc hẳn đã có cảm giác mệt mỏi với chủ đề này, vì không có nhiều điều khác xảy ra liên quan đến việc phân loại các động kinh trong 10 năm tiếp theo.

Thật thú vị khi so sánh cả ba phương án. Trong phiên bản của Gastaut, các động kinh được chia thành ba loại chính: động kinh toàn thể, cục bộ và không phân loại. Phạm trù toàn thể được chia thành động kinh toàn thể sơ cấp và toàn thể thứ cấp. Bảy tiêu chí (trục) được sử dụng để gán cho mỗi loại: biểu hiện lâm sàng và điện não đồ; điện não đồ liên vùng; tuổi phát bệnh; thay đổi tâm thần kinh; đáp ứng với điều trị; bệnh nguyên; và sinh lý bệnh.

Trong phiên bản của Merlis, rõ ràng là dựa trên Gastaut, động kinh được phân loại thành ba loại chính giống như vậy. Tuy nhiên, phân loại toàn thể được chia thành ba nhóm, không phải hai như theo Gastaut: động kinh toàn thể sơ cấp, động kinh toàn thể thứ cấp và động kinh toàn thể không xác định. Sự khác biệt chính so giữa hai sơ đồ phân loại là các tiêu chí (trục) được sử dụng để phân loại. Trong sơ đồ của Merlis có sáu, so với bảy của Gastaut: (a) tiêu chí lâm sàng: dạng co giật; sự hiện diện của bằng chứng thần kinh hoặc tâm lý của sinh lý bệnh não; tuổi phát bệnh; bệnh nguyên; và (b) Tiêu chí điện não đồ: kịch phát liên cấp; và kịch phát.

Tất nhiên, cả hai sơ đồ đều rất giống nhau về cấu trúc và quan niệm đối với việc phân loại cơn co giật động kinh, với các cách phân chia chính dựa trên sự phân đôi toàn thể / cục bộ. Thuật ngữ cũng được chia sẻ trên hai sơ đồ nhưng với ý nghĩa khác nhau. Vì vậy, từ tiên phát được sử dụng để chỉ nguyên nhân gây bệnh và cũng để chỉ sự vắng mặt của khởi phát khu trú trong động kinh toàn thể và thuật ngữ toàn thể thứ phát được áp dụng cho các cơn động kinh và toàn thể thứ cấp cho động kinh (điều này gây ra sự nhầm lẫn sau đó và vẫn xảy ra). Các tiêu chí cho hai hệ thống phân loại cũng tương đối giống nhau. Trên thực tế, tiêu chí của Merlis để phân loại các cơn động kinh gần như giống với sáu tiêu chí được sử dụng trong phân loại cơn động kinh năm 1964 của Gastaut. Toàn bộ tình tiết này hỗn loạn, và với lợi ích của nhận thức muộn thể hiện sự không nắm bắt được sự khác biệt thực sự giữa co giật và động kinh; đây chắc chắn là một cơ hội bị mất.

Sơ đồ của Masland hơi khác, và theo ý kiến ​​của tôi, ở một số khía cạnh vượt trội hơn cả công thức của Merlis và Gastaut. Ông đã cùng thu thập tất cả các thuật ngữ được sử dụng cho ‘chứng động kinh’ đã được đề cập trong bảng thuật ngữ WHO, và cố gắng phân loại chúng theo bốn tiêu đề chính: nguyên nhân, sinh lý học (thuật ngữ của ông để chỉ kiểu cơn động kinh / điện não đồ), giải phẫu, và tuổi / yếu tố thúc đẩy / điều kiện bổ sung. Căn nguyên được chia thành động kinh toàn thể kết hợp (trên thực tế là động kinh toàn thể nguyên phát), không rõ, chuyển hóa và thực tổn (trên thực tế là tổn thương). Loại co giật / điện não đồ được chia thành tổng quát từ khi khởi phát, một phần ngay từ đầu, thất thường và một bên. Giải phẫu được chia thành trung tâm, nhiều hoặc khuếch tán, và một phần. Các yếu tố tuổi tác / thúc đẩy được chia thành tuổi, chu kỳ sinh học, liên quan đến nội tiết tố nữ và phản xạ động kinh. Đáng buồn thay, cách phân loại này dường như chưa bao giờ được chấp nhận một cách nghiêm túc.

Phân loại ILAE của các chứng động kinh và hội chứng động kinh (1985–1989)

Sau Đại hội đồng năm 1981, Mogens Dam, Chủ tịch ILAE mới, đã bổ nhiệm Peter Wolf làm Chủ tịch Ủy ban Thuật ngữ và Phân loại của ILAE. Wolf đã gặp thách thức trong việc đưa ra một bản thảo đồng thuận về việc phân loại cácđộng kinh. Một khuôn khổ chung của một phân loại mới nhanh chóng được thống nhất, với các động kinh được chia thành bốn loại trên cơ sở hai trục: vô căn / có triệu chứng và liên quan đến toàn thể / cục bộ. Thuật ngữ thứ hai được giới thiệu để bao gồm tất cả các chứng động kinh có cơn động kinh khu trú bao gồm các chứng động kinh thời thơ ấu tự phát và vô căn khác, chỗ không tồn tại hình thái khu trú và chỗ các cơn động kinh có thể bắt nguồn ở cả hai bán cầu. Điều này trùng hợp với những gì đã trở thành sự phát triển lớn trong lĩnh vực này, sự ra đời của khái niệm hội chứng động kinh. Đây cũng là một sáng kiến ​​của trường Marseilles kết hợp với Ủy ban ILAE.

Năm 1983, Joseph Roger tổ chức một hội thảo mang tính bước ngoặt tại Marseilles, tại đó các hội chứng động kinh khác nhau được xác định và liệt kê, đồng thời có mặt các thành viên của Ủy ban Phân loại và Thuật ngữ ILAE. Kỷ yếu của hội thảo được xuất bản vào năm 1985  và trong những năm sau đó, các hội thảo tiếp theo được tổ chức và xuất bản các kỷ yếu (các ấn phẩm được biết đến như là ‘hướng dẫn’ về chứng động kinh). Các hội chứng được hỗ trợ bởi dữ liệu đủ chắc chắn đã được đưa vào khuôn khổ bốn loại, và bản thảo đầu tiên của Phân loại quốc tế mới về các hội chứng động kinh và động kinh đã được trình bày trước Đại hội đồng ILAE ở Hamburg vào năm 1985. Sau khi sửa đổi thêm, một bản dự thảo cuối cùng đã được thông qua tại cuộc họp tiếp theo ở New Delhi vào năm 1989. Vào thời điểm đó, bảng phân loại có loại thứ ba là các trường hợp ‘căn nguyên ẩn’/cryptogenic mà bằng chứng về việc vô căn hoặc có triệu chứng không có mặt. Phiên bản đã được phê duyệt được xuất bản năm 1989.

Trong phiên bản này, hội chứng động kinh được định nghĩa là ‘một chứng rối loạn động kinh được đặc trưng bởi một nhóm các dấu hiệu và triệu chứng thường xuyên xảy ra cùng nhau; chúng bao gồm các mục như loại động kinh, nguyên nhân, giải phẫu, các yếu tố tạo ra, tuổi khởi phát, mức độ nghiêm trọng, mãn tính, chu kỳ ngày và tuần hoàn và đôi khi là tiên lượng. Người ta chỉ ra rằng một hội chứng không giống như một “bệnh” theo nghĩa nó không nhất thiết phải có nguyên nhân và tiên lượng chung. Sau đó, người ta đã công nhận và ngày nay càng rõ ràng hơn rằng nhiều hội chứng có nhiều nguyên nhân tiềm ẩn tiềm ẩn, một số bệnh nhân tiến triển từ hội chứng này sang hội chứng khác và nhiều hội chứng có ranh giới kém xác định. Tuy nhiên, từ góc độ lâm sàng, khái niệm về hội chứng động kinh, mặc dù không hoàn hảo, đã được chứng minh là một cách hữu ích để cung cấp các phân loại liên quan đến lâm sàng.

Đề án 1989 là một sự cải tiến so với những gì Merlis và Gastaut sản xuất vào năm 1970, nhưng vẫn giữ lại sự phân chia toàn thể / cục bộ và vẫn sử dụng các thuật ngữ toàn thể thứ cấp / thứ phát. ‘Tiên phát’ đã bị loại bỏ để ủng hộ cho ‘vô căn’, từ này trở thành thuật ngữ được chấp nhận và sử dụng rộng rãi kể từ đó.

Như Fritz Dreifuss, đã được trích dẫn như là người đầu tiên nói, “co giật là động kinh như ho là viêm phổi”, và chắc chắn hình thức của một cơn co giật không cho ta biết gì về nguyên nhân hoặc bệnh lý. Tuy nhiên, thực tế là bản thân chứng động kinh về bản chất là một ‘triệu chứng’ của rối loạn chức năng não tiềm ẩn chứ không phải là một bệnh (theo nghĩa đau đầu là một triệu chứng chứ không phải một bệnh)- cũng rất quan trọng để nhận biết. Có một vùng xám giữa những gì tốt nhất được coi là động kinh và những gì được coi là tốt nhất là động kinh. Mối quan hệ giữa nguyên nhân và kiểu hình động kinh cũng rất khác nhau và do đó, việc phân loại bệnh động kinh rất chi tiết, phức tạp gần như chắc chắn sẽ vô ích. Mặc dù vậy, trong những năm gần đây đã phát triển một xu hướng đáng tiếc trong sử học hiện đại là chỉ định ngày càng nhiều hội chứng và chia nhỏ các danh mục thành các đơn vị nhỏ hơn và nhỏ hơn, điều này đã gây bối rối và trở thành một điểm nóng khác trong các cuộc chiến phân loại.

Cuối cùng, cần phải nhớ rằng phân loại động kinh và hội chứng – và phân loại loại co giật – đều là lược đồ thực nghiệm và thực dụng thuộc loại ‘làm vườn’ của Jackson. Chúng không mong muốn trở thành khoa học theo nghĩa ‘thực vật’, và giá trị của chúng phần lớn nằm ở việc chúng được sử dụng như một từ vựng tiêu chuẩn. Do đó, không nên nâng cao kỳ vọng và hãy đánh giá rõ ràng những hạn chế của chúng.

Các rối loạn chức năng bài xuất

Thật ra, tên gốc của bài là HỆ THẦN KINH VÀ CÁC RỐI LOẠN CƠ VÒNG của Vũ Anh Nhị, Nguyễn Bá Thắng (2005), nhưng tên bài như vậy không bám sát nội dung, nên tôi tạm đặt lại bằng tên mà tôi cho là phù hợp hơn. Đây là một bài bệnh học, có liên quan rất nhiều đến hoạt động của BS YHCT nhằm can thiệp phục hồi chức năng. Tuy nhiên, như nhiều bài bệnh học thần kinh khác, các cơ chế hoạt động của hệ thần kinh vẫn chưa thực sự rõ ràng, bởi sự tác động giữa thần kinh tự nguyện (có ý thức) và tự động (không có ý thức- giao cảm/ phó giao cảm) vẫn khó phân định. Do đó, tôi cũng lược bỏ phần thông tin phân loại chi tiết, mà tôi cho là không hữu ích, vì sự liệt kê trong bảng phân loại cũng được tác giả thừa nhận là khó ứng dụng trên lâm sàng, không có mối liên quan quan với cơ chế sinh lý- giải phẫu. Ngoài ra, các ý kiến cá nhân tôi để trong [].

GIỚI THIỆU

Rối loạn cơ vòng đường tiểu và đường tiểu và hậu môn trực tràng là các triệu chứng thường gặp trên lâm sàng không chỉ trong lĩnh vực thần kinh mà còn ở các chuyên khoa khác. Rối loạn cơ vòng bao gồm hai nhóm lớn, đó là tiêu tiểu không tự chủ và bí tiêu tiểu. Trong khi bí tiêu tiểu có thể do nguyên nhân thần kinh hoặc các nguyên nhân khác gây cản trở cơ học đường tiêu tiểu, rối loạn tiêu tiểu không tự chủ đa phần là do nguyện nhân thần kinh, chỉ một phần nhỏ do tổn thương trực tiếp trên các cơ vòng. Nguyên nhân bí tiểu gặp phổ biến là tắc nghẽn cơ học tại niệu đạo nhưng cũng có thể xảy ra do mất khả năng giãn cơ thắt ngoài niệu đạo hoặc mất phối hợp giữa cơ tống nước tiểu của bàng quang và cơ thắt đường tiểu. Táo bón gần như luôn có giảm vận chuyển ruột, nhưng nguyên nhân chủ yếu thường gặp gây táo bón kháng trị là mất khả năng thư giãn của cơ thắt ngoài hậu môn (cơ vân). Tiêu tiểu không kiểm soát là một rối loạn gây hậu quả nặng nề, khiến bệnh nhân rất mặc cảm và không dám ra khỏi nhà, và cũng không dám thổ lộ với người khác cho tới khi quá nặng. Vấn đề lâm sàng là phải hiểu cơ chế sinh lý và sinh lý bệnh của các rối loạn cơ vòng nhằm chẩn đoán đúng nguyên nhân để có được điều trị thích hợp.

GIẢI PHẪU SINH LÝ THẦN KINH HỆ THỐNG KIỂM SOÁT CƠ VÒNG

Cơ vòng đường tiểu và hậu môn bao gồm cơ thắt trong là cơ trơn do thần kinh thực vật chi phối, và cơ thắt ngoài là cơ vân có thể điều khiển chủ động. Các cơ thắt này có trung tâm kiểm soát ở tủy sống, từ đó có các đường liên lạc với các trung tâm cao cấp để có thể được điều khiển một cách có ý thức.

Giải phẫu chức năng kiểm soát tiêu tiểu [cấu trúc giải phẫu và thần kinh ngoại biên]

Kiểm soát cơ vòng hậu môn:

Cơ thắt trong hậu môn là cơ trơn, là phần dày lên của lớp cơ trơn trực tràng và ống hậu môn, hoạt động tự động, thường xuyên có một trương lực co thắt để khép kín ống hậu môn. Chi phối thần kinh vận động và cảm giác của cơ trơn ống hậu môn do thần kinh thẹn đảm nhiệm. Các thụ thể cảm giác ở vùng này có chức năng cảm giác phân biệt, giúp nhận biết khối phân tới cùng với độ cứng của nó, nhờ đó phân biệt được phân cứng, phân lỏng, hoặc hơi, đến hậu môn.

Cơ thắt ngoài hậu môn là cơ vân, cấu tạo phức tạp gồm lớp ngoài gắn vào da vùng quanh hậu môn, các lớp sâu hơn gắn vào đường giữa phía trước và phía sau. Bên cạnh đó, trục của trực tràng và ống hậu môn tạo thành một góc gập, cũng có vai trò trong kiểm soát đại tiện. Cơ mu trực tràng là một quai cơ vân đi từ xương mu chia ra hai bên ống tiêu hóa và hợp lại với nhau ở phía sau chỗ nối hậu môn – trực tràng.

Cơ này có nhiệm vụ làm góc giữa trực tràng và ống hậu môn gập thêm, giúp giữ phân lại trong trực tràng. Cơ thắt ngoài hậu môn do các sợi vận động thân thể từ nhánh trực tràng dưới của thần kinh thẹn chi phối, còn cơ mu trực tràng do các sợi vận động thân thể trực tiếp từ đám rối cùng chi phối.

Bình thường, ngay cả lúc ngủ, hai cơ này luôn ở trạng thái có một trương lực co thắt mức độ thấp để đóng kín vùng hậu môn. Trương lực này chỉ mất trong bệnh tabès dorgalis. Sự co thắt của cơ thắt ngoài hậu môn và cơ mu trực tràng tăng lên trong trường hợp tăng áp lực ổ bụng như rặn, ho hoặc thay đổi tư thế. Muốn đi tiêu, các cơ này phải giãn ra. Đề kiểm soát đại tiện, điều kiện cần là cơ thắt ngoài hậu môn phải hoạt động hiệu quả, và sàn chậu phải còn độ đàn hồi bình thường. [Độ đàn hồi này thực chất biểu thị trương lực các cơ vùng này và các dây chằng bình thường?]

Kiểm soát chức năng đi tiểu:

Bàng quang trữ nước tiểu và tống xuất nước tiểu từng đợt theo yêu cầu nhờ hoạt động phối hợp của ba thành phần

– Cơ tống nước tiểu (detrusor muscle) là cơ trơn bàng quang.

– Cơ thắt trong: là cơ trơn, nằm ở cổ bàng quang, lỗ niệu đạo trong.

– Cơ thắt ngoài niệu đạo, là cơ vân, điều khiển theo ý muốn.

Các cơ vòng có chức năng đảm bảo kiểm soát đi tiểu, riêng cơ vòng trong ở nam còn có chức năng chống trào ngược tinh dịch khi xuất tinh. Cơ chế kiểm soát tiểu tiện ở người cho tới nay vẫn chưa được hiểu một cách hoàn hảo, đặc biệt là cơ chế hoạt động của cơ thắt trong. Cơ thắt ngoài khi co thắt làm đóng niệu đạo, đóng và gập góc cổ bàng quang giúp giữ nước tiểu theo ý muốn. Bình thường cơ thắt ngoài niệu đạo luôn có một trương lực co thắt hằng định, và chỉ khi chúng giãn thì nước tiểu mới có thể được tống ra.

Như vậy để có thể tiểu tiện, các cơ vòng phải giãn ra cho phép cơ trơn bàng quang tống nước tiểu theo niệu đạo ra ngoài. Chức năng này được đảm bảo nhờ một co chế thần kinh phức tạp liên quan chủ yếu đến hệ phó giao cảm tủy cùng và các sợi giao cảm tủy ngực với một mức độ ít hơn. Ngoài ra, trung tâm đi tiểu ở thân não, với các đường liên lạc tủy sống và các trung tâm cao hơn, cũng góp phần kiểm soát đi tiểu.

Chi phối thần kinh của các thành phần tham gia vào chức năng đi tiểu như sau: 

– Cơ trơn bàng quang là cơ tống nước tiểu, nhận chi phối thần kinh phó giao cảm từ tủy cùng S2, S3, S4.

Vùng vòm bàng quang còn chịu chi phối của các sợi giao cảm đến từ cột trung gian bên tủy ngực T10, T11, T12, qua thần kinh hạ vị.

– Cơ thắt trong niệu đạo (và cả vùng tam giác đáy bàng quang) là cơ trơn, nhận chi phối thần kinh giao cảm qua thần kinh hạ vị.

– Cơ thắt ngoài niệu đạo là cơ vân, nhận chi phối thần kinh vận động và cảm giác thân thể qua thần kinh thẹn trung tâm là nhân Onuf ở tủy cùng S2, S3, S4.

Thần kinh thẹn cũng chứa các sợi hướng tâm mang tín hiệu từ niệu đạo và cơ vòng ngoài vào tủy cùng, phục vụ cho chức năng phản xạ và cảm giác.

Bàng quang cảm nhận được cảm giác đau và áp lực, đi theo đường cảm giác tạng và thân thể thông thường.

Kiểm soát thần kinh cho hoạt động tiêu tiểu [thần kinh trung ương]

Việc kiểm soát hoạt động cơ vòng đường tiểu và hậu môn trực tràng được thực hiện nhờ một mạng lưới thần kinh với sự tham gia của tủy sống, thân não, các nhân nền, và vỏ đại não.

Nhân Onuf

Nhân Onuf là một nhóm nhân đối xứng hai bên nằm tại tủy cùng S2, S3, và S4, phía trong của sừng trước tủy. Các nhân này chứa thân tế bào vận động sừng trước tủy, cả thành phần thực vật lẫn vận động thân thể. Phần bụng trong của nhân này chứa các neuron vận động thân thể, chỉ phối thần kinh cho thành phần cơ vân của bàng quang và cơ thắt hậu môn trực tràng, và cho các cơ vùng hội âm [là gì?]. Phần lưng của nhân này chứa các neuron vận động chi phối cho cơ thắt vân [không thấy mô tả các cơ này trong phần giải phẫu phía trên nhỉ? Hay là cơ thắt ngoài?] quanh niệu đạo.

Các neuron trong nhân này có kích thước nhỏ hơn các neuron vận động thân thể khác và có các bó sợi nhánh với mật độ dày, hướng lên và hướng xuống, nhưng chỉ giới hạn trong nhân. Các sợi nhánh dày đặc này tạo một mạng lưới liên lạc giữa các neuron trong nhân, có lẽ giúp đồng bộ hóa hoạt động các neuron trong nhân, giúp duy trì phóng lực nhịp nhàng và lặp đi lặp lại đến các cơ thắt. Các sợi nhánh khác tỏa ra từ thân chính của nhân này, liên lạc với các sợi xuống từ thân não và các trung tâm đại não, đặc biệt là nhân hạ đồi, cạnh não thất cùng bên, chất lưới bên của cầu não thấp cùng bên, và phần đuôi nhân lưng mơ hồ. Các sợi hướng tâm từ thần kinh thẹn cũng có tiếp hợp ở nhân này.

Liên quan đến các neuron này có các đầu tận cùng thần kinh chứa các peptide đường ruột leu-enkephalin, somatostatin, và vasopressin. Các peptide này có thể có vai trò quan trọng làm trung gian dẫn truyền cho việc ức chế phản hồi [sẽ tạo ra co hay giãn cơ?] các neuron cho cơ thắt niệu đạo và hậu môn trực tràng trong khi tiểu tiện, đại tiện.

Chi phối thân kinh trên khoanh

Các nhân cùng điều khiển hoạt động cơ thắt trơn và vân đường tiểu và cơ trơn tống nước tiểu của bàng quang được điều khiển bởi các đường xuống từ não dọc theo tủy sống. Hầu hết các sợi này nằm ở phần trong nhất của bó tháp [thế thì sao lại chi phối cơ trơn?]. Hệ thống thần kinh kiểm soát hoạt động tiêu tiểu được điều khiến bởi các sợi ly tâm phó giao cảm từ thần kinh lang thang và tủy cùng và bởi các sợi ly tâm giao cảm từ tủy ngực. Các sợi hướng tâm nhận cảm giác từ bàng quang, niệu đạo và cả vùng hậu môn trực tràng có lẽ đi trong phần bụng nông của cột bên. Các đường hướng tâm phó giao cảm, giao cảm, và cảm giác thân thể từ bàng quang và hậu môn trực tràng đi theo các con đường khác nhau.

Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện nhằm định vị các trung tâm kiểm soát tiêu tiểu và nhiều vị trí đã được đề xuất nằm ở vỏ não, các nhân nền, và vùng não thất III.

Các nhân nền khi kích thích có thể gây tăng phản xạ tống nước tiểu của bàng quang. Tuy nhiên triệu chứng tiểu ngập ngừng và mất tự chủ cùng với táo bón thường gặp ở bệnh nhân bệnh Parkinson nhiều khả năng là hậu quả của thoái hóa đường thực vật dopaminergic hơn là do tổn thương của chất đen, đặc trưng của bệnh. Tuy vậy, vẫn có khả năng có các đường liên lạc từ bàng quang và hậu môn trực tràng với các nhân của hệ limbic, hạ đồi, và tiểu não.

Thân não: các đường dẫn truyền kiểm soát tiểu tiện của thân não liên quan chặt chẽ với hệ thống kiểm soát hậu môn trực tràng. Trung tâm kiểm soát bàng quang của thân não có khả năng nằm tại nhân trần lưng bên của cầu não, phía trên của nhân locus ceruleus [nhân lục?]. Từ đây, các đường thần kinh đi xuống trong bó trung gian bên của tủy sống đến chi phối phó giao cảm cho tủy cùng và từ đó chi phối cơ tống nước tiểu của bàng quang. Đường thực vật ly tâm này liên lạc với các neuron của đám rối tạng Auerbach để kiểm soát hoạt động của cơ trơn đại tràng và hậu môn trực tràng.

Phản xạ của thân não được kích hoạt bởi cảm giác căng bàng quang và bởi cảm giác nước chảy qua niệu đạo hoặc căng niệu đạo. Khi cắt ngang tủy ngực, phản xạ đi tiểu bị mất tạm thời và nếu cắt ngang tủy ngực thấp thì nó có thể mất vĩnh viễn.

Quan điểm hiện đại là hiện diện một trung tâm kiểm soát tiểu tiện của cầu não (PMC, pontine micturition center) nằm ở cầu não lưng bên, từ đó cho các sợi phóng xuất xuống đến các tế bào cột trung gian bên tủy cùng và kiểm soát đường phó giao cảm ly tâm. Một trung tâm cầu não khác nằm ở phía bụng hơn cho các sợi phóng xuất tới phần điều khiển cơ thắt vân đường tiểu của nhân Onuf và cũng đến phần chi phối các cơ thắt trơn đường tiểu cũng của nhân này. Như vậy, có “một công tắc chuyển mạch thần kinh” ở thân não giúp kiểm soát hoạt động làm trống bàng quang (đi tiểu, co cơ tống nước tiểu và thư giãn cơ thắt) và hoạt động trữ nước tiểu (thư giãn tống nước tiểu va co cơ thắt niệu đạo). “Công tắc” này được hoạt hóa bởi các sợi cảm giác hướng tâm đường kính nhỏ từ bàng quang vào tủy cùng, báo hiệu căng thành bàng quang khi nước tiểu đầy, từ đó điều khiển hệ thống làm trống nước tiểu. Nó cũng được điều khiển bởi các đường ức chế từ trên xuống để điều khiển giữ nước tiểu lại trong bàng quang. Các nghiên cứu chụp cắt lớp phát xạ positron (PET) về chức năng trữ và tống xuất nước tiểu đã cho thấy có hoạt hóa ở vùng PMC cùng với hoạt hóa vùng trán bên phải khi đi tiểu, và tăng hoạt hóa vùng vỏ não hồi đai (cingulate) bên phải khi ngừng đi tiểu. Vùng chất xám quanh cống não cũng được hoạt hóa ngay trước khi đi tiểu nhưng chỉ thấy ở nam.

Vỏ não: Vùng vỏ não liên quan đến chức năng tiêu tiểu nằm ở mặt trong bán cầu đại não, tại tiểu thùy cạnh trung tâm ngay trước rãnh trung tâm, cùng vị trí với vùng vỏ não vận động điều khiển các cơ của tủy cùng. Vị trí vỏ não cảm giác của bàng quang và hậu môn – trực tràng không được biết chắc nhưng có lẽ cũng nằm tại vỏ não cảm giác kế cận, mặt trong bán cầu. Trên lâm sàng, tổn thương phần trên của vùng Rolando mặt trong bán cầu đại não không thường gặp, nhưng các tốn thương thùy trán lại rất thường gặp, có thể do tai biến mạch máu não, xuất huyết dưới nhện do vỡ phình động mạch thông trước, u thùy trán, chấn thương. Các tổn thương thùy trán này gây ra tác động đặc trưng trên kiểm soát tiêu tiểu, đặc biệt là mất ức chế tiêu tiểu, dẫn đến tiêu tiểu không phù hợp về không gian và thời gian.

Các báo cáo đã ghi nhận tổn thương thùy trán bán cầu phải thường gây tiểu gấp và tiểu không tự chủ hơn so với tổn thương bán cầu trái. Các tổn thương ở các phần khác của đại não ít gây ra vấn để lớn trong kiểm soát tiêu tiểu.

Với bí tiêu bí tiểu thì chỉ có các tổn thương ở tủy sống, nón tủy, và chùm đuôi ngựa là các nguyên nhân thần kinh có thể gặp.

CÁC RỐI LOẠN CHỨC NĂNG CƠ VÒNG VÙNG CHẬU

Rối loạn cơ vòng là biểu hiện thường gặp, có thể ở hai dạng cơ bản là tiêu tiểu không kiểm soát do mất hoạt động cơ thắt, và bí tiêu tiểu do mất phối hợp giữa thư giãn cơ thắt và hoạt động cơ tống xuất. Việc xử trí nói chung gồm điều trị nguyên nhân nếu được, và các biện pháp điều trị triệu chứng.

Rối loạn cơ vòng và các bệnh lý liên quan
Tiêu tiểu không kiểm soát Mất chức năng cơ vòng-Tiểu không kiểm soát do áp lực-Mất kiểm soát hậu môn trực tràng vô căn-Tổn thương cơ vòng (ví dụ rách cơ vòng trong sản khoa) -Tổn thương chùm đuôi ngựa Rối loạn kiểm soát cơ vòng-Tăng phản xạ cơ tống xuất vô căn-Rối loạn thần kinh trung ương 
Bí tiêu tiểu Mất phối hợp cơ vòng-Mất phối hợp cơ vòng-cơ tống xuất-Táo bón do mất thư giãn cơ vòng Mất lực tống xuất-Yếu cơ tống xuất vô căn-Suy thần kinh thực vật tiến triển-Bệnh cơ tạng vô căn.-Bệnh thần kinh tạng vô căn.-Bệnh Hirschsprung

Tiêu tiểu không kiểm soát:

Các cuộc nghiên cứu đã cho thấy tỉ lệ mắc tiêu tiểu không kiểm soát trong dân số chung phổ biến hơn dự đoán nhiều, đặc biệt là ở phụ nữ, nhất là người lớn tuổi. Có tới 10% phụ nữ trên 50 tuổi có ít nhất 2 lần tiểu không kiểm soát mỗi tháng, còn ở những phụ nữ lớn tuổi hơn ở các nhà dưỡng lão thì tỉ lệ này là trên 50%. Đại tiện không kiểm soát gặp ít hơn nhưng cũng thường bị đánh giá thấp hơn thực tế, do hay bị nhầm lẫn với tiêu chảy.

Mất kiểm soát tiêu tiểu là một triệu chứng khá phổ biến trong các bệnh lý thần kinh trung ương. Ở các bệnh nhân này, khả năng xuất hiện tiêu tiểu không kiểm soát là mối đe dọa cho lòng tự trọng của bệnh nhân, đôi khi lớn hơn cả những triệu chứng về vận động. Mất kiểm soát tiêu tiểu cũng có thể xảy ra khi tổn thương đường vận động hoặc cảm giác trong chùm đuôi ngựa. Tuy nhiên hầu hết các bệnh nhân mất kiểm soát tiêu tiểu lại không có bằng chứng của tổn thương thần kinh, và họ chỉ không kiểm soát tiêu tiểu (són tiêu tiểu) khi có áp lực tác động lên cơ vòng, như khi ho hoặc các nguyên nhân khác gây tăng áp lực ổ bụng đột ngột. Dạng này được gọi là tiêu hoặc tiểu không kiểm soát do áp lực vô căn, là dạng phổ biến nhất và không có căn nguyên cũng như các rối loạn chức năng gây rối loạn cơ vòng. Tuy nhiên các phân loại lâm sàng như thế này không giúp gì được cho quá trình chẩn đoán vì không liên quan với giải phẫu sinh lý để có thể giúp ích cho thực hành. Nói chung các tổn thương thần kinh [trung ương] càng cao thì càng liên quan đến mất kiểm soát việc giữ nước tiểu hoặc phân, còn các tổn thương càng thấp thì càng liên quan đến chức năng tống xuất nước tiểu hoặc phân. Như vậy, các tổn thương thùy trán thường gây tiêu tiểu ở hoàn cảnh không thích hợp, còn tổn thương ở nón tủy hoặc chùm đuôi ngựa lúc đầu thường gây bí tiểu, với tiểu tự động khi tràn đầy. Các tổn thương trung ương ở não, thân não, hoặc tủy sống có thể làm tăng phản xạ cơ tống xuất, có thể dẫn đến tiểu không theo ý muốn, đặc biệt khi có mất điều khiển cơ thắt. Hiện tượng này gọi là mất ổn định bàng quang hoặc mất phối hợp cơ thắt- cơ tống xuất. Nó cũng có thể xảy ra khi mối tương quan áp lực – dòng chảy bình thường bị phá vỡ do tắc nghẽn đường tiểu một phần như trong phì đại tiền liệt tuyến hoặc hẹp niệu đạo, hoặc khi thành bàng quang bị kích thích tăng nhạy cảm trong nhiễm trùng.

Tổn thương thùy trán:

Các tổn thương thùy trán có thể là u từ liềm đại não hoặc rãnh khứu chèn vào mặt trong dưới thùy trán, hoặc u của chính thùy trán, đột quỵ nhiều ổ, xơ cứng rải rác, và não úng thủy mất bù. Các tổn thương này thực ra thường gây tiêu tiểu không đúng lúc không đúng nơi, hơn là mất kiểm soát tiêu tiểu thực sự. Hiện tượng này có thể là hậu quả của rối loạn chức năng thùy trán dẫn đến những thay đổi chức năng trí tuệ. Ngoài ra cũng có hiện tượng tăng hoạt hóa cơ tống nước tiều kiểu tổn thương trung ương dẫn tới tiểu gấp, tiểu phản xạ [không hiểu là gì? Vì vẫn là tiêu tiểu không đúng lúc đúng nơi].

Riêng trong trường hợp não úng thủy mất bù, tổn thương thần kinh xảy ra là do não thất giãn rộng làm căng giãn các đường thần kinh từ vỏ não xuống, trong đó có bó tháp và các bó khác, với các sợi đến tủy cùng rất dễ bị tổn thương gây ra tiểu không kiểm soát kèm theo thất điều dáng đi và một số dấu hiệu tổn thương bó tháp nhẹ khác ở hai chân. Có thể có sa sút trí tuệ nhẹ.

Tổn thương thân não

Các tổn thương ở thân não (như hủy myelin hoặc nhồi máu) ít khả năng gây mất kiểm soát tiêu tiểu trừ khi có liệt giả hành với rối loạn cảm xúc kèm theo (thường tổn thương ở mức cao hơn thân não). Tuy nhiên các tổn thương cầu não có thể gây biểu hiện tiêu tiểu không kiểm soát, do tổn thương trung tâm cầu-hành kiểm soát nhân Onuf và gián đoạn các đường xuống từ thùy trán và hạ đồi đến nhân này.

Tổn thương tủy sống

Tổn thương tủy sống làm mất kiểm soát trên nhân đối với trung tâm tiêu tiểu tủy cùng, dẫn đến tiêu tiểu tự động nếu không có cản trở cơ học. Cả tốn thương tủy một phần và toàn bộ đều gây các bất thường trong tiêu tiểu. Do mất nhận biết cảm giác đầy bàng quang và hậu môn trực tràng nên hai cơ quan này thường bị căng giãn quá mức, gây tổn thương cơ học và rối loạn chức năng thứ phát. Mất tính đàn hồi của các cơ quan này và mất đáp ứng của cơ trơn với sự căng đầy dẫn đến bất thường trong khả năng giãn nở của chúng và gây tiêu tiểu không kiểm soát. Do đó triệu chứng của tổn thương tủy không chỉ có tiêu tiểu không kiểm soát do phản xạ vì mất kiểm soát trên khoanh mà còn do mất chức năng chứa nước tiểu do tác động tại chỗ trên bàng quang và hậu môn trực tràng. Ngoài ra, tổn thương tủy còn gây mất liên lạc phản xạ của hệ thống cơ thắt và cơ tống xuất, dẫn tới mất phối hợp các cơ này.

Tổn thương hủy hoại tủy hoàn toàn dưới T12.

Gặp trong: chấn thương tủy, loạn sản tủy sống, u tủy, angiome tĩnh mạch tủy, và viêm tủy hoại tử.

Biểu hiện:

– Bàng quang liệt, không có cảm giác đầy nước tiểu, trương lực cơ tống tiểu mất.

– Không còn khả năng chủ động đi tiểu

– Bàng quang chứa đầy nước tiểu căng lớn cho tới khi nước tiểu tự thoát ra do quá đầy.

– Thường có rối loạn cả cơ thắt hậu môn và cơ trơn đại tràng.

– Thường có mất cảm giác vùng hội âm hình yên ngựa, mất phản xạ hành hang và phản xạ hậu môn,

Tổn thương tủy ở mức cao hơn:

Gây ra bàng quang thần kinh phản xạ (tăng trương lực)

Gặp trong xơ cứng rải rác từng đám (MS), bệnh lý tủy do chấn thương, ngoài ra còn trong viêm tủy, viêm cứng cột sống, dị dạng động tĩnh mạch (AVM), rỗng ống tủy.

Nếu tổn thương tủy đột ngột, cơ trơn tống nước tiểu của bàng quang cũng chịu

choáng tủy, không hoạt động, bàng quang giảm trương lực, nước tiểu sẽ được tích tụ dần dần đến khi quá đầy sẽ tự trào ra; bệnh nhân không có khả năng chủ động đi tiểu.

Sau giai đoạn choáng tủy, cơ trơn bàng quang sẽ dần dần tăng hoạt động, tăng trương lực, và vì bệnh nhân không ức chế được cơ này và cũng không điều khiển được cơ thắt ngoài niệu đạo nên sẽ có biểu hiện tiểu gấp, tiểu són, và tiểu không kiểm soát. Thêm vào đó, khả năng chủ động đi tiểu cũng suy giảm và dung lượng bàng quang giảm

Phản xạ hành hang và phản xạ hậu môn vẫn còn.

Nếu tổn thương diễn tiến từ từ, bàng quang sẽ tăng trương lực, tăng hoạt động phản xạ mà không qua giai đoạn liệt mất trương lực; triệu chứng tiểu gấp, tiểu són, tiểu không kiểm soát xuất hiện và tăng dần theo thời gian.

Một vấn đề còn chưa được giải thích là những trường hợp tổn thương tủy cổ trong đó hoạt động phản xạ của tủy cùng không hồi phục trở lại được và bàng quang mất trương lực kéo dài.

Tổn thương neuron vận động thấp

Tiêu tiểu không kiểm soát xảy ra do tổn thương các đường hướng tâm và ly tâm đến các cơ thắt vân của hậu môn trực tràng và niệu đạo, cổ bàng quang. Nguyên nhân có thể là bẩm sinh (thoát vị tủy – màng tủy), cứng cột sống, hẹp ống sống, u vùng cùng, hoặc chấn thương, và các tổn thương của đám rối cùng và các rễ cùng trong bệnh thần kinh ngoại biên đoạn gần (đái tháo đường), thâm nhiễm ác tính, và chấn thương vùng chậu. Các triệu chứng kèm theo như đau theo rễ, yếu cơ, mất cảm giác rất nổi bật và quan trọng.

Khi mất kiểm soát tiêu tiểu do tổn thương các rễ từ S2 đến S4, cần lưu ý các phần khám thần kinh thông thường không phát hiện bất thường. Chỉ khi khám chi tiết vùng hội âm mới có thể phát hiện mất cảm giác ở khe mông, vùng hội âm, giảm trương lực và mất phản xạ cơ vòng hậu môn.

Tiêu tiểu không kiểm soát do áp lực vô căn

Tổn thương do căng giãn thành bàng quang

Xảy ra trong tắc nghẽn cơ học cổ bàng quang hoặc đôi khi do cố tình nín giữ nước tiểu quá đầy nhiều lần (ví dụ trong hysteria)

Bàng quang bị căng giãn quá mức sẽ gây mất bù trừ cơ trơn tống nước tiểu rồi dẫn đến giảm hoặc mất trương lực bàng quang vĩnh viễn, bệnh nhân sẽ giảm khả năng co bóp bàng quang để đi tiểu và lượng nước tiểu tồn lưu lớn.

Bí tiêu tiểu

Mất phối hợp cơ tống xuất- cơ thắt

Muốn đi tiểu thành công, cơ tống xuất nước tiểu phải co lại, đồng thời các cơ thắt trơn và cơ thắt vân niệu đạo phải giãn, đường niệu mở ra. Trong bệnh lý mất phối hợp giữa cơ tống xuất và cơ thắt, bệnh nhân không tiểu được và áp lực bàng quang tăng lên do cơ tống xuất co thắt đẩy nước tiểu ra mà niệu đạo vẫn đóng kín, do các cơ thắt niệu đạo không giãn.

Các nguyên nhân phổ biến nhất của sự mất phối hợp này là bệnh lý tủy sống, với tổn thương trên mức nón tủy. Cơ chế lý giải cho hiện tượng này là tổn thương làm cắt đứt liên lạc giữa trung tâm đi tiểu ở tủy cùng với thân não và các trung tâm cao hơn nữa, làm mất sự thống nhất hoạt động giữa cơ tống xuất nước tiểu và cơ thắt niệu đạo. Vấn để là người ta vẫn chưa hiểu rõ giải phẫu và cơ chế sinh lý cũng như sinh lý bệnh của mối liên lạc giữa hệ thống thân kinh điều khiến cơ tống nước tiểu và hệ thống kiểm soát cơ thắt ngoài niệu đạo vốn là cơ vân. Hội chứng này cũng gặp trong các tổn thương thần kinh trung ương khác như trong tai biến mạch máu não, sa sút trí tuệ, xơ cứng rải rác, và bệnh Parkinson, tuy nhiên trong các bệnh này triệu chứng thường là tiểu gấp do tăng phản xạ cơ tống nước tiểu.

Mất phối hợp giữa cơ tống xuất và các cơ thắt có thể dẫn đến nhiều nguy cơ như tồn lưu nước tiểu gây nhiễm trùng, và trào ngược gây ứ nước thận.

Táo bón do cơ thắt ngoài (anismus)

Có nhiều nguyên nhân gây táo bón như do chậm vận chuyển ruột (do chế độ ăn, có thai, lớn tuổi, hội chứng đại tràng kích thích, hoặc vô căn), bệnh lý tại chỗ của đại tràng và hậu môn trực tràng (hẹp hậu môn, bệnh vô hạch, hội chứng phình đại tràng), tắc nghẽn chức năng đường thoát (anismus, bệnh Parkinson, thoát vị trực tràng, sa trực tràng), và các nguyên nhân khác về thần kinh trung ương, tâm thần và do thuốc. Có thể định nghĩa táo bón là phải rặn trên 25% thời gian đi tiêu, hoặc đi tiêu ít hơn 2 lần mỗi tuần.

Một nguyên nhân phổ biến và quan trọng trong số các nguyên nhân này là tình huống tắc nghẽn chức năng đường thoát phân trong khi vận chuyển ruột bình thường. Rối loạn này gọi là anismus, hay táo bón do cơ thắt ngoài. Ở các bệnh nhân này khi đi tiêu, góc giữa trực tràng và ống hậu môn vẫn gập nhọn, do sự tham gia nghịch thường của cơ mu-trực tràng vào quá trình rặn đi tiêu, thay vì đúng ra nó phải giãn. Hiện tượng này cũng thấy trong bệnh Parkinson. Điều trị làm yếu cơ mu-trực tràng bằng phẫu thuật hoặc chích độc tố botulinum tại chỗ có thể cho kết quả khả quan.

Mất lực tống xuất

Các bệnh lý của thần kinh tạng chi phối ruột có thể làm giảm nhu động ruột, làm chậm vận chuyển ruột. Tương tự, các bất thường ở thành bàng quang có thể làm yếu cơ tống nước tiểu. Biểu hiện của các tình huống này là táo bón và bí tiểu. Các bệnh lý thần kinh thực vật ảnh hưởng đến hệ phó giao cảm cũng có thể gây ra các triệu chứng này. Chính vì vậy, trong hội chứng Guillain Barré rất thường gặp triệu chứng yếu cơ tống nước tiểu và giảm vận chuyển ruột. Triệu chứng tương tự gặp trong bệnh lý thần kinh thực vật do đái tháo đường, bệnh lý thần kinh cảm giác và thực vật di truyền, và bệnh suy chức năng thực vật tiến triển. Yếu cơ tống nước tiểu có thể xảy ra đơn độc không kèm triệu chứng lâm sàng nào khác, và nguyên nhân thường được cho là do mất phân bố thần kinh thực vật cho cơ tống nước tiểu dù các khảo sát có thể không tìm thấy tổn thương khu trú nào. Ngoài ra còn một số nguyên nhân khác như bẩm sinh (bệnh Hirschprung) hoặc nhiễm trùng (nhiễm Trypanosoma cruzi trong bệnh Chagas) có thể gây mất phân bố thần kinh thực vật cho đại tràng hoặc bàng quang, cũng dẫn tới táo bón, tắc ruột, hoặc bí tiểu.

Lịch sử điều trị Động kinh- bài cuối

Đây là phần cuối cùng trong loạt bài về lịch sử điều trị Động kinh. Những bài như thế này khá khó đọc, nếu người đọc chưa có kiến thức thực tế lâm sàng nhiều. Nhưng theo chiều ngược lại, nếu không đọc từ trước khi bạn có nhiều kinh nghiệm lâm sàng, bạn có thể mắc nhiều sai lầm mang tính lịch sử. Và càng đọc tác giả Simon Shorvon, tôi càng thích thú bởi các quan điểm đi thẳng vào một chủ đề khá khó khăn với nhiều học giả, đó là phê phán sự thương mại hóa quá mức, sự chi phối của thị trường đối với khoa học… điều mà chúng ta khó thấy được trong các buổi hội thảo hiện nay (do lợi ích vật chất). Trong giảng dạy các chủ đề này càng khó được nhắc tới (do tính cập nhật). Simon Shorvon còn viết về lịch sử quá trình xây dựng các khái niệm và phân loại Động kinh, cũng phê phán rất đúng đắn và mang tính xây dựng, sẽ giới thiệu tới đây. 

Thời kì 1989–2014

Tác động của y học phân tử bắt đầu được cảm nhận trong thời kỳ này, ban đầu đặc biệt liên quan đến các nghiên cứu về chức năng ức chế não với thụ thể GABA (‘sóng GABA’) và sau đó là chức năng kích thích não (‘sóng glutamate’). Từ năm 1989 đến năm 1994, năm loại thuốc chống động kinh chính đã được cấp phép ở Châu Âu và được đưa vào thực hành lâm sàng. Vigabatrin là một sản phẩm đầu tiên của ‘làn sóng GABA’. Nó là một loại thuốc được thiết kế riêng, được sản xuất để trở thành một “chất ức chế sự tự sát” của chất dẫn truyền GABA. Các thử nghiệm đầu tiên là vào năm 1983 và nó được đưa ra đầu tiên, ở Anh, vào năm 1989 và sau đó là ở Châu Âu nhưng không phải ở Mỹ. Vào năm 1997, các tác dụng phụ nghiêm trọng về thị giác lần đầu tiên được báo cáo và loại thuốc này, từng được kê đơn rộng rãi, hiện được sử dụng cho một số rất ít bệnh nhân.[hiện có được kê đơn ở Việt Nam, nhưng cũng rất hạn chế]. Ở Anh, Lamotrigine được phát triển như một loại thuốc kháng tiết và tình cờ được phát hiện có tác dụng chống động kinh. Nó đã được cấp phép ở Anh vào năm 1991 và sau đó ở Châu Âu, và vào năm 1994 ở Hoa Kỳ, và hiện là một loại thuốc đầu tay. Felbamate, một loại thuốc được phát triển bởi Phòng thí nghiệm Carter Wallace, được đưa ra thị trường Mỹ vào năm 1993. Nó không được cấp phép ở châu Âu và năm 1994 đã bị thu hồi vì nguy cơ suy gan. Kể từ đó, nó đã được giới thiệu lại để được sử dụng như một liệu pháp cuối cùng với các biện pháp phòng ngừa đặc biệt, và có một vị trí rất nhỏ trong việc kê đơn đương đại. Gabapentin được phát triển như một chất tương tự GABA để hoạt động tại thụ thể GABA như một chất chủ vận GABA. Trên thực tế, nó không có tác dụng tại thụ thể GABA và cơ chế hoạt động của nó là do liên kết với tiểu đơn vị α2δ của kênh canxi phụ thuộc điện thế ở các neuron (một thực tế được phát hiện vào khoảng hơn một thập kỷ sau khi được cấp phép). Nó được cấp phép vào năm 1994 ở Mỹ và Anh và đến năm 2003 là một trong 50 loại thuốc được kê đơn nhiều nhất ở Mỹ (doanh thu gần 2,7 tỷ đô la Mỹ vào năm 2003) phần lớn là do các chỉ định không động kinh. Nó vẫn được sử dụng như một loại thuốc thứ hai trong bệnh động kinh. Oxcarbazepine đã được cấp phép ở Đan Mạch vào năm 1990 và sau đó ở hầu hết các nước EU vào năm 1999 và ở Hoa Kỳ vào năm 2000. Hiện nay nó được sử dụng rộng rãi như một liệu pháp điều trị đầu tiên hoặc thứ hai.

Từ năm 1995 đến năm 2014, 10 loại thuốc chống động kinh khác đã được cấp phép – topiramate, tiagabine, levetiracetam, zonisamide (mặc dù đã được cấp phép trước đó ở Nhật Bản), pregablin, stiripentol, rufinamide, lacosamide, retigabine và perampanel. Trong số này, topiramate và levetiracetam được sử dụng rộng rãi như là thuốc đầu tay, retigabine và tiagabine phần lớn đã bị loại bỏ, và stiripentol và rufinamide chỉ được cấp phép cho các chỉ định thích hợp (tương ứng với Dravet và hội chứng Lennox– Gastaut). Ngoài ra, midazolam buccal đã được cấp phép cho điều trị cấp tính, mà ban đầu là midazolam hydrochloride, trong một chế phẩm được phê duyệt theo giấy phép đặc biệt ở Anh, và sau đó là midazolam maleate, trong một chế phẩm được Cơ quan Thuốc Châu Âu (EMA) phê duyệt theo chương trình PUMA (ủy quyền tiếp thị sử dụng cho trẻ em) vào tháng 9 năm 2011, để sử dụng cho bệnh nhân dưới 18 tuổi; trên thực tế đây là loại thuốc chống động kinh duy nhất từng được cấp phép cho trẻ em mà không dùng cho người lớn.

Ngoài ra, đã có một loạt các loại thuốc khác đang được phát triển. Các loại thuốc được thảo luận tại hội nghị Eilat về Thuốc chống động kinh mới là hướng dẫn sơ bộ về những loại thuốc gần nhất với việc cấp phép. Các loại thuốc khác trong các thử nghiệm lâm sàng trước đó được liệt kê trong các giai đoạn khác nhau từ năm 1992 đến 2014 và khác các loại thuốc bổ sung trong quá trình phát triển lâm sàng ban đầu đưa ra. Mặc dù có số lượng lớn các loại thuốc, nhưng nhiều loại thuốc không được cấp phép mặc dù các thử nghiệm lâm sàng đã được thực hiện.

Rõ ràng là những phát triển khoa học quan trọng nhất trong thời kỳ này không nằm ở việc phát hiện ra những loại thuốc mới lạ này, mà nằm ở khoa học cơ bản về y học dược phẩm. Những phát triển to lớn trong khoa học phân tử trong ba thập kỷ qua nằm ngoài phạm vi của bài này, nhưng đủ để nói rằng những tiến bộ trong kiến ​​thức về cơ chế phân tử và điều hòa chức năng não- chứng động kinh là chìa khóa cho sự phát triển thuốc trong tương lai,- những tiến bộ này đảm bảo lời hứa về các loại thuốc mới, nhắm mục tiêu cụ thể vào các quá trình phân tử chưa từng biết trước đây. Đây là một triển vọng thú vị, nhưng một triển vọng vẫn chưa được thực hiện trong thực hành lâm sàng, hoặc thực sự trong hầu hết các loại thuốc hiện đang được nghiên cứu lâm sàng. Theo nghĩa này, phương pháp điều trị động kinh đang bị tụt hậu so với phương pháp điều trị trong các lĩnh vực khác như miễn dịch học và ung thư học. Một lĩnh vực lâm sàng đã gây thất vọng đặc biệt trong lĩnh vực di truyền dược lý. Lời hứa về ‘liệu pháp điều trị bằng thuốc phù hợp với từng cá nhân’ đã bị thổi phồng và thổi phồng quá mức trong 15 năm qua, nhưng đã không thành hiện thực. Có lẽ điều này không có gì đáng ngạc nhiên vì sự phức tạp của các cơ chế não, tầm quan trọng của sự trưởng thành của não và những hạn chế cố hữu của phương pháp tiếp cận, nhưng nó vẫn gây thất vọng. Chủ đề này cho đến nay cũng đã lãng phí một lượng lớn tiền bạc và thời gian, và liệu có nhiều xoay chuyển hơn nữa trong tương lai hay không vẫn còn được xem xét. Hiện tại, kết quả thực tế duy nhất, trong phòng khám động kinh thông thường, là khả năng xác định những bệnh nhân có nguy cơ gia tăng phản ứng Stevens-Johnson (dù sao cũng là một nguy cơ rất nhỏ), trong một số quần thể nhất định mặc dù có các cơ sở di truyền khác nhau cho các quần thể (đây là một cơ chế miễn dịch học; cơ chế động kinh não vẫn chưa được chạm đến theo bất kỳ ý nghĩa thực tế nào bởi di truyền học dược lý). Phát hiện này dẫn đến phản ứng quá mức của Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA), và hậu quả chính của nó trong thực tế là hạn chế việc kê toa carbamazepine, gây bất lợi cho hầu hết bệnh nhân và tăng chi phí, mà chỉ thu được rất ít lợi ích.

Một trong những hiện tượng nổi bật của những năm sau chiến tranh thế giới thứ 2, và đặc biệt là trong 50 năm qua, là sự gia tăng về quy mô, lợi nhuận và sức mạnh của ngành dược phẩm. Do lợi nhuận của bộ phận dược phẩm, phần lớn việc phát hiện thuốc chuyển từ môi trường đại học sang các phòng thí nghiệm nội bộ của các công ty, và việc phát triển dược phẩm đã trở thành một doanh nghiệp thương mại được giữ bí mật chặt chẽ để bảo vệ lợi ích thương mại. Đặc biệt kể từ giữa những năm 1980, giá trị của thị trường thuốc chống động kinh đã tăng lên đáng kể và tổng doanh số bán thuốc chống động kinh ở Hoa Kỳ, chẳng hạn, đã tăng từ 400 triệu đô la năm 1990 lên 3 tỷ đô la năm 2000. Điều này một phần là do tăng số người được điều trị (vì những lý do không hoàn toàn rõ ràng), chi phí thuốc men và việc sử dụng thuốc trong các chỉ định không động kinh cũng tăng lên đáng kể. Mặc dù vậy, không có loại thuốc chống động kinh nào đắt tiền hơn, mới hơn, được chứng minh là có hiệu quả rõ rệt hơn trong các thử nghiệm lâm sàng có đối chứng so với các loại thuốc cũ hơn, và nhìn chung cũng không có sự thay đổi mô hình nào trong hồ sơ tác dụng phụ, mặc dù hầu hết (nhưng không phải tất cả) các loại thuốc mới hơn có một số lợi thế về dược động học.

Môi trường pháp lý đã phát triển mạnh mẽ với sức mạnh của ngành công nghiệp dược phẩm. Ví dụ, ở Hoa Kỳ, đạo luật lớn đầu tiên là Đạo luật Thực phẩm và Thuốc Nguyên chất Liên bang, được ban hành vào năm 1906. Đạo luật này yêu cầu ghi nhãn chính xác và để đáp ứng mối lo ngại của công chúng về việc ghi nhãn sai và pha trộn quá nhiều thực phẩm, nhưng điều này có rất ít tác dụng thực tế trong lĩnh vực thuốc chống động kinh. Sự phát triển quan trọng tiếp theo là Đạo luật Thực phẩm, Dược phẩm và Mỹ phẩm năm 1938, được đưa ra để đáp lại sự tức giận của công chúng về cái chết của hơn 100 người do ‘elixir of sulfanilamide’. Đây là bằng chứng yêu cầu về sự an toàn phải được đệ trình cho FDA trước khi đưa ra thị trường. Nhiều loại thuốc mới được cấp phép sau khi phát hiện ra phenytoin, sau đó được chứng minh là khá độc, và có vẻ như, ít nhất là trong lĩnh vực thuốc chống động kinh, đạo luật này giống như ‘chó có ít răng’. Sau đó, vào năm 1962, Đạo luật sửa đổi về thuốc, Bản sửa đổi Kefauver – Harris, được ký thành luật, để đối phó với thảm kịch thalidomide ở châu Âu. Điều này đã thay đổi hoàn toàn môi trường pháp lý. Lần đầu tiên, bằng chứng về ‘Cần có hiệu quả cũng như tính an toàn’ được yêu cầu, và một chương trình hồi cứu đánh giá các loại thuốc được giới thiệu từ năm 1938 đến năm 1962 đã được thực hiện. Đạo luật cũng yêu cầu tiết lộ thông tin chính xác về tác dụng phụ và hiệu quả trong quảng cáo thuốc, đồng thời đặt ra cho FDA nghĩa vụ thiết lập các hướng dẫn để kiểm tra tất cả các loại thuốc, bao gồm cả thuốc chống động kinh. Một hệ thống cấp phép mới đã được đưa ra theo đó FDA yêu cầu mỗi công ty phải đạt được tiêu chuẩn trước khi được cấp phép sử dụng thuốc ở người. Đó là, hoàn thành thông tin về hóa chất và quy trình sản xuất, sàng lọc tiền lâm sàng và nghiên cứu trên động vật, bao gồm độc tính, khả năng gây quái thai và an toàn, phải được trình bày để được cấp phép. Thử nghiệm lâm sàng được chia thành ba giai đoạn và chỉ sau khi hoàn thành loạt nghiên cứu này, một loại thuốc mới có thể được cấp phép. Những quy định mới này chắc chắn đã bảo vệ công chúng khỏi các hợp chất nguy hiểm, nhưng cũng có những hậu quả tiêu cực ngay lập tức. Chi phí phát triển các loại thuốc chống động kinh đã tăng lên rất nhiều do sự gia tăng lớn về số lượng động vật và các thủ tục cần thiết trong xét nghiệm tiền lâm sàng, cũng như mức độ phức tạp và phạm vi của xét nghiệm này. Các thử nghiệm lâm sàng có đối chứng lớn cũng được yêu cầu, và hiệu quả tức thì là số lượng thuốc được phát triển giảm nhanh chóng.

Carbamazepine, valproate và một số loại thuốc benzodiazepine đã được cấp phép ở Châu Âu trong nhiều năm trước khi được cấp phép tại Hoa Kỳ và bệnh nhân ở Hoa Kỳ do đó bị thiệt thòi. Cộng đồng động kinh Hoa Kỳ trở nên rất quan tâm và vào năm 1972, NINDS Hoa Kỳ đã thành lập Ủy ban Chuyên gia nghiên cứu về Thuốc chống co giật cùng với ILAE và FDA, đã xây dựng một quy trình vào năm 1973 để thiết kế, lựa chọn bệnh nhân và các quy trình cho các thử nghiệm thuốc mới, trở thành khuôn khổ cho sự phát triển thuốc cho đến ngày nay.

Vào năm 1980, FDA đã thắt chặt hơn nữa phương pháp thử nghiệm lâm sàng và đưa các thử nghiệm ngẫu nhiên có đối chứng trở thành điều kiện tiên quyết cần thiết của việc cấp phép. Họ cũng đưa ra quyết định quan trọng rằng các loại thuốc mới phải thể hiện tính ưu việt so với hợp chất so sánh hơn là tương đương, và vì vậy hầu như tất cả các nghiên cứu đều so sánh loại thuốc mới với giả dược chứ không phải là một liệu pháp thông thường. Quyết định này dẫn đến việc thiếu các thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên có tính đối đầu một cách đáng tiếc và mô hình nghiên cứu hiện có với số lượng nhỏ bệnh nhân trong một thiết kế chéo được thay thế bắt buộc vào đầu những năm 1990 do yêu cầu thực hiện nhóm song song, nghiên cứu trên số lượng ngày càng lớn bệnh nhân. Trong những thập kỷ qua, các luật đã được giải thích với mức độ nghiêm ngặt ngày càng tăng, và mức độ cao hơn của bằng chứng về hiệu quả và ít độc tính được yêu cầu so với 20 năm trước đây. Trong thập kỷ qua, một lớp quan liêu khác đã được thêm vào ở nhiều quốc gia, là hệ thống đánh giá hiệu quả chi phí của liệu pháp. Liệu, trong bối cảnh của tất cả những rào cản quy định mới này, sự cân bằng giữa bảo vệ công chúng và kích thích các liệu pháp mới có phù hợp hay không là vấn đề cần quan tâm nhưng có ý kiến ​​mạnh mẽ rằng sự phát triển của AED hiện đang bị cản trở bởi quy định quá mức.

Mặc dù khảo sát này tập trung vào điều trị bằng thuốc, nhưng cần lưu ý ngắn gọn về các phương pháp tiếp cận không dùng thuốc trong giai đoạn này. Trong 30 năm qua, liệu pháp phẫu thuật đã được quan tâm rất nhiều. Điều này đã được thúc đẩy bởi sự ra đời của CT và đặc biệt là MRI, cung cấp một phương pháp xác định các khiếm khuyết cấu trúc như mục tiêu của phẫu thuật tương ứng. Sự gia tăng độ nhạy của MRI đã chứng tỏ các tổn thương như xơ cứng hồi hải mã, dị dạng mạch máu nhỏ và các rối loạn phát triển mà trước đây không thể hình dung trực tiếp. Các phương thức cận lâm sàng khác cũng đã giúp cải thiện việc lựa chọn phẫu thuật. Kỹ thuật phẫu thuật cũng đã được cải thiện trong 50 năm qua, với việc gây mê và chăm sóc hậu phẫu tốt hơn, tỷ lệ mắc bệnh do phẫu thuật đã giảm xuống. Công nghệ phẫu thuật đã được cải thiện, và liên quan đến phẫu thuật động kinh, hai phát triển quan trọng nhất là sự ra đời của kính hiển vi phẫu thuật, vào năm 1967, cho phép phát triển các kỹ thuật vi phẫu và gần đây là các phương pháp lập thể vi tính được cải tiến.

Tuy nhiên, cơ sở lý thuyết của phẫu thuật không hề thay đổi. Cơ sở cơ bản của hầu hết các cuộc phẫu thuật là ‘cắt bỏ mô động kinh trong chứng động kinh khu trú’ với hy vọng rằng điều này sẽ ngăn chặn các cơn động kinh mà không để lại khiếm khuyết não lớn. Đây chính xác là cơ sở của phẫu thuật đã được Horsley và những người khác giải thích vào những năm 1880. Thật vậy, các loại phẫu thuật cũng không thay đổi cơ bản trong 50 năm qua (ví dụ như cắt bỏ thùy thái dương, cắt bỏ tổn thương, cắt bỏ phù hợp, cắt bán cầu, phẫu thuật sọ não tỉnh táo…). Các phương pháp tiếp cận không cắt bỏ (ví dụ như kích thích vỏ não, cắt các đường thần kinh…) cũng có một lịch sử lâu dài kéo dài từ đầu thế kỷ XX, và mặc dù công nghệ đã thay đổi. Tuy nhiên, trong khoảng 10 năm trở lại đây, trọng tâm chính của nghiên cứu phẫu thuật là về kích thích, cả xâm lấn và bên ngoài. Liệu pháp đầu tiên nhận được sự chấp nhận rộng rãi là kích thích dây thần kinh phế vị, trên cơ sở các thử nghiệm đã bị chỉ trích theo nhiều cách khác nhau, và chắc chắn kinh nghiệm lâm sàng thường quy về kích thích dây thần kinh phế vị kém khả quan hơn so với các thử nghiệm đã chỉ ra. Gần đây hơn, hàng loạt công nghệ kích thích xâm lấn đã được nghiên cứu; được chia thành ‘kích thích theo lịch trình’ (ví dụ: kích thích hai bên của đồi thị trước và kích thích hồi hải mã) và ‘kích thích đáp ứng’ (ví dụ: trong động kinh khu trú vỏ não hoặc hồi hải mã). Các phương pháp kích thích không xâm lấn bên ngoài thông qua dây thần kinh sinh ba, và kích thích từ xuyên sọ, cũng đã được khám phá. Trong những lĩnh vực này, có thể thực hiện các thử nghiệm đối chứng ngẫu nhiên (duy nhất trong phẫu thuật động kinh) và một số hệ thống đã được cấp phép bởi EMA và FDA. Tuy nhiên, cần phải thừa nhận rằng, kết quả của kích thích nói chung trong việc kiểm soát chứng động kinh còn rất khiêm tốn.

Phần lớn sự nhấn mạnh hiện tại của phẫu thuật được thúc đẩy bởi các yếu tố kinh tế trong các hệ thống y tế định hướng thị trường, nơi hoạt động phẫu thuật mang lại phần thưởng lớn bằng tiền, thay vì các yếu tố lâm sàng. Thực tế hiện nay là mặc dù phẫu thuật động kinh là một chủ đề thời thượng và được quảng bá nhiều, nhưng nó vẫn là một phương pháp điều trị ngoài lề, không phù hợp với đại đa số bệnh nhân và thường có kết quả không tối ưu.

Các phương pháp tiếp cận điều trị không dùng thuốc, không phẫu thuật (ví dụ như lối sống, dinh dưỡng, các yếu tố tâm lý xã hội, v.v.) hầu như bị bỏ qua trong y học chính thống trong những năm sau chiến tranh, vì các công nghệ của y học hiện đại và phẫu thuật và của khoa học dược phẩm đã thống trị tư tưởng. Đây có lẽ là sự thay đổi lớn nhất trong vòng 100 năm qua.

Với việc điều trị bằng thuốc được phổ biến trong giai đoạn 1996–2014, có thể thấy, một sự phát triển rất rõ ràng trong 50 năm qua là sự thu hẹp các lựa chọn điều trị trong chuyên môn, chỉ thực hành những loại thuốc đã được đánh giá trong các thử nghiệm mù đôi và ngẫu nhiên và đã cho thấy ưu thế hơn so với giả dược (tức là có tác dụng sinh học). Bệnh nhân thường không hài lòng với điều này, và các loại thuốc thay thế và bổ sung được tìm kiếm rộng rãi, cũng như các phương pháp tiếp cận vật lý không dùng thuốc khác. Hơn nữa, y học chính thống đã loại bỏ sự tập trung của mình khỏi việc xem xét chế độ ăn uống, vệ sinh và chế độ sinh hoạt, vốn là một phần của liệu pháp thông thường, và là một phần quan trọng của tư vấn y tế ít nhất là cho đến thời kỳ Chiến tranh thế giới thứ hai. Thật thú vị khi suy đoán về mức độ mà phương pháp tiếp cận dựa trên bằng chứng ngày nay đã cải thiện kết quả chung (có rất ít nghiên cứu khái quát về điều này) hoặc làm giảm bớt đau khổ. Không nghi ngờ gì nữa, liệu pháp đã được cải thiện, nhưng sự tập trung vào thuốc và phẫu thuật, ở mức độ đáng kể được thúc đẩy về mặt thương mại, đã có xu hướng giao thức hóa thuốc và khử nhân tính hóa liệu pháp. Những gì đã đạt được, mặt khác, có thể đã bị mất đi, và tôi nghi ngờ bức tranh phức tạp hơn người ta thường tin.

Lịch sử điều trị Động kinh- bài 3

Những thực tế lịch sử này có thể giúp bạn đọc hình dung về vấn đề dược phẩm- nghiên cứu y học- cũng như sự thành công của y học có cái giá phải trả ra sao… Có những nhận định của các bậc tiền bối cách đây gần cả thế kỉ, đến bây giờ vẫn đúng, nhưng người ta vẫn cứ ngộ nhận về thành tựu đạt được. Vì sao chúng ta phải cân nhắc yếu tố đạo đức trong thực hành nghề, cho dù nhiều khi chúng ta cảm thấy bị trói buộc, áp đặt.

Ngoài ra, một thủ thuật hiện đang rất hot trong ngành YHCT là cấy chỉ, có thấy 1 dạng sơ khai của nó, đã từng được sử dụng để điều trị động kinh, vì vậy khi dịch, tôi đã dùng chữ “cấy chỉ”, dù nguyên nghĩa không hẳn như thế.

Simon Shorvon viết gì về thời kì 1912–1988?

Năm 1912, lần đầu tiên quyền bá chủ của bromua bị thách thức bởi một loại thuốc hoàn toàn mới. Thuốc mới này, một hợp chất hóa học mới được sản xuất trong các phòng thí nghiệm của Bayer, công ty dược phẩm của Đức, là phenobarbitone (Luminal). Nó được tổng hợp vào năm 1904, và được đưa vào một nhóm thuốc an dịu sau đó được sử dụng làm thuốc an dịu và thôi miên. Đặc tính chống động kinh của nó được phát hiện vào năm 1912 bởi Alfred Hauptmann, một bác sĩ tâm thần trẻ tuổi ở Freiburg, người đã viết một bản tường trình dài và chi tiết về các tác động của nó. Tầm quan trọng của khám phá này ban đầu không được công nhận rộng rãi, một phần vì nó được xuất bản trên một tạp chí tiếng Đức ít người biết đến và cũng là những ưu tiên y tế lớn hơn trong cuộc chiến 1914–1918. Tuy nhiên, đến năm 1920, việc sử dụng nó đã được báo cáo ở Anh và một năm sau đó ở Mỹ, và rất nhanh chóng, sau đó, việc kê đơn này trở nên phổ biến.

Cho đến khoảng năm 1940, bromide và phenobarbital vẫn là những loại thuốc hàng đầu cho bệnh động kinh, với một số nhà chức trách ưa chuộng chúng. Người ta tò mò muốn biết ý kiến ​​đã được phân chia như thế nào về giá trị tương đối của chúng, nhưng điều rõ ràng là khi liệu pháp bromua được sử dụng một cách khéo léo, nó phù hợp với kết quả của phenobarbitone trong mắt của nhiều nhà thần kinh học hàng đầu. Ví dụ, Kinnier Wilson, vẫn có thể viết vào cuối những năm 1930 trong sách giáo khoa thần kinh tiêu chuẩn của mình rằng: ‘mặc dù phenobarbital lúc đầu được cho là có khả năng thay thế bromua như một phương thuốc được lựa chọn’, nhưng ‘nó không phải là bước tuần tự trong khả năng ứng dụng chung’ , và bromide ‘vẫn là loại thuốc được lựa chọn hàng đầu – chất neo mà mọi người dựa vào’. Wilson đã liệt kê các loại thuốc khác mà ông thấy hữu ích, nhưng đã viết rằng, không hữu ích nếu bình luận thêm về danh sách các loại thuốc được ca tụng vào lúc này hay lúc khác: ‘tất cả đều phải qua thử nghiệm của trải nghiệm, và… những loại thuốc đã thành công có thể chỉ đếm trên các ngón tay của một bàn tay ‘.

Vào những năm 1950, sự hấp thụ, phân bố, chuyển hóa và bài tiết của phenobarbital lần đầu tiên được xác định rõ ràng khi nồng độ phenobarbital trong huyết thanh có thể đo được trong thực hành lâm sàng (năm 1952). Việc này đã cải thiện hiệu quả điều trị của nó và phenobarbital ngày nay vẫn là một trong những loại thuốc điều trị động kinh được kê toa nhiều nhất trên toàn cầu, với sự tiêu thụ cao, đặc biệt là ở các nước đang phát triển vì giá thành rẻ đáng kể của nó. Hơn nữa, hiệu quả của nó chưa bao giờ được chứng minh là kém hơn đáng kể so với bất kỳ loại thuốc nào khác, và sự phổ biến của nó trong y học phương Tây đương đại phần lớn là do tác dụng phụ của nó mà không có sự hậu thuẫn tiếp thị của bất kỳ công ty lớn nào trong ngành dược phẩm, những người thấy ít lợi nhuận trong việc quảng cáo một loại thuốc rẻ tiền như vậy.

Phenobarbital tiêm tĩnh mạch được giới thiệu vào năm 1926 để điều trị trạng thái động kinh, và đôi khi được trộn với cloroform, thuốc xổ và bromua. Các loại thuốc khác được khuyến nghị cho trạng thái động kinh cùng lúc đó bao gồm scopolamine và atropine, amyline hydrate (‘Alt’) và paraldehyde (được sử dụng lần đầu tiên vào năm 1914). Các liệu pháp không dùng thuốc bao gồm rửa ruột. Kinnier Wilson nhận ra rằng tình trạng này thường do cai thuốc quá nhanh và trong những trường hợp này nên sử dụng liều lượng lớn bromide và chloral vào trực tràng mỗi 4–6 giờ. Các phương pháp điều trị khác bao gồm tiêm Luminal natri dưới da, bromide (bao gồm bromide nội tủy), dẫn lưu nhiều lần dịch tủy sống bằng cách chọc dò thắt lưng, hyoscine hydrobromide, paraldehyde và, ông cũng nhận xét, ‘rạch hở tĩnh mạch và tiêm nước muối cũng có thể được sử dụng cho người khỏe mạnh’ .

Trong những năm 1910–1939, nhiều phương pháp chữa bệnh bằng thảo dược, động vật và hóa chất đơn giản truyền thống khác vẫn tiếp tục được sử dụng rộng rãi, mặc dù có một ý kiến ​​từ các tài liệu rằng những phương pháp này được áp dụng với rất ít hy vọng thành công. Một số lượng nhỏ các phương pháp điều trị mới lạ khác cũng được đưa ra trong thời kỳ này. Có lẽ điều quan trọng nhất trong số này là chế độ ăn ketogenic, và mặc dù không nói đúng nghĩa là ‘chế độ ăn kiêng’, nhưng được đưa vào đây vì được cho là phát huy tác dụng thông qua những thay đổi sinh hóa tương tự như những thay đổi do thuốc gây ra. Chế độ ăn kiêng lần đầu tiên được đưa ra vào năm 1921, dựa trên những quan sát cho thấy việc bỏ đói, và cả ‘chế độ ăn kiêng nước’, đã cải thiện chứng động kinh (lần đầu tiên được thực hiện vào năm 1911). Sau một vài năm thử nghiệm với các tỷ lệ chất béo: carbohydrate và protein khác nhau, chế độ ăn tiêu chuẩn đã được sử dụng rộng rãi vào những năm 1930 với nhiều báo cáo về giá trị của nó. Một giới thiệu khác là borotartrate, lần đầu tiên được Marie đề cập vào năm 1926. Điều này đáng chú ý vì nó chống động kinh mà không phải là thuốc an thần (một đặc tính không được chia sẻ với bromide hoặc phenobarbital) nhưng hiệu quả của nó dường như rất khiêm tốn.

Xem xét nhanh các phương pháp điều trị bằng thuốc phổ biến nhất trong thời kỳ này được nhà thần kinh học người Hà Lan Muskens đưa ra trong cuốn sách của ông năm 1926. Ông phân chia liệu pháp theo giai đoạn bệnh. Ông nhấn mạnh việc điều trị dự phòng trong giai đoạn tiền căn, nơi mà liệu pháp nên nhằm ngăn ngừa sự phát triển của bệnh động kinh bằng các phương pháp vệ sinh xã hội công phu và chế độ dinh dưỡng tốt nhưng không cần dùng thuốc. Trong giai đoạn đầu của bệnh động kinh, ông đã sử dụng ba liệu pháp chính là bromide, phenobarbital và boraxas, ngoài ra còn có oxit kẽm, nitroglyerine và cannabis indica; trong những trường hợp không tiến triển, ông đã kê đơn Iodua thủy ngân, theo một phương pháp “rất giống với phương pháp điều trị thủy ngân được sử dụng cho giang mai”.

Mặc dù khảo sát này chủ yếu liên quan đến liệu pháp điều trị bằng thuốc, nhưng cần bổ sung một số từ ngắn gọn về các phương pháp tiếp cận không dùng thuốc để điều trị bệnh động kinh, vì từ giữa thế kỷ 19 cho đến những năm 1950, người ta cũng nhấn mạnh nhiều đến những gì ban đầu đã được đưa vào rộng rãi dưới sự chỉ định về vệ sinh và lời khuyên về các khía cạnh rộng lớn khác. Những điều này bao gồm tầm quan trọng của thói quen thường xuyên, ngủ đủ giấc, tập thể dục đầy đủ, xoa bóp, chú ý đến thói quen đi tiêu, tránh thủ dâm, tránh căng thẳng và sử dụng thuốc bổ. Liệu pháp hydro và giải độc thường xuyên được đề xuất. Turner đã viết vào năm 1910: “Do đó, trong mọi trường hợp mắc bệnh động kinh, chúng tôi có thể điều trị cho từng cá nhân chứ không phải duy nhất căn bệnh này”. Turner đã công nhận sáu tiêu đề theo đó điều trị động kinh nên được xem xét: dự phòng, quản lý và điều trị động kinh ở trẻ, vệ sinh, giáo dục trẻ động kinh, chăm sóc bệnh nhân động kinh đã được xác nhận (cở sở động kinh) và điều trị phẫu thuật. Chế độ ăn uống được chú trọng nhiều, chú trọng đến sự cân bằng, thường khuyến khích chế độ ăn ít protein và hoặc ít muối, và việc lựa chọn thực phẩm và đồ uống dường như ngẫu nhiên của các tác giả khác nhau. Các bài viết dài dòng về các biện pháp khác nhau này đã được tìm thấy trong các văn bản của thời kỳ đó. Ví dụ như các liệu pháp vật lý bao gồm gây kích ứng với đốt da, gây phồng rộp hoặc cấy chỉ [đặt sợi chỉ bông hoặc vật liệu thấm hút dưới da, đầu nhô ra ngoài]. Điều này cũng phổ biến trong thế kỷ 19 mặc dù dường như đã không còn là mốt vào đầu thế kỷ 20, cũng như kích thích điện galvanism, từ tính và các liệu pháp điện khác. Một xu hướng thú vị khác vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 là sự thịnh hành cho việc thể chế hóa và thành lập các cơ sở động kinh để tăng cường sức khỏe tốt. Thật vậy, việc thúc đẩy nghiên cứu về chăm sóc tại cơ sở là một trong những lý do chính được đề xuất cho việc thành lập Liên đoàn quốc tế chống động kinh (ILAE) vào năm 1909. Liệu pháp phẫu thuật cũng được thực hiện nhờ sự ra đời của thuốc sát trùng Listerian, gây mê toàn thân bằng ête (1846) và đặc biệt là chloroform (1847) và gây tê cục bộ (ban đầu bằng cocaine, 1877). Horsley đã giới thiệu phương pháp phẫu thuật cắt bỏ vỏ não trên cơ sở lập bản đồ não tỉ mỉ ở các loài linh trưởng, và công việc tiên phong của ông, với Jackson và Ferrier, về xác định vị trí não. Các phẫu thuật khác cũng được thực hiện trong khoảng thời gian này, gần như chắc chắn là hoàn toàn không hiệu quả, bao gồm thắt động mạch cảnh (1881), cắt giao cảm cổ (1883), cắt bao quy đầu, phẫu thuật cắt âm vật (1866), cắt vòi trứng, cắt tinh hoàn, cắt bỏ tuyến thượng thận và gây tắc động mạch đốt sống hai bên. Cắt vòi trứng và thiến được sử dụng như những phương pháp ưu sinh, đặc biệt là vào đầu thế kỷ XX. Sự quan tâm đến cắt bỏ vỏ não giảm dần trong bốn thập kỷ đầu của thế kỷ XX, điều này tỏ ra kém thành công hơn so với hy vọng ban đầu, và số lượng các ca phẫu thuật được thực hiện trên toàn thế giới đã giảm đáng kể. Đồng thời, đã phát triển một xu hướng phổ biến rộng rãi cho phẫu thuật cắt bỏ đại tràng và các cắt bỏ đoạn ruột khác, trên cơ sở cho rằng những biện pháp này sẽ làm giảm tình trạng nhiễm độc tự thân.

Vào đầu những năm 1930, đặc biệt là ở Hoa Kỳ, có một mối quan tâm mới trong việc thử các hợp chất mới cho bệnh động kinh. Chúng bao gồm việc sử dụng các loại thuốc nhuộm quan trọng – đặc biệt là màu đỏ tươi và xanh methyl – và đã có một thời gian thịnh hành cho các phương pháp điều trị này. Liệu pháp giãn mạch cũng được thử nghiệm với nhiều chất khác nhau, bao gồm acetylcholine, amyl nitrit, carbaminoylcholine (một trong những loại thuốc đối phó giao cảm mạnh nhất được biết đến), và ‘chất thứ tư của động mạch’, phản ánh mối quan tâm lúc đó đối với sự thay đổi trong dòng chảy máu não như một cơ chế gây bệnh của bệnh động kinh. Các liệu pháp y học mới khác bao gồm chiết xuất tuyến giáp, chiết xuất tuyến tụy, vitamin B, strychnine, axit boric, pyridine, amoni clorua, ethyl phenyl sulphone và axit glutamic. Benzedrine và caffeine được sử dụng rộng rãi để chống lại tác dụng an thần của các loại thuốc barbiturat, bromide và hydantoin. Các phương pháp điều trị vật lý khác đã được khám phá bao gồm làm giảm không gian dịch não tủy bằng không khí, chiếu tia X, co giật do metrazol hoặc do điện gây ra. Paraldehyde cũng vậy, được đưa vào thực hành lâm sàng vào năm 1882, lần đầu tiên được công nhận là có tác dụng chống co giật hữu ích vào năm 1940.

Tuy nhiên, tin tức quan trọng trong thời kỳ này là sự phát hiện ra phenytoin, bởi Merritt và Putnam, những người được công ty dược phẩm Hoa Kỳ, Parke Davis, cung cấp hóa chất này, và là người đầu tiên sử dụng mô hình động vật để sàng lọc hóa chất chống động kinh một cách có hệ thống. Việc sử dụng các mô hình thử nghiệm không phải là mới và các mô hình gây ra bởi camphor và metrazol đã được sử dụng trong nhiều năm, nhưng việc sử dụng sàng lọc có hệ thống, sử dụng một mô hình co giật điện, là một bước mới. Sự phát triển lâm sàng của phenytoin nhanh chóng một cách ấn tượng. Lần đầu tiên nó được thử nghiệm trên mèo vào năm 1936, tám bệnh nhân đã được điều trị vào tháng 8 năm 1937, thử nghiệm lâm sàng đầu tiên được báo cáo vào tháng 6 năm 1938 và đến tháng 9 năm 1938, kết quả trên 200 bệnh nhân đã được công bố. Năm1939, thuốc được thêm vào ‘Danh sách các biện pháp khắc phục mới và không chính thức của Hiệp hội Y khoa Hoa Kỳ’, trên cơ sở 13 thuốc khác nhau ở 595 bệnh nhân, là ‘bệnh nhân động kinh không được hưởng lợi bởi phenobarbital hoặc bromide và ở những người mà những loại thuốc đó gây ra phản ứng phụ’. Đến năm 1940, nó được sử dụng rộng rãi như một loại thuốc được lựa chọn đầu tiên và duy trì như vậy trong điều trị động kinh trên toàn thế giới ít nhất là cho đến cuối những năm 1980, khi nó dần dần bị thay thế ở đỉnh cao của nó, tại hầu hết các quốc gia, bởi carbamazepine và valproate.

Sự hứa hẹn của phenytoin đã sớm được công nhận, thể hiện qua một bài báo vào năm 1940, trong đó lịch sử điều trị bằng thuốc trong bệnh động kinh được cho là chia thành ba kỷ nguyên: kỷ nguyên đầu tiên của bromua, kỷ nguyên thứ hai của phenobarbital và ‘kỷ nguyên thứ ba rất gần đây, được đánh dấu bởi sự ra đời vào năm 1938 của Dilantin Sodium’. Trong vòng vài năm, nó đã thay thế bromide khỏi tuyến đầu của liệu pháp, và mặc dù phenobarbital tiếp tục được sử dụng rộng rãi, bromide đã trở thành một liệu pháp bên lề, mặc dù có rất nhiều bài báo mới về các khía cạnh của bromide; được xuất bản vào những năm 1980.

Trong hai thập kỷ sau khi phát hiện ra phenytoin, các dẫn xuất hóa học mới bắt đầu được khám phá về tác dụng chống động kinh của chúng trên quy mô lớn bởi ngành công nghiệp dược phẩm đang phát triển. Putnam và Merritt đã sàng lọc thêm 700 hợp chất, do Parke Davis và các công ty khác cung cấp cho họ, và liệt kê kết quả trên 618 hóa chất này trong một bài báo vào năm 1945. Bảy mươi sáu hợp chất được xếp hạng 4+. Chúng có thể được nhóm thành bảy loại dựa trên cấu trúc của chúng: barbiturat, benzoxazol, hydantoin, xeton và phenyl xeton, oxazolidine diones, hợp chất phenyl với lưu huỳnh và phenyl glycol. Trong số các loại thuốc này, phenytoin và 4 loại khác đã được chọn để thử nghiệm lâm sàng. Không có thuốc nào trong số 4 loại khác (5-phenyl-5-isopropoxymethylhydantoin, ethyl-phenylsulphone, 5-methyl-5-phenylhydantoin, 5,5-diphenylenehydantoin) cho thấy lợi ích lâm sàng lớn hơn phenytoin và do đó không được theo đuổi sau các thử nghiệm ban đầu. Tuy nhiên, có thêm 13 loại thuốc chống động kinh mới được đưa vào thực hành trong năm 1940-1958, bởi sáu công ty dược phẩm, năm trong số đó là của Mỹ, và thứ sáu, ICI, từ Anh. Thuốc được sản xuất chủ yếu bằng cách điều chỉnh cấu trúc của barbiturat và hydantoin bằng cách sử dụng các nguyên tắc hóa dược mới được tinh chế liên quan đến các phương pháp sản xuất công nghiệp quy mô lớn. Thử nghiệm lâm sàng là chiếu lệ và các loại thuốc đã được giới thiệu với thử nghiệm an toàn tối thiểu và kết quả là nhiều thuốc sau đó đã bị thu hồi vì tác dụng phụ nghiêm trọng.

Một danh sách quốc tế về thuốc chống động kinh đã được ILAE công bố vào năm 1955 (tổng cộng 23 loại thuốc được cấp phép) và điều này chứng tỏ mức độ thao túng cấu trúc, chỉ bao gồm bốn barbiturat, bốn diones oxazolidine, sáu hydantoin và bảy loại khác. Ngoài ra, có tám loại là kết hợp, chủ yếu là sự kết hợp của hydantoin và barbiturat. Giai đoạn này, sau khi phát hiện ra phenytoin, về cơ bản là ‘khô cằn’ và ít cải thiện những cơ bản đã đạt được.

Một đặc điểm nổi bật của thời kỳ sau chiến tranh, ban đầu ở Hoa Kỳ và sau đó là ở Châu Âu, là sự gia tăng to lớn về sức mạnh của ngành công nghiệp dược phẩm và sự thương mại hóa mạnh mẽ của thị trường dược phẩm. Đây là một thời kỳ rất lạc quan; các loại thuốc được phát triển trong những năm 1950 và 1960 bao gồm thuốc tránh thai đầu tiên, corticosteroid, thuốc hạ huyết áp, chất ức chế monoamine oxidase, kháng sinh mới, thuốc chống loạn thần (chlorpromazine, haloperidol) và benzodiazepine (Valium trở thành loại thuốc được kê đơn nhiều nhất trong lịch sử).

Vào những năm 1950, trong lĩnh vực thuốc chống động kinh không có bước tiến nào thực sự lớn và liệu pháp điều trị bằng thuốc động kinh trong thời kỳ này tốt nhất có thể được chứng minh từ cuốn sách cuối cùng của William Lennox về Epilepsy and Related Disorders xuất bản năm 1960. Lennox đã liệt kê 16 loại thuốc (“kho vũ khí trị liệu” của ông) được cấp phép cho bệnh động kinh ở Hoa Kỳ. Những vị trí đầu tiên được đưa cho bromua, mà ông lưu ý là “ngày nay ít được sử dụng” và phenobarbital. Lennox đề cập rằng 2500 hợp chất barbiturat đã được tổng hợp và trong số 50 hợp chất này đã được bán trên thị trường, trong đó phenobarbital được sử dụng thường xuyên nhất cho bệnh động kinh. Loại thuốc thứ ba gây ấn tượng với Lennox là methylphenobarbital (mephobarbital) mà ông tuyên bố là ‘barbiturat duy nhất ngoài phenobarbital có tác dụng chống động kinh’ và loại thứ tư là phenytoin. Ông đánh giá loại thuốc thứ năm, mephenytoin, tốt hơn phenytoin trong một số trường hợp, và thực sự ông ủng hộ việc sử dụng kết hợp chúng. Loại thuốc tiếp theo là ethotoin mà Lennox lưu ý là một trong 1500 hợp chất được Phòng thí nghiệm Abbott sàng lọc trong 8 năm trước.

Thập kỷ tiếp theo, 1958–1968, là thập kỷ hiệu quả nhất trong lịch sử trị liệu động kinh, và trong 10 năm này, các loại thuốc mới thực sự hiệu quả và mới lạ đã được phát triển. Đầu tiên là ethosuximide (α-ethyl-α-methylsuccinimide; PM 671), một loại thuốc có cấu trúc rất giống với phensuximide và methsuximide đã được Parke Davis giới thiệu trong những năm trước; theo nghĩa này, đây là một loại thuốc của các dòng cũ. Nó đã được cấp phép vào năm 1958 cho động kinh cơn nhỏ, và vẫn là một loại thuốc được lựa chọn hàng đầu cho đến ngày nay. Nó hoạt động bằng cách chặn kênh canxi loại T điện áp thấp, một cơ chế chỉ được xác định vào năm 1984, khoảng 16 năm sau khi được cấp phép.

Sự phát triển tiếp theo là các loại thuốc có nguồn gốc gần như hoàn toàn từ Châu Âu chứ không phải Hoa Kỳ, và không phải là các dẫn xuất hóa học của thuốc chống động kinh đã biết. Đầu tiên là carbamazepine, ban đầu được gọi là G32883, một hợp chất được phát triển trong công ty dược phẩm Geigy của Thụy Sĩ vào năm 1953. Nó có cấu trúc ba vòng, và lần đầu tiên được nghiên cứu trong chứng trầm cảm và rối loạn tâm thần, sau đó được cấp phép cho chứng đau dây thần kinh sinh ba vào năm 1962. Tác dụng chống động kinh của nó đã được nghiên cứu lâm sàng vào năm 1959 và được báo cáo lần đầu tiên vào năm 1963. Thuốc được cấp phép làm thuốc chống co giật ở Anh vào năm 1965, sau đó ở châu Âu và năm 1974 ở Mỹ. Cơ chế hoạt động chính của nó, phong tỏa kênh natri, không được công nhận cho đến năm 1983 nhưng sau đó carbamazepine đã trở thành loại thuốc chống động kinh được kê đơn nhiều nhất ở châu Âu, đưa barbiturat vào vùng lề trong điều trị, và nó vẫn là tiêu chuẩn vàng cho các nghiên cứu so sánh về thuốc chống động kinh và thuốc khác để đánh bại bất kỳ hợp chất mới nào.

Natri valproate là thuốc chống động kinh tiếp theo được giới thiệu và một loại thuốc, giống như carbamazepine, đã thay đổi hoàn toàn phạm vi kê đơn. Báo cáo đầu tiên về tác dụng chống động kinh của natri valproate được công bố vào năm 1964. Điều này được phát hiện tình cờ trong một phòng thí nghiệm nhỏ ở Rennes, nơi valproate đang được sử dụng làm dung môi cho các loại thuốc thử nghiệm khác, nhưng tiềm năng của nó đã nhanh chóng được nhận ra. Vào năm 1967, nó đã được chấp thuận ở Pháp cho chứng động kinh, và sau đó trong vài năm tiếp theo ở các nước châu Âu khác (và năm 1976 ở Mỹ, mặc dù ban đầu chỉ dành cho những cơn động kinh cơn vắng/ absence seizures). Valproate và carbamazepine kể từ đó đã trở thành những loại thuốc được kê đơn nhiều nhất trên toàn thế giới. Valproate có hiệu quả cao trong nhiều loại động kinh, và sớm được công nhận là thuốc được lựa chọn trong bệnh động kinh toàn thể vô căn, nhưng cũng là thuốc có tác dụng phụ đáng kể, đặc biệt là gây quái thai.

Một sự phát triển to lớn khác trong lĩnh vực dược phẩm động kinh của những năm 1960 là việc đưa thuốc benzodiazepine vào thực hành lâm sàng. Được cấp phép đầu tiên là chlordiazepoxide vào năm 1960 và sau đó là diazepam vào năm 1963. Trong 15 năm tiếp theo, hơn 4000 hợp chất liên quan đã được tổng hợp và sàng lọc, và đến năm 1978, 23 hợp chất khác nhau đã được cấp phép. Mặc dù trọng tâm chính của các loại thuốc này là về đặc tính giải lo âu và gây ngủ, tác dụng chống co giật của chlordiazepoxide (Librium; Ro 5-0690) được báo cáo lần đầu tiên vào năm 1960 và vào năm 1962, một loạt các trường hợp động kinh được điều trị bằng chlordiazepoxide và diazepam (Valium ; Ro 5-2807) đã được trình bày. Năm 1965, Gastaut báo cáo tác dụng của clonazepam (Rivotril; Ro 05-4023) và năm 1977, nghiên cứu mù đôi đầu tiên so sánh clonazepam và ethosuximide trong trường hợp động kinh cơn vắng đã được công bố. Cơ chế hoạt động – đồng chủ vận tại thụ thể GABA – đã được phát hiện. Clobazam sau đó đã được cấp phép ở Châu Âu vào năm 1975, nhưng phải đến năm 2012 mới có phép ở Hoa Kỳ.

Trong số những khám phá nhỏ hơn của thời kỳ này là sulthiame, lần đầu tiên được ra mắt ở châu Âu vào đầu những năm 1960, nhưng chưa bao giờ được cấp phép ở Mỹ. Ngay sau khi ra mắt, sự tương tác chính của nó với phenytoin đã được công nhận và người ta công nhận rằng tác dụng của nó chỉ đơn giản là do mức độ tăng lên của phenytoin khi được sử dụng trong thương mại. Vì điều này, vào năm 1986 sulthiame đã bị rút khỏi thị trường ở Anh và sau đó là ở các nước châu Âu khác. Quyền sở hữu đã được chuyển giao cho Desitin vào năm 1993 và hiện nó đã có mặt tại một số quốc gia châu Âu. Progabide đã được cấp phép tại Pháp vào năm 1985 và đến năm 1992 được sử dụng cho hơn 2500 người, nơi nó vẫn còn tồn tại cho đến ngày nay trong phạm vi trị liệu của việc tẩy kim loại nặng bằng Gallic. Nó chưa bao giờ được cấp phép ở bất kỳ quốc gia châu Âu nào khác cũng như ở Hoa Kỳ.

Corticosteroid và đặc biệt là hormone kích thích vỏ thượng thận (ACTH) đã được đưa vào thực hành lâm sàng động kinh vào năm 1950. Năm 1958, tác dụng mạnh mẽ của những loại thuốc này đối với chứng co thắt ở trẻ sơ sinh lần đầu tiên được báo cáo, và chúng vẫn là liệu pháp đầu tay cho chỉ định này. ACTH và cortisone đã được chứng minh vào những năm 1950 cũng có giá trị trong các trường hợp không thường xuyên của các dạng động kinh trẻ em khác và trạng thái động kinh. Báo cáo đầu tiên về việc sử dụng chlormethiazole trong tình trạng động kinh là vào năm 1963 và nó đã trở thành liệu pháp hàng đầu tiêu chuẩn trong điều trị động kinh vào năm 1970 và các cơn co giật cấp tính và trạng thái động kinh.

Việc điều trị trạng thái động kinh cũng bị ảnh hưởng rất nhiều bởi sự ra đời của phenytoin tiêm tĩnh mạch, được sử dụng lần đầu tiên vào năm 1956. Paraldehyde tiêm tĩnh mạch cũng trở nên phổ biến sau báo cáo đầu tiên về việc sử dụng nó vào năm 1949, và được nhiều người ở trên ưa chuộng hơn phenytoin. Lignocaine tiêm tĩnh mạch được báo cáo lần đầu tiên vào năm 1960 và urê truyền tĩnh mạch được báo cáo vào năm 1962 là có hiệu quả cao trong bệnh động kinh tình trạng nặng. Tất cả những loại thuốc này đã bị lu mờ bởi các benzodiazepine. Năm 1965, Gastaut nói về diazepam trong trạng thái động kinh, rằng:

Nổi bật về độ tin cậy và tác dụng nhanh chóng, đồng thời làm cho nó trở thành một loại thuốc hiệu quả hơn những loại thuốc khác mà chúng tôi đã sử dụng trước đây, trong số đó có: Phenobarbital dạng tiêm, Somnifene, Chloral hydrate, Eunoctal, Sodium Bromide, Rectanol, Novocain và Hemineurin… Chúng tôi chưa bao giờ thu được kết quả như vậy trong quá khứ, mặc dù chúng tôi đã sử dụng nhiều loại thuốc, bao gồm: Tridione, Pentothal, Eunoctal, Hemineurin, ACTH và aldosterone.

Sau đó, vào năm 1971, Gastaut báo cáo việc sử dụng clonazepam (Rivotril; Ro 5-4023):

“Một loại thuốc benzodiazepine mới – hoạt động mạnh hơn diazepam … chúng tôi không ngần ngại khẳng định rằng Ro 05-4023 cho đến nay là tác nhân hiệu quả nhất mà chúng tôi có hiện nay để điều trị trạng thái động kinh dưới bất kỳ hình thức hoặc nguyên nhân nào”.

Việc áp dụng các nguyên tắc dược động học vào liệu pháp điều trị động kinh là một tiến bộ lâm sàng quan trọng nhất trong những năm 1960 và 1970. Việc đo nồng độ thuốc chống động kinh chỉ bắt đầu được nghiên cứu một cách có hệ thống vào cuối những năm 1950, mặc dù công nghệ này đã có từ vài năm trước đó. Sự phát triển ban đầu này vừa được định hướng bởi phương pháp luận, vừa được kích thích bởi yêu cầu quy định về thông tin dược lý. Các nghiên cứu mở rộng về bromide, ethosuximide, phenytoin và phenobarbital đã được tiến hành ban đầu, và trong vòng một thập kỷ hoặc lâu hơn, các đặc tính dược động học lâm sàng của tất cả các thuốc chống động kinh – sự hấp thu, phân bố, chuyển hóa và bài tiết của chúng – đã được ghi nhận khá đầy đủ. Trong những năm 1960, phép đo nồng độ thuốc trong huyết thanh đã được đưa vào thực hành lâm sàng (được gọi là theo dõi thuốc điều trị), và các phòng thí nghiệm sớm đo nồng độ thường quy. Đến đầu những năm 1980, đặc điểm của hệ thống enzym gan đã hoàn thiện phần lớn, và các yếu tố liên quan, cả môi trường và di truyền, đã được nghiên cứu chuyên sâu. Một ngành công nghiệp thực sự đã nảy sinh, liên quan đến tương tác thuốc, dẫn đầu bởi nghiên cứu về phenytoin (một loại thuốc có các tương tác phức tạp duy nhất), vào giữa những năm 1960.

Việc nhấn mạnh vào liệu pháp đơn thuốc (đơn trị liệu) là một thay đổi có ảnh hưởng trong chiến lược điều trị từ cuối những năm 1970. Nghịch lý là liệu pháp đơn trị trở nên khả thi, do sự ra đời của nhiều lựa chọn hơn các loại thuốc mới có hiệu quả, đặc biệt là carbamazepine và valproate, và cũng do việc áp dụng theo dõi thuốc điều trị để tinh chỉnh và cải thiện liều lượng cá nhân. Nhanh chóng theo sau là một sự thay đổi rõ rệt đối với các phác đồ đơn trị liệu ở bệnh nhân động kinh, và khuyến cáo gần như phổ biến rằng đơn trị liệu chống động kinh được bắt đầu ở những bệnh nhân mới. Vào cuối những năm 1980, các cơ quan quản lý đã bắt đầu yêu cầu các thử nghiệm đơn trị liệu.

Lịch sử điều trị Động kinh- bài 2

Xin giới thiệu sơ về tác giả Simon Shorvon. (MA MB BChir MD FRCP) Ông là Giáo sư thần kinh học lâm sàng và nhà tư vấn thần kinh học, tại Viện Thần kinh học UCL, Đại học College London và Bệnh viện thần kinh quốc gia và phẫu thuật thần kinh, London, Vương quốc Anh

Việc học các bài giảng khô khan về bệnh học có thể sẽ bớt nhàm chán, và dễ nhập tâm hơn nếu bạn đọc có thể theo dõi lịch sử thú vị của các nội dung bệnh học. Ngoài ra, trong bài viết này, tôi đặc biệt lưu ý các bạn về quan niệm ‘can thiệp toàn diện’, cũng như cảnh báo của bậc tiền bối về tư duy ‘điều trị đặc hiệu’ trong y học thì có hạn chế gì. 

Simon Shorvon viết gì về thời kì 1857–1911?

Vào thời kỳ bắt đầu của chúng ta, 150 năm trước, có rất ít “chi tiết cụ thể”, nếu có, về điều trị chứng động kinh. Đây là quan điểm được đưa ra bởi Tiến sĩ Edward Henry Sieveking, người sớm trở thành bác sĩ tại Bệnh viện Quốc gia cho Bệnh nhân bị liệt và Động kinh ở London, bệnh viện đầu tiên điều trị ngoại trú bệnh động kinh, và sau này là bác sĩ cho Nữ hoàng Victoria, tại một cuộc họp chào mừng, ở London, của Hiệp hội Y khoa và Phẫu thuật Hoàng gia, vào ngày 11 tháng 5 năm 1857 [4]. Trong bài phát biểu của mình, ông đã bác bỏ các biện pháp khắc phục riêng biệt và khuyến nghị một cách tiếp cận toàn diện hơn với việc sử dụng các chất chống kích ứng, thúc đẩy hoạt động lành mạnh của các cơ quan tiết dịch (cơ quan bài tiết), và làm tăng cường thể trạng bằng thực vật và chất khoáng (thuốc bổ). Delasiauve, trong cuốn sách Traité de l’épilepsie năm 1854, cũng đưa ra quan điểm tương tự, chia liệu pháp thành:

1 Các liệu pháp giúp phục hồi, chẳng hạn như trích máu, tắm nước ấm;

2 Liệu pháp thanh lọc, bao gồm thuốc gây nôn và thuốc tẩy;

3 Liệu pháp an thần, bao gồm ête;

4 Các biện pháp biệt định, bao gồm các loại valarian và opiates; cái sau không thành công lắm.

Quan điểm này thực sự thống trị trong lúc đó. Tuy nhiên, cuộc họp năm 1857 được tổ chức không phải vì bài báo của Sieveking – mặc dù nó rất xuất sắc – mà vì những nhận xét trong cuộc thảo luận sau đó. Trong đó, bác sĩ sản khoa hoàng gia Sir Charles Locock, chủ tọa cuộc họp, đã báo cáo việc ông sử dụng kali bromua trong chứng động kinh catamenial hysterical. Vì vậy, vào buổi tối mưa gió ở London đó, phương pháp điều trị y học hiện đại đầu tiên cho bệnh động kinh và là phương pháp điều trị ‘biệt định’ đầu tiên thực sự hiệu quả (hoặc ít nhất là gần đặc hiệu), đã được đưa ra. Có thêm các báo cáo của Wilks, Radcliffe, Ramskill và Hughlings Jackson trong vài năm sau đó, và đến năm 1864, bromua bắt đầu được sử dụng rất rộng rãi.

Trong cuộc họp, có một điều thú vị là, Locock cũng khuyến nghị loại bỏ những chiếc răng mọc quá nhiều và ngừng thủ dâm. Tương tự như vậy, Webster nhận xét sau bài báo của Sieveking rằng thủ dâm là một nguyên nhân thường xuyên gây ra chứng động kinh, đặc biệt là ở các vùng khí hậu phía Nam, nhưng Sieveking nói rằng ông không liên hệ được điều này với thực hành lâm sàng vì ‘rất khó để đi đến sự thật về vấn đề này’, và rằng ‘ông không biết làm thế nào để xác định nó trong trường hợp của phụ nữ’.

Sieveking cũng trong năm đó đã xuất bản cuốn sách ‘Động kinh và co giật dạng động kinh: Nguyên nhân, sinh bệnh lý và điều trị’, đây là một bước ngoặt trong phương pháp điều trị động kinh. Ấn bản thứ hai được hoàn thành vào năm 1861 và trong phần Sàng lọc đã chia ra phương pháp điều trị cho ‘cơn kịch phát cấp tính’, theo đó, ông khuyến nghị việc ngăn ngừa thương tích, chống kích ứng bằng bôi terebinthenate hoặc sinapisms, hoặc cho đỉa bám vào thái dương, loại bỏ tất cả các đồ vật dùng để kiềm chế, tránh dùng thuốc an thần, không khí mát, ép động mạch cảnh, các biện pháp làm lạnh, Galvanism (kích thích điện), tránh amoniac và các chất kích thích bay hơi và chloroform. Sau đó, ông xem xét việc điều trị giai đoạn tiền mãn tính và chứng động kinh mãn tính và đề nghị buộc các chi, điều trị hậu quả của gây- kích ứng (ví dụ như vết bỏng, vết phồng rộp), giác hơi khô và trích máu (bằng nhiều cách khác nhau), khoan sọ, điều trị bằng phương pháp tâm linh, thuốc tẩy, chất khoáng bổ (‘nên tránh xa các phương pháp điều trị chống độc tố dũng mãnh’), axit nitro-muriatic, gentian, nước sắc của vỏ cây và axit sulfuric, olcum morrhuae (nói cách khác, dầu gan cá!), cũng như bromide, mà ông chỉ nghĩ là có lợi vừa phải, và iốt kali cho chứng động kinh do giang mai thứ phát và nhiễm độc chì. Sieveking vẫn nghi ngờ về việc sử dụng các biệt định, như ông đã nói:

“Tôi đưa ra những nhận xét này không chỉ như một lời xin lỗi vì đã không tham gia đầy đủ hơn vào việc xem xét một loạt các loại thuốc có thể được sử dụng trong quá trình điều trị bệnh động kinh với ít nhiều lợi ích; mà còn để phản đối chủ nghĩa ‘biệt định’ đó, được công chúng cũng như giới chuyên môn ủng hộ, biến mọi căn bệnh thành một thực thể riêng biệt, phá vỡ sự thống nhất của khoa học y học, và ở khía cạnh cực đoan, nó gây hại nhiều hơn bất kỳ thủ đoạn cực kỳ chuyên nghiệp nào khác.”

Ông liệt kê các liệu pháp mà nhìn chung ông thấy vô ích: thuốc phiện và ma tuý, hyoscine, conium, belladonna, axit hydrocyanic, belladonna, digitalis, tầm gửi, rau mầm và chàm. Ông kết thúc chương dài về điều trị bằng cách giới thiệu cho độc giả danh sách đầy đủ các liệu pháp trong các tác phẩm của Tissot, Fraser, Cooke, Copland và những người khác, và bằng nhận xét nổi tiếng hiện nay của ông:

“Trên thực tế, không có một chất nào trong dược liệu, hiếm có một chất nào trên thế giới, có khả năng đi qua đường tiêu hóa của con người, mà không phải lúc này hay lúc khác, được coi là chất chống động kinh.”

Hughlings Jackson cũng có quan điểm tiêu cực về điều trị bằng thuốc, viết vào năm 1888: “Điều trị bệnh động kinh của chúng tôi khét tiếng là không đạt yêu cầu”, và lần đầu tiên ông khuyến nghị nên xem xét điều trị phẫu thuật. Bất chấp sự bi quan của các bác sĩ hàng đầu này, tuy nhiên, khá rõ ràng rằng bromide đã thay đổi cách các bác sĩ tiếp cận với liệu pháp trong bệnh động kinh. Những loại thuốc này đã mở ra thời đại hiện đại của thuốc chống động kinh, với sự nhấn mạnh vào hiệu quả, tác dụng phụ, cơ chế tác dụng và điều trị lâm sàng. Cuộc cách mạng này bắt đầu với bromua trong công thức của nó dưới dạng muối kali, nhưng ngay sau đó đã được theo sau bởi các công thức khác (đặc biệt là natri, amoni, muối strontior liti, và các sản phẩm kết hợp) nhưng không có sự đồng thuận nào về giá trị tương đối của chúng. Đây là xu hướng khởi đầu cho việc sản xuất thuốc ‘tôi cũng vậy’ mà nó vẫn tiếp tục cho đến ngày nay.

Trong thời kỳ này, thuốc chữa bệnh được chia thành ba loại: dẫn xuất thực vật, dẫn xuất động vật và hóa chất đơn giản. Liệu pháp cũng thường được chia thành liệu pháp cho cơn động kinh cấp tính (cơn động kinh bắt đầu) và liệu pháp mãn tính. Thực vật và các chất kết cấu động vật được sản xuất chủ yếu ở các hiệu thuốc và trạm y tế địa phương, nhưng hóa chất ngày càng trở thành địa chỉ riêng của ngành công nghiệp hóa chất đang phát triển, đặc biệt là ở những công ty liên quan đến sản xuất thuốc nhuộm. Đây là cú hích của ngành công nghiệp dược phẩm, vốn đã thống trị liệu pháp điều trị trong thế kỷ tiếp theo. William Gowers là người trình bày văn bản nổi tiếng nhất về phương pháp điều trị động kinh vào cuối thế kỷ XIX. Văn bản tuyệt vời của ông về Bệnh động kinh và Rối loạn co giật mãn tính khác chứa 50 trang về điều trị và các khuyến nghị của ông về điều trị bằng thuốc. Ông đã viết trong ấn bản thứ hai vào năm 1901 rằng các liệu pháp phân biệt nhằm vào nguyên nhân cơ bản, nói chung thế, và các biện pháp phẫu thuật:

“Việc điều trị bệnh động kinh hoàn toàn là dùng thuốc. Nó luôn luôn xảy ra như vậy, nhưng ở một mức độ rõ rệt hơn kể từ khi phát hiện tình cờ gần đây nhất, hơn bốn mươi năm trước, về ảnh hưởng đối với căn bệnh do sự kết hợp của brom.”

Gowers coi tất cả các phương pháp điều trị khác là “bổ trợ” cho bromide, và ông cũng chỉ trích nhiều loại thuốc được sử dụng trong liệu pháp đương đại là rất ít nếu có giá trị. Một loại thuốc hỗ trợ mặc dù điều đó không làm ông nản lòng là borax, mà chính Gowers đã giới thiệu lần đầu tiên trong bài giảng Goulstonian năm 1879 [Các Bài giảng Goulstonian là một loạt bài giảng hàng năm, do đại diện của Đại học Y sĩ Hoàng gia ở London. Các bài thuyết giảng này bắt đầu vào năm 1639. Các bài giảng được đặt tên của Theodore Goulston (hay Gulston, đã mất năm 1632), người đã thành lập hoạt động với một di chúc], và điều này tiếp tục có một vị trí trong các liệu pháp cho đến những năm 1950.

Bromide thống trị liệu pháp cho đến những năm 1920, nhưng rõ ràng là vào năm 1890, sự nhiệt tình đối với các liệu pháp y học đã suy yếu. Không có phương pháp điều trị hiệu quả nào được đưa ra trong 20 năm tiếp theo và bản chất nhất thời của sự cải thiện liệu pháp cũng đã được công nhận. Như Gray đã viết vào năm 1895:

“Động kinh, rất dễ bị ảnh hưởng bởi những thay đổi nhỏ trong môi trường và trong… điều trị… [chúng] hoạt động tốt trong một thời gian khi có bất kỳ thay đổi nào về phương pháp điều trị, cho dù phương pháp điều trị đó là nội khoa hay phẫu thuật, cho dù nó bao gồm cắt bỏ quy đầu, cắt bỏ âm vật, cắt buồng trứng… dùng bàn là nóng… cắt cơ mắt… hoặc rạch da bệnh nhân và cắt một phần da ở mông. Tôi thậm chí có vẻ như cải thiện ở một bệnh nhân trong nhiều tháng chỉ bằng sự thay đổi nơi ở.” 

Năm 1907, nhân vật quan trọng tiếp theo trong lĩnh vực điều trị động kinh, William Aldren Turner, đã xuất bản cuốn sách kinh điển của mình Epilepsy: A Study of the Idiopathic. Đây là một văn bản xác định tư duy tiên tiến của thời đó. Trong cuốn sách, ông cho rằng chỉ có một số loại thuốc có lợi nhất định và đưa danh sách các loại thuốc hiệu quả và không hiệu quả.

William Philip Spratling, nhà động kinh học hàng đầu của Hoa Kỳ vào thời điểm đó, đã xuất bản cuốn sách Bệnh động kinh và cách điều trị của mình vào năm 1904. Các khuyến nghị của ông về điều trị bằng thuốc rất giống với các khuyến nghị của Gowers. Ông đã giải thích chi tiết về bromua, và các công thức khác nhau của chúng, đồng thời khuyến nghị kết hợp chúng với thuốc phiện hoặc codein. Các loại thuốc khác mà ông cho là hiệu quả, phù hợp với Gowers và Turner, là borax, chloral, amylene hydrate, nitroglycerin, kẽm, sắt và chloroform. Ông cũng khuyến nghị dùng chloretone (trichloro-2-methyl-2-propanol, một chất gây mê tương tự tochloral), urethan, solanum carolinense, simulo, trional (một loại thuốc an thần tác động trên GABA), liệu pháp huyết thanh của Ceni và các dẫn xuất nhựa than đá (antipyrin, phenacetin và acetanilide ).

Liệu pháp điều trị tình trạng động kinh cũng phát triển trong những năm này. Vào năm 1874, Bourneville, trong bản tường thuật kinh điển của mình về chứng động kinh, kể lại trường hợp của Marie Lamb, người đã được điều trị bằng sinapisme (một phương thuốc bôi ngoài da với thành phần là bột mù tạt), thuốc xổ và quinine sulphat – không có tác dụng. Amyl nitrit được giới thiệu vào năm 1876, và Gowers vào năm 1881 khuyến nghị morphia. Các loại thuốc khác được sử dụng là apomorphine, hyoscinehydrobromate và chloroform. Năm 1903, Clark và Prout ủng hộ chloroform, bromide và chloral. Turner đề nghị khi bắt đầu tình trạng động kinh rằng nên tăng gấp đôi liều lượng muối bromua và chloral hydrat, nhưng ở đỉnh điểm của một đợt ‘sẽ không có tác dụng nào làm ngừng cơn động kinh ngoại trừ hít cloroform’ và trong giai đoạn sững sờ thì điều cần thiết là chăm sóc điều dưỡng cẩn thận, bổ sung dinh dưỡng, ánh sáng dồi dào và thuốc bổ.

Vào cuối thế kỷ 19, các tác dụng phụ của bromua đã được công nhận (‘bromism’), và phần lớn các nỗ lực điều trị đã tập trung vào việc giảm thiểu những tác dụng này. Điều này bao gồm việc sử dụng chế độ ăn ít muối để giảm nhu cầu về bromua (để cơ thể thay thế clorua bằng bromua; khử clo), sử dụng các liệu pháp kết hợp và sử dụng liều thấp hơn. Với sự ra đời của bromua, nhiều hợp chất được sử dụng rộng rãi trước đây đã không còn được ưa chuộng (bao gồm hầu hết các biện pháp điều trị bằng thảo dược và hóa học như kẽm và sắt) và phạm vi của các liệu pháp bị thu hẹp đáng kể.

Lịch sử điều trị Động kinh- bài 1

Khi học phổ thông, chúng ta không chỉ học các tác phẩm văn học. Chúng ta luôn phải biết tác giả là ai và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm. Cách tiếp cận này đúng cho việc học hỏi nhiều nội dung khác, trong đó có y học. Vì vậy, nhân việc một đồng nghiệp hỏi về động kinh, tôi xin trích giới thiệu về Lịch sử Động kinh của Simon Shorvon, 2016, với vị trí như là một ngành lâm sàng, vì khối lượng kiến thức đồ sộ của bản thân nội dung này, cũng như ảnh hưởng của nó tới các nội dung lâm sàng khác, nhất là Tâm thần.

Ở VN, khi tôi còn học Đại học, Động kinh là bài giảng của môn Thần kinh. Khi học CK I Tâm thần, Động kinh là một bài giảng trong Tâm thần học, ngoài phần giảng của môn Thần kinh, như là một chứng chỉ bổ sung cho chương trình này. Lúc này tôi mới biết, trong Chương trình quốc gia về tâm thần phân liệt, các bác sĩ Tâm thần ở tuyến cơ sở phải cấp thuốc hàng tháng cho bệnh nhân tâm thần phân liệt và bệnh nhân động kinh. Mãi sau này chương trình có thêm nội dung trầm cảm. Nhưng chương trình này đã không còn nữa, mà chuyển sang chương trình chăm sóc thông qua bảo hiểm y tế. Trong nhiều năm, Bộ môn Tâm thần của ĐH Y Hà Nội vẫn coi đây là một phần của môn học. Nhưng khi xây dựng nội dung học tập cho sinh viên trình độ Đại học, tôi coi đây là phần giảng dạy của môn Thần kinh.

Và cuối cùng, khi phải nhìn nhận nền tảng sinh học của các hoạt động tinh thần, việc học hỏi về động kinh là không thể tránh được.

Lịch sử điều trị Động kinh bằng hóa dược từ 1857 đến 2015

Sự phát triển của liệu pháp hóa dược tạm chia 4 thời kì. Trong đó, ba thời kỳ được đề cập từ một quan điểm lịch sử: 1857–1939, 1938–1955, 1955– 1989. Từ năm 1989 tới nay, được đánh giá là quá gần để có được một góc nhìn thích hợp. Thay vào đó, tôi cố gắng cung cấp một mốc thời gian của liệu pháp điều trị bằng thuốc chống động kinh, liệt kê những phát triển dược phẩm trong thực hành lâm sàng chính thống để điều trị chứng động kinh kể từ ngày 11 tháng 5 năm 1857. Ngày này được chọn vì khi đó bromides, liệu pháp hiện đại đầu tiên, đã được đưa vào thực hành bệnh động kinh, và khi nó được một năm, tiến bộ trị liệu quan trọng này có vẻ như một chủ đề thích hợp để giới thiệu ra công chúng.

Hiện nay, vào đầu thế kỷ XXI, và trong hầu hết 150 năm qua, việc điều trị bệnh động kinh đã được thống trị bởi dược phẩm. Hầu như tất cả những tiến bộ quan trọng nhất trong liệu pháp đều xoay quanh việc điều trị bằng thuốc. Mặc dù đã có nhiều nỗ lực để điều trị bằng phẫu thuật, nhưng số lượng bệnh nhân được phẫu thuật vẫn còn rất nhỏ so với những người được điều trị bằng thuốc và đây vẫn là một liệu pháp chiếm phần lớn, và là phương án cuối cùng. Các liệu pháp không dùng thuốc, không phẫu thuật khác cũng chủ yếu giới hạn trong lề của trị liệu lâm sàng, ít nhất là trong thực hành bệnh viện hiện đại. Các phát triển dược phẩm đã làm giảm sút tất cả các phát triển khác trong điều trị, và kết quả là hầu hết các phát triển lâm sàng khác có tầm quan trọng không đáng kể (điều đáng chú ý là tác động tương đối ít đến tất cả các công việc về mô tả lâm sàng, phân loại và điều tra lâm sàng đối với điều trị bằng thuốc). Có lẽ chỉ những phát triển liên quan đến các khía cạnh xã hội của bệnh động kinh (giảm kỳ thị, cải cách luật hôn nhân và việc làm, v.v.) mới có tác động nhiều như điều trị bằng thuốc đối với cuộc sống của những người bị động kinh.

Tuy nhiên, sự phát triển của liệu pháp điều trị động kinh không phải là một quỹ đạo tuyến tính đơn giản của sự tiến triển không ngừng, mà là một hành trình thất thường, đầy rẫy những khởi đầu sai lầm và những ngõ cụt. Thật đáng chú ý khi quan sát các tuyên bố tương tự như thế nào đối với các loại thuốc trong quá khứ và hiện tại, mặc dù những tuyên bố này thường bị thổi phồng quá mức và bao nhiêu liệu pháp được quy định bởi thời trang nhiều như khoa học. Chỉ riêng những sự kiện này đã nhấn mạnh sự cần thiết của quan điểm lịch sử, vì nếu không có kiến ​​thức về lịch sử, những sai lầm tương tự trong quá khứ chắc chắn sẽ lặp lại.

Trong khoảng hơn 150 năm này, một số chủ đề chung đã xuất hiện đáng được liệt kê. Đầu tiên, rõ ràng là hầu hết các loại thuốc được giới thiệu trong thời kỳ này đều không chịu được thử thách của thời gian, bất chấp những tuyên bố phóng đại được đưa ra vào thời điểm đó. Có nhiều lý do khác nhau cho điều này, nhưng thông thường việc chúng không tạo ra tác động lâu dài là do cơ sở lý thuyết sai lầm, tác động khiêm tốn duy nhất đến việc kiểm soát cơn động kinh – nếu có bất kỳ tác động nào – hoặc sự phát triển của các tác dụng phụ đôi khi nghiêm trọng, một số trong số đó đã mất nhiều năm để được công nhận. Không đến nỗi nhiều tuyên bố tác dụng diệu kì được đưa ra đối với thuốc chữa bệnh, hiện đã bị loại bỏ, là sự lừa dối có chủ ý, nhưng nhiều hơn thế là chúng phản ánh nhiều lý thuyết và tính xu thế hơn trong cùng lúc. Tuy nhiên, chúng gây ra cảm giác déjà vu – và nên khuyến khích thái độ hoài nghi khi được trình bày với những khẳng định về các liệu pháp đương đại mà bản thân chúng dựa trên một trạng thái tri thức nhất thời như nhau.

Thứ hai, tốc độ giới thiệu thuốc mới thay đổi đáng kể theo thời gian. Đã có một “hiệu ứng concertina” rõ ràng với các đợt bùng nổ hoạt động sau đó là các giai đoạn buông rơi. Những giai đoạn hoạt động này thường là do, sau khi phát hiện ra một nhóm thuốc mới, dẫn đến sự phát triển của các dẫn xuất có cấu trúc gần (thuốc ‘tôi cũng vậy’; điều này xảy ra đối với bromua, barbiturat, hydantoin, oxalozolidine diones, iminodibenzyls, pyrrolidones). Đôi khi các dẫn xuất có hiệu quả tốt hơn thuốc gốc, chẳng hạn như trường hợp của ethosuximide và levetiracetam, nhưng đôi khi ngược lại (ví dụ với phenytoin và phenobarbital).

Thứ ba, việc đưa ra các loại thuốc hiệu quả nhất phụ thuộc vào công nghệ mới, mô hình mới hoặc mô hình khoa học mới, mặc dù cũng thường có yếu tố may rủi lớn. Do đó, sự ra đời của phenytoin phụ thuộc vào mô hình điện cực đại mới, sự ra đời của pregabalin, gabapentin, vigabatrin, tiagabine trên làn sóng nghiên cứu thử nghiệm ‘GABA’, của perampanel trên sóng glutamate và lamotrigine về ‘lý thuyết folate’ hiện đã bị bỏ rơi, v.v. Nền tảng của việc khám phá ra thuốc bằng sinh lý học và sinh hóa học cho thấy khoa học dẫn đầu và chủ nghĩa thương mại đi sau như thế nào, nhưng không bao giờ có thể đánh giá thấp ảnh hưởng của sự may rủi và tầm nhìn xa. Trị liệu động kinh chưa bao giờ hoàn toàn dựa trên lý trí.

Thứ tư, cơ sở lý thuyết của việc giới thiệu thuốc cũng thường dựa trên các khái niệm về căn nguyên của bệnh động kinh. Do đó, vào đầu thời kỳ này, liệu pháp được đưa ra dựa trên các lý thuyết về cân bằng dinh dưỡng, tắc nghẽn mạch máu, thải độc tự thân, thủ dâm và thoái hóa di truyền, và các liệu pháp dựa trên khôi phục sự cân bằng, giảm tắc nghẽn, làm sạch ruột, thiến và thuyết ưu sinh tăng trong và ngoài theo xu thế từng thời kì. Trong thời gian gần đây, khái niệm cho rằng chứng động kinh là do mất cân bằng bình thường giữa kích thích và ức chế, các khiếm khuyết phân tử hoặc sinh hóa cụ thể, giảm viêm hoặc ảnh hưởng đến các con đường di truyền cụ thể hoàn toàn không giống nhau. Không nên đánh giá thấp thuyết tương đối của các chính thống khoa học hiện tại của chúng ta, và các lý thuyết hiện tại có thể sẽ không còn hợp thời khi trọng tâm của khoa học thay đổi không ngừng.

Cuối cùng, bối cảnh xã hội, thương mại và chính trị có ảnh hưởng to lớn, và ảnh hưởng này được thực hiện thông qua các quá trình như quy định và thực hành thương mại. Sự phát triển nhanh chóng của thuốc trong những năm 1940 ở Hoa Kỳ và trong những năm 1950-1960 ở Châu Âu là kết quả của sự điều chỉnh khi chạm vào ‘ánh sáng’, và sự khan hiếm thuốc trong những năm 1960-1970 ở Hoa Kỳ một phần là do phản ứng điều tiết đối với thảm kịch thalidomide. Việc thiếu các hợp chất mới hiện nay một phần cũng do bộ máy quản lý và quy định ngày càng chặt chẽ trong những năm gần đây. Một bước phát triển đáng chú ý khác là việc chuyển giao việc khám phá thuốc từ bệnh viện hoặc trường đại học, điển hình trong nửa đầu của giai đoạn này, sang tình hình hiện nay, khi thuốc chủ yếu xuất hiện từ các ‘kẽ hở’ của ngành dược, trong bối cảnh thương mại hóa nặng nề. Sự gia tăng quyền lực và lợi nhuận của ngành dược phẩm là một trong những đặc điểm nổi bật của bối cảnh trị liệu sau chiến tranh thế giới thứ II và điều trị động kinh. Bệnh động kinh cũng đã được quan tâm bởi ngành dược phẩm vì các loại thuốc thành công nhất đã được phát hiện có công dụng trong các chỉ định khác (ví dụ: đau, trầm cảm) cũng như trong bệnh động kinh, và những chỉ định này thường lớn hơn và mang lại nhiều lợi nhuận hơn bản thân bệnh động kinh.

Vấn đề “giao tiếp” trong Tâm thần học và trong đào tạo y khoa

Phần học “Giao tiếp” trong chương trình đào tạo 10 tháng Ngôn ngữ trị liệu Nhi của ĐHY Phạm Ngọc Thạch thực sự khó hiểu đối với tôi. Nếu bây giờ phải thi hết môn một lần nữa, chắc tôi trượt. Nhưng sự may mắn của tôi khi tiếp cận môn học này, cũng như chương trình học nói chung, là không thể phủ nhận. Một lần nữa, tôi lại cảm thấy may mắn, khi lang thang tìm hiểu về một hình ảnh (tỉ lệ các yếu tố trong giao tiếp từ: a) từ ngữ- tức ngữ nghĩa, b) hành vi lời nói- tức các yếu tố không phải ngữ nghĩa trong chuỗi âm thanh lời nói, c) hành vi phi ngôn ngữ- tức điệu bộ cử chỉ, đóng góp vào nội dung giao tiếp) được cung cấp trong phần học này, vì may là hình ảnh này có kèm theo trích dẫn cụ thể (gồm cả tác giả- tác phẩm))

.

Nhưng khi tìm được tác giả, tác phẩm, điều không may là tôi không hề thấy hình ảnh này trong nguyên tác. Điều may mắn và thú vị là, mô hình đa ngành được thể hiện với việc, tác phẩm này do RAY L. BIRDWHISTELL, một nhà nhân chủng học viết, với phần trích dẫn gồm rất nhiều các tác giả và tác phẩm thuộc lĩnh vực tâm thần học, và tài trợ nghiên cứu từ Viện Sức khỏe tâm thần Quốc gia Mĩ và Viện Tâm thần Đông Pennsylvania. Bạn đọc có thể chia sẻ cảm xúc này với tôi, nếu cùng trải qua tình trạng bị cô lập trong môi trường học thuật y học hiện nay tại VN, khi các chương trình đào tạo và nội dung cho phép thực hành nghề chỉ thuần túy dựa trên bằng cấp, nghĩa là nếu chưa từng được đào tạo với đúng ngành học (theo nghĩa đen và đúng y chang về chính tả) thì bạn khó mà được bén mảng vào các chương trình đào tạo và thực hành một chuyên ngành khác, dẫn đến mô hình đa ngành không tồn tại trên thực tế ở VN. Thôi thì, chúng ta sẽ từ từ xây dựng mô hình này, với niềm tin vững chắc rằng, nó không phải là thứ “không tưởng”. 

Phần ‘Giao tiếp thày thuốc bệnh nhân trong môi trường bệnh viện’ đã được tôi xây dựng và giảng dạy trong 3 năm học, nhưng cho dù đã cập nhật thêm nhiều khía cạnh so với nguyên bản, lấy từ tài liệu ‘Kĩ năng thực hành Y khoa’– tài liệu đào tạo Tiền lâm sàng của ĐH Y Hà Nội, và Tâm lý Y học, cũng của ĐH Y Hà Nội, tôi vẫn chưa cảm thấy hài lòng. Phần học này vẫn bị sinh viên hiểu rằng họ đang học một kĩ năng, trong khi tôi lại muốn họ hiểu rằng, không chỉ như vậy, họ còn đang học một lý thuyết, bởi khi giảng dạy phần này tôi xuất hiện với tư cách là một nhà Tâm thần học, không phải một bác sĩ Nội khoa. Cũng không thể trách các bạn ấy, vì ngay cả các đồng nghiệp của tôi, cũng cho là như vậy, khi mà các nhà Tâm thần học VN thực sự chưa đề cập đến vấn đề này.

Trong các chuyên ngành y khoa, nếu có chuyên ngành nào phải tìm hiểu giao tiếp, không phải chỉ là một kĩ năng, mà còn là một lý thuyết, thì đó là ngành Tâm thần. Các bác sĩ không ‘khám’, mà ‘phỏng vấn’. Ngoài ra, trong các phân loại chẩn đoán, bác sĩ phải chẩn đoán một nhóm rối loạn có tên là “Rối loạn giao tiếp”. Nhưng với các nội dung kĩ năng giao tiếp chúng ta hiện hay tiếp xúc, chủ yếu chỉ từ khía cạnh marketing, với sự áp đặt rằng đó là ‘một nghệ thuật’ làm hài lòng người khác thì không dễ để bác sĩ tương lai hình dung được vấn đề. Thậm chí có bạn còn nghi ngờ. Trong khi Peter Drucker, nhà lý thuyết quản lý hàng đầu cho rằng: “Nhưng mục đích của marketing là làm sao để biết và hiểu rõ khách hàng thật tốt…”. [Wikipedia] Mà chỉ qua giao tiếp, chúng ta mới đạt được điều này. Giao tiếp giúp chúng ta biết và hiểu người khác, trước khi chúng ta ứng dụng nó để làm hài lòng người khác. Trong y khoa, nhất là đối với bác sĩ Tâm thần, bạn phải ‘biết’ về bệnh nhân- tức khám bệnh.

Chúng ta hãy xem Birdwhistell nói gì trong lời Giới thiệu của “Kinesics and context”- 1970

Các bài tiểu luận này dựa trên niềm tin rằng chuyển động cơ thể là một hình thức giao tiếp đã học được, được tạo hình trong một nền văn hóa và có thể được chia nhỏ thành một hệ thống có trật tự gồm các yếu tố có thể tách biệt. Cuốn sách này không phải là một tạp chí nghiên cứu đã hoàn thành. Nó cũng không được thiết kế như một cuốn sách giáo khoa về chuyển động học. Đây cũng không phải là sách hướng dẫn dành cho những người muốn ghi nhớ các quy ước kí hiệu giao tiếp và, nếu không có đào tạo nào khác, thì hãy mua máy ghi âm hoặc máy chiếu phân tích chuyển động và biến một phim thành tài liệu khoa học. Đây là một cuốn sách về nghiên cứu chuyển động của cơ thể, giao tiếp và vị trí quan trọng của bối cảnh tự nhiên khi nghiên cứu hành vi của con người. Những bài tiểu luận này, một tập hợp đã chỉnh sửa của các bài viết đã xuất bản và chưa được xuất bản, không nhằm mục đích trở thành một tuyên bố tổng hợp hoặc toàn diện cuối cùng về chuyển động học cơ thể và giao tiếp. Tuy nhiên, tôi hy vọng rằng chúng sẽ giới thiệu cho người đọc, chưa từng dấn thân vào các dòng nghiên cứu hoặc lý luận cụ thể về tiếp cận việc khảo sát giao tiếp của con người bằng các kỹ thuật ngôn ngữ và động học, mong muốn và có liên quan.

Đến năm 1959, việc xem xét có hệ thống các tài liệu được quay phim đã cung cấp bằng chứng hỗ trợ cho việc đánh giá hình thái động học. Các buổi học căng thẳng tại Trung tâm Nghiên cứu Cao cấp về Khoa học Hành vi, trong đó các nhà Ngôn ngữ học (Norman McQuown và Charles Hockett), nhà Nhân chủng học (Gregory Bateson và Ray Birdwhistell), và các nhà Tâm thần học (Henry Brosin và Frieda FrommReichmann) tham gia, đã tạo ra một lượng lớn dữ liệu, chứng minh sự phụ thuộc lẫn nhau của hành vi có thể nhìn thấy và nghe được trong luồng hội thoại. Các buổi phân tích và đánh giá cũng căng thẳng không kém tại Đại học Buffalo, với sự hỗ trợ khôn ngoan và tài năng của HL Smith, Jr. và GL Trager, đã xác nhận niềm tin rằng, không chỉ có thể mà còn mong muốn, nghiên cứu hành vi tương tác bằng các kỹ thuật toàn diện của ngôn ngữ học và động học cơ thể. Những lợi thế của việc làm việc với các bối cảnh tự nhiên dường như cũng được chứng minh bằng nỗ lực tận tâm và phối hợp này.

Trong quá trình điều tra, các kỹ thuật đã được phát triển để giảm thời gian ghi âm và phân tích (khi làm việc với những người nói tiếng Anh Mỹ) từ khoảng 100 giờ mỗi người xuống dưới một giờ mỗi người. Do sự phong phú của dữ liệu với khoảng 10 người (được tách biệt để nghiên cứu, nhưng luôn quay trở lại ngữ cảnh để phân tích so sánh), các phương pháp này, cung cấp cho chúng tôi dữ liệu với tốc độ một giờ điều tra trên hành vi mỗi người, dường như đủ hiệu quả để sử dụng trong nghiên cứu lớn hơn. Tuy nhiên, phương pháp ngôn ngữ-động học được công nhận là một công cụ thô sơ và sơ khai. Tất cả các đồng nghiệp đều đồng ý rằng nó cần cải tiến và quan trọng hơn, nó cần thử nghiệm. Phương pháp này chỉ có thể được thử nghiệm bởi các nhà khoa học được đào tạo để kiểm soát và dữ liệu thu được được thiết kế để điều tra.

Công trình của tác giả Albert Scheflen và Jacques Van Vlack đã được hỗ trợ trong các nghiên cứu tại Viện Tâm thần Đông Pennsylvania. Các kế hoạch làm việc ban đầu được phát triển bởi Ủy ban liên ngành về văn hóa và truyền thông tại Đại học Louisville và được định hình tại Đại học Buffalo dường như chỉ cần một phần cứng nghe nhìn đầy đủ và đáng tin cậy hơn để có thể thành hiện thực. Henry Brosin đã thành công trong việc tuyển dụng một đơn vị tại Viện và Phòng khám Tâm thần Tây Pennsylvania. Norman A. McQuown và các sinh viên của ông đã tham gia vào các nhiệm vụ đòi hỏi và tẻ nhạt là kiểm tra lại và tinh chỉnh các hồ sơ đã thu thập trước đó (1956) tại Trung tâm Nghiên cứu Cao cấp về Khoa học Hành vi.

Những ảnh hưởng quyết định đến từ cuộc nghiên cứu của Eliot Chapple, Edward T. Hall và Roger Barker. Logic của cấu trúc trong phong cách tương tác, như được chứng minh qua sơ đồ thời gian tương tác của Chapple, trong khi hướng đến dữ liệu rất khác với dữ liệu của chúng tôi, đã hỗ trợ chúng tôi tin chắc rằng bất kể “ý nghĩa” là gì, nó không chỉ đơn thuần là cách hiểu thông thường được đóng gói thành lời. Những quan sát xuyên suốt của Edward T. Hall về các quan niệm khác nhau về không gian và về sự sắp xếp không gian- thời gian của con người đã cung cấp một kích thích bền bỉ cho nỗ lực của chúng tôi để hiểu được các sắp xếp không gian xã hội nhiều người trong các mối quan hệ hành vi. Về không gian giao tiếp/ proxemics, Hall đã đi tiên phong trong các hướng nghiên cứu đã kích thích một số sinh viên có nhận thức và cùng với công trình của Robert Sommers và Roger Barker, ông đã đặt nền móng cho những quan sát về tương tác xã hội đang ảnh hưởng mạnh mẽ đến những người trẻ tuổi, để nhận ra sự chưa hoàn thiện nghiên cứu về trao đổi từ ngữ, như là các biện pháp của tương tác xã hội.

Ảnh hưởng lâu dài đến từ Erving Goffman, người có những đóng góp trong phân tích xã hội học về hoạt động tương tác, từ Sự trình bày bản thân trong cuộc sống hàng ngày, thông qua Asylum to Encounters, đã chỉ ra cấu trúc của bối cảnh trong đó, hoặc bằng cách, con người thường xuyên tương tác với sự có ý nghĩa. Tầm quan trọng, ít nhất là thách thức của Goffman, đối với các nhà điều tra ngôn ngữ-động học, là để nhận ra sự gián đoạn tồn tại giữa các đơn vị ngôn ngữ-động học và những đơn vị cần thiết để điều tra các tình huống xã hội mà ông đã cô lập.

Vẫn còn một khía cạnh khác của môi trường nghiên cứu được cung cấp bởi một loạt học giả, những người đã tìm cách kiểm tra các lát cắt được lựa chọn và quản lý của dòng tương tác. R. E. Pittenger và J. J. Danehy đã cùng với Hockett cung cấp một phân tích mạnh mẽ và mở rộng về một luồng bài phát biểu được cắt ra từ một cuộc thăm khám tâm thần. G. F. Mahl và A. T. Dittmann, với các quy trình khác nhau, đã chọn các đoạn chuyển động của cơ thể và của hành vi ngôn ngữ và coi chúng như các đơn vị đã được học tập. Kết quả của họ đã khiến chúng tôi cảm thấy hài lòng, vì dữ liệu của họ được hỗ trợ, theo kiểu phủ định, quan điểm của chúng tôi rằng giao tiếp là đa kênh và các hình dạng giao tiếp không chỉ được tìm thấy trong các tiểu đơn vị của phi ngôn ngữ hoặc cử chỉ ngoài việc được phát hiện bằng từ ngữ. Mặc dù công việc của Paul Ekman phát triển hơi muộn hơn những công việc này, nhưng nó cũng khẳng định quyết định của chúng tôi trong việc tìm kiếm các đơn vị dựa trên phân tích ngôn ngữ và động học.

Như sẽ được trình bày trong suốt tập này, lý thuyết và nghiên cứu của nhà ngôn ngữ học cấu trúc đã cung cấp yếu tố quyết định cơ bản bên ngoài của các kỹ thuật nghiên cứu động học. Tuy nhiên, nghiên cứu viên đã mô tả động học là “giả ngôn ngữ học”, đã bị nhầm lẫn bởi các quy ước danh pháp của động học, vốn điều chỉnh là các hình thức ngôn ngữ, cho nghiên cứu động học, nhằm tạo điều kiện thuận lợi và triển khai nghiên cứu liên ngành. Các kỹ thuật nghiên cứu (đặc biệt là những kỹ thuật này đã được sử dụng bởi các nhà ngôn ngữ học, nhân chủng học) như là những mô hình khuyến khích quy định cần thiết cho việc phân tích các đơn vị và cấu trúc dưới giao tiếp. Mục tiêu của tôi là phát triển một phương pháp luận có thể phân tích toàn diện hành vi giao tiếp của cơ thể, khi đối mặt sự khăng khăng của nhà ngôn ngữ học lúc kiểm tra dữ liệu của mình, theo cách khác, thì dường như đơn vị và thành phần cấu trúc là một quy tắc cần thiết và tối thiểu của quy trình nghiên cứu. Cuối cùng, đối với tôi, các nhà phương pháp ngôn ngữ học đã chứng minh tốt hơn bất kỳ nhà khoa học hành vi nào khác, một kỹ thuật cho phép mô tả và phân tích cấu trúc, đồng thời tránh các giải thích tâm lý và xã hội học quá sớm (tiên nghiệm hoặc hậu kỳ) về các sự kiện mà thực tế có thể thao tác được trong cấu trúc ngôn ngữ .

Đây là một cách nói mang tính học thuật và có lẽ không cần thiết khi nói rằng quá trình nghiên cứu động học đã bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi các nhà khoa học ngôn ngữ nhạy cảm, cứng rắn, kỷ luật và dường như không mệt mỏi mà tôi từng kết giao. Tôi học được từ John Broderius, người đầu tiên buộc tôi phải đối mặt với những tạo tác của việc giải thích sớm hành vi tín hiệu. Henry Lee Smith, Jr. và George L. Trager đã nuôi dưỡng việc viết phần Giới thiệu về Động học và sau đó đã dạy tôi đủ về ngôn ngữ học để giúp tôi vượt qua phân tích phi ngôn ngữ. Norman A. McQuown, người có óc phân tích nhạy bén và năng lực làm việc cần mẫn và sáng tạo đã liên tục hướng dẫn nỗ lực liên hệ giữa tài liệu ngôn ngữ và động học, và William Austin, người đã làm việc kiên nhẫn với Sheflen và bản thân tôi trong một năm, đã giúp loại bỏ nhiều khái niệm ngôn ngữ mà chúng tôi đã chấp nhận quá mức. Tôi phải kể đến Kenneth Pike, người, như tôi viết, nhẹ nhàng nhưng kiên quyết buộc tôi phải chú ý đến cao độ ngữ âm – một vấn đề mà tôi muốn tránh, nhưng điều này, như anh ấy đã chỉ ra, có thể chứa một số bí mật của ngôn ngữ -sự phụ thuộc lẫn nhau về kỹ thuật-ít nhất là đối với tiếng Anh Mỹ. Và cuối cùng, Fred Eggan và Margaret Mead, theo những cách rất khác nhau, đã giúp tôi rời khỏi thế giới chính thống của cấu trúc xã hội để khám phá hành vi mà không có cảm giác rằng tôi đang rời bỏ ngành nhân chủng học, và không sợ rằng tôi sẽ mất đi nội dung chương trình trong ngành của mình.

Tất cả những điều này, trong số nhiều tác phẩm khác, đã định hình nên những ý tưởng ban đầu dẫn tôi đến những tác phẩm này. Tuy nhiên, cuốn sách sẽ không xuất hiện nếu nó không được Erving Goffman dự tính và đưa vào danh sách của Barton Jones. Jones, một người tốt nghiệp chuyên ngành ngôn ngữ học, đã tìm kiếm các bài viết của tôi và thu thập những gì anh ấy cảm thấy là quan trọng. Anh ấy là một trong những nghiên cứu viên mà tôi đã học.

Tài liệu trong cuốn sách này có nguồn gốc từ nhiều nghiên cứu khác nhau được thực hiện dưới sự tài trợ tương ứng của Đại học Louisville, Đại học Buffalo, Trung tâm Nghiên cứu Cao cấp về Khoa học Hành vi với sự hỗ trợ từ Giải thưởng Học bổng Nghiên cứu của Viện Tâm thần Quốc gia. Sức khỏe, và Khối thịnh vượng chung của Viện Tâm thần Đông Pennsylvania của Pennsylvania.

Ngày 13/6/2021

Hôm nay mình có 2 nội dung bình luận.

https://vnexpress.net/5-dai-hoc-dao-tao-nganh-tam-ly-tot-nhat-my-4289910.html

Với bài này, bạn đọc có thể tham khảo để hiểu hơn về học gì trong tâm lý học. Vối những nội dung được Đại học Stanford giới thiệu, bạn đọc có thể thấy sự giao thoa của Tâm lý học với Xã hội học. Với nội dung được Đại học Princeton giới thiệu, bạn sẽ càng chắc hơn về sự giao thoa trên, và sự giao thoa với triết học. Nhân thể, tuần vừa qua mình đang phải nghiên cứu một nội dung mà có liên quan giữa tâm lý học nhận thức, tâm lý học phát triển, triết học, ngôn ngữ học. Mình chưa thể viết về chủ đề này ngay, vì còn phải nghiên cứu kĩ đã, nhất là khía cạnh triết học của nó. Tâm lý học hiện đại cũng nghiên cứu về các tiến trình tâm trí, nhưng nó không dùng phương pháp nghiên cứu nội quan chủ quan như phân tâm học. Vì vậy, việc tiếp cận các tiến trình này đã bắt đầu từ triết học, ngôn ngữ học và tâm lý học phát triển, với sự đi đầu của Jean Will Fritz Piaget. Đại học Princeton còn có lời giới thiệu hấp dẫn về tâm lý học thần kinh/ tâm lý học sinh học/ hay khoa học về não bộ. Hi vọng các bạn trẻ VN thích thú đi vào ngành học này.

https://vnexpress.net/thao-chay-khoi-farmstay-4293247.html

Bài này không viết cho ngành y, nhưng có nhiều bác sĩ cũng có mong muốn làm các phòng khám tại cộng đồng- thì cũng tương tự thế này. Vì vậy, các bài học rút ra từ đây cũng rất bổ ích cho bác sĩ. Chúng ta ở một nước nông nghiệp, nhưng rõ ràng, không thể trông đợi vào các mô hình làm nông nghiệp cổ xưa. Ngoài ra, chúng ta lại có thông tin bị bóp méo do các góc nhìn du lịch, marketing, chứ không phải từ người trong cuộc. Chăm sóc sức khỏe tại cộng đồng, mô hình của các phòng khám, cũng vậy. Phần lớn các bác sĩ, giảng viên đều hành nghề tại bệnh viện, giảng bài cũng ở bệnh viện. Nên việc hình dung các công việc tại phòng khám gần như không có trong suốt quá trình học tập, một khiếm khuyết lớn trong đào tạo y khoa.