Khi giao tiếp được xem xét như là một hành vi

Trong nhiều năm, tôi nhận được rất nhiều lời chê bai về khả năng giao tiếp của bản thân.

Có lẽ vì thế, tôi không ngừng đi tìm kiếm một sự nhận thức khoa học về vấn đề này. Con đường đi như vậy vấp phải nhiều lực cản. Đầu tiên, có vẻ như rất ngớ ngẩn khi đi tìm kiếm câu trả lời khoa học. ‘Ồ, đó là kĩ năng sống!’. ‘Khoa học chẳng liên quan!’. Và một câu hay được trích dẫn “Lý thuyết chỉ có một màu xám xịt, chỉ cây đời là mãi xanh tươi” (nói đến câu này, tôi luôn mường tượng nó với giọng của thày Trần Hữu Bình- thực sự thì thày luôn mang lại lại cho tôi cảm giác nồng nhiệt với cuộc sống, một trong số ít những người thày có ấn tượng với tôi từ khi còn là sinh viên Y khoa, đến sau này, khi là học viên sau Đại học). Thứ hai, thật sự thì sau rất nhiều vấp váp trong đời, cho đến giờ phút này, những người bạn vẫn còn đồng hành với tôi vẫn làm tôi hài lòng với giao tiếp của chính mình. Nghĩa là sự hài lòng với bản thân có thể đã làm chặng đường tìm kiếm chân lý của tôi kéo dài ra. Và cuối cùng, vẫn là câu trả lời mà bản thân mong muốn, thật khó tìm. Từ chỗ, chẳng có tài liệu gì viết về ‘cái thứ giao tiếp’. Sau đó, là sự ra đời và ảnh hưởng mạnh mẽ của các sách ‘self-helf’, sự phát triển ồ ạt của những hướng dẫn bán hàng và làm giàu nhanh chóng, rồi đến cả những scandal trong ngành y, liên quan đến giao tiếp thày thuốc bệnh nhân- nhưng đã được xử lý một cách hời hợt, nông cạn, làm cho giao tiếp luôn trở thành chủ đề phụ và chỉ nhằm cố gắng làm thỏa mãn người khác. Việc không thỏa mãn người khác, rồi bị chỉ trích, (mà không phải chỉ trích cái mà họ không thỏa mãn, họ chỉ trích giao tiếp của ta), hóa ra không phải nỗi khổ của riêng mình. Đã có câu hỏi đặt ra cho tôi: “Cô ơi, em phải đọc sách nào để làm hài lòng các bệnh nhân?”

Năm 2015 tôi tiếp cận với “Tâm lý Y học” mà thày Nguyễn Sinh Phúc là chủ biên, và cảm thấy đây là một trong tài liệu đầu tiên viết khá bài bản về vấn đề giao tiếp, trong bối cảnh một hệ thống kiến thức tâm lý học. Tuy nhiên, tôi vẫn chưa thấy hài lòng với với các các nội dung nó mang lại. Trong một thời gian dài, tôi không thể phân tích thấu đáo, tại sao mình thấy như thế. Cũng có dịp thày Phúc nói với tôi là, giảng viên của ĐHY Hà Nội, đơn vị chủ trì của tài liệu này cùng với Bộ Y tế, chỉ có khả năng giảng như vậy, nên cho dù thày mong muốn nó có nội dung cập nhật hơn, cũng không được. Rồi sau đó, tôi tiếp cận với “Bài giảng Kĩ năng y khoa” mà tôi khá thất vọng với phần kĩ năng giao tiếp của nó. Đành dùng vậy, vì chưa tìm được nội dung thay thế tốt hơn.

Năm 2017, tôi tiếp cận với loạt bài giảng “Giao tiếp trong suốt cuộc đời” của giảng viên Hoàng Văn Quyên và Simone Maffescioni (trong chương trình Ngôn ngữ trị liệu Nhi 10 tháng của ĐHY Phạm Ngọc Thạch). Đây là một góc tiếp cận mới, khác biệt và quan trọng, hướng cho tôi trong việc tìm kiếm tri thức về giao tiếp một cách khoa học hơn. Nhưng tại lúc học đó, thú thật, tôi cũng chả hiểu gì cả. Các kiến thức thì thú vị, nhưng rời rạc, có vẻ không đồng nhất, do nó không phân biệt được những nguyên lý tâm lý và sinh lý, thậm chí các yếu tố sẽ là bệnh lý, trong những nội dung đó. Tôi vẫn không sao phân tích được sự rối rắm trong đó.

Năm 2019 tôi bắt đầu tiếp cận được với trường phái Tâm lý học nhận thức, đi sâu vào nội dung này trong ‘mùa covid thứ nhất’, và ngay lập tức nhận ra mô hình lý thuyết có thể giải thích được một cách hệ thống các hiểu biết của bản thân, với tư cách là một bác sĩ với 2 chuyên ngành, một chuyên viên vật lý trị liệu, một giảng viên. Nội dung cuốn Sức khỏe Tâm thần cho sinh viên năm 3 năm học 2020-2021, tham khảo chủ yếu từ cuốn Tâm lý học căn bản của Robert S. Fielman, với bản dịch của Minh Đức và Hồ Kim Chung, Nhà xuất bản văn hóa- thông tin 2004, làm tôi cảm thấy rất hài lòng. Tuy nhiên, phản hồi với cuốn sách thì chưa tốt. Đối với một số người đọc, quả thật, tôi trông đợi họ một phản hồi khoa học, vì họ có vẻ là ‘khoa học’, thì lại nhận được ‘chả hiểu gì cả’, hoặc im lặng, hoặc tồi tệ hơn cả là chưng ra cho tôi một mớ tư liệu, kiểu mà tôi đã bỏ qua từ lâu, vì nó không giải đáp được các thắc mắc của bản thân, và cả vì nó vẫn chạy theo khuynh hướng coi giao tiếp là sự làm hài lòng người khác. Tôi lại tự kiểm điểm một cách nghiêm túc xem liệu mình sai ở đâu. Tâm lý học nhận thức của Fielman không nói trực tiếp về Giao tiếp, nhưng đã đề cập đến Ngôn ngữ như là một chức năng nhận thức. Mà khi xem xét trị liệu Ngôn ngữ thì khái niệm Ngôn ngữ và Giao tiếp đã bị lồng với với nhau.

Cho tới khi tôi tiếp cận với tài liệu Lịch sử Động kinh của Simon Shorvon, 2016 (đã trích dịch trên blog này), tôi rất thích thú với phát hiện của tác giả về quan điểm của John Hughlings Jackson, khi xem xét hệ thống khái niệm và phân loại đương thời về Động kinh (lúc đó là cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20), với góc nhìn của ‘nhà thực vật học và người làm vườn’. Một hình ảnh mà ngay lập tức đã làm tôi hiểu rõ ràng vướng mắc mình đang gặp phải, cũng như giải thoát bản thân khỏi cảm giác thất bại khi những kiến thức mình đang cập nhật bị các phản hồi âm tính như vậy. Rõ ràng, nếu ai đó chỉ muốn làm vườn, trong ngắn hạn, hoặc làm vườn dài hạn, đã tìm tòi trong kho tri thức thực vật học mà chưa thấy nội dung mình mong muốn, thì cứ làm “người làm vườn’. Các nhà thực vật học sẽ muốn kết bạn và cùng tìm hiểu với kiểu người làm vườn sau, nhưng không phải kiểu người làm vườn trước. Nhưng làm ơn, đừng phát biểu cái câu “Lý thuyết chỉ có một màu xám xịt, chỉ cây đời là mãi xanh tươi” với nhà thực vật học thực sự! Không có nhà thực vật học thực thụ nào làm việc với ‘lý thuyết’ và ‘cây đời’ tách biệt nhau cả. Và nếu chúng ta chỉ phát triển những nhà làm vườn giỏi, rất tốt thôi vì ra sản phẩm ngay, thì nền khoa học thực vật học đi về đâu, và khi các nhà làm vườn gặp khó với loại sâu bệnh mới, đòi hỏi mới về chất lượng và hình thức sản phẩm… thì sao đây. Còn dĩ nhiên, các nhà thực vật học mà chỉ chăm chăm phát triển các ý tưởng ‘trên giời’ thì không được xem xét ở đây.

Quay trở lại chủ đề giao tiếp, tôi đã giới thiệu một nội dung của Kory Floyd, mô tả góc nhìn của ông về giao tiếp. Ít nhất nội dung này đã ‘thực vật học’ hơn, với một nội dung khoa học ở cấp độ tiến sĩ. Ở đây tôi bắt đầu nhận ra khía cạnh hành vi và khía cạnh tương tác của nội hàm trong từ giao tiếp. Khá tốt rồi! Nhưng e là chưa đủ. Sau bài mở đầu, tài liệu của Kory Floyd chưa làm tôi thỏa mãn, nên tôi đang dừng lại, chưa dịch tiếp.

Vì vậy tôi xin giới thiệu một tác phẩm khác, có thể sẽ thỏa mãn sự tìm tòi khoa học. Tất cả còn đang ở phía trước vì tôi vẫn còn đang đọc cuốn sách này.

John M. Wiemann, từ Đại học California, Santa Barbara, giới thiệu cuốn sách Sổ tay Kỹ năng Giao tiếp và Tương tác Xã hội của John O. Greene và Brant R. Burleson. Ấn bản này được xuất bản trong Thư viện điện tử Taylor & Francis, 2008.

Người đọc cuốn sách này gần như chắc chắn đồng ý rằng nhiều hoạt động quan trọng nhất mà chúng ta tham gia là giao tiếp. Khả năng tạo ra và duy trì thế giới xã hội của chúng ta phụ thuộc rất nhiều vào cách chúng ta giao tiếp. Các kỹ năng xã hội của mọi người rất quan trọng đối với hạnh phúc của họ — cá nhân và tập thể. Không thể nói quá tầm quan trọng của việc hiểu được cách ứng xử khéo léo trong mọi sự phức tạp của nó.

Cuốn Sổ tay này là một cột mốc quan trọng trong việc nghiên cứu các kỹ năng giao tiếp. Xét về chiều sâu và bề rộng, đây là một công trình đáng chú ý, vừa ghi chép lại lĩnh vực này vừa cung cấp một khuôn khổ cho thế hệ lý thuyết và nghiên cứu tiếp theo. Khi đã đạt đến một cột mốc quan trọng như vậy, việc bắt đầu lại hành trình cho đến nay sẽ rất hữu ích.

Lịch sử của ngành giao tiếp (được hiểu theo nghĩa rộng) là câu chuyện về xác định, điều tra và dạy các kỹ năng xã hội. Kỹ năng giao tiếp cũng có một khía cạnh đạo đức ở chỗ chúng có thể được sử dụng cho mục đích tốt hay xấu; kẻ bắt nạt ở sân chơi và kẻ phá hoại chính trị có thể sử dụng một số kỹ năng giao tiếp nhất định để hoàn thành mục tiêu của họ và thúc đẩy người khác hành động thay cho họ, nhưng mang lại kết quả xấu. Tuy nhiên, gốc rễ của sự hiểu biết và giảng dạy các kỹ năng xã hội chủ yếu là phục vụ phúc lợi công cộng. Việc giảng dạy hùng biện sớm nhất được thúc đẩy bởi nhu cầu công dân có đủ năng lực để tham gia vào quản trị dân chủ (và thậm chí ngày nay, sự tham gia của địa phương, quốc gia và quốc tế đòi hỏi công dân học cách nói chuyện hiệu quả với người khác).

Tất nhiên, theo thời gian, sự hiểu biết của chúng ta về ý nghĩa của việc trở thành một thành viên có kỹ năng xã hội đã được mở rộng. Mọi người không chỉ cần thực hiện các bài phát biểu trước công chúng một cách hiệu quả, họ còn cần quản lý các diễn ngôn xã hội và thân mật, cũng như sử dụng và phản hồi với các công nghệ khác nhau. Hơn nữa, chúng tôi đã nhận ra rằng người lớn không phải là những người duy nhất cần các kỹ năng xã hội; trẻ em cũng cần có một loạt các kỹ năng xã hội tinh vi để tương tác hiệu quả trong gia đình, nhóm đồng trang lứa và trường học. Nhận thức được điều này, Hiệp hội Truyền thông Quốc gia đã dành nguồn lực cho việc đánh giá và phát triển kỹ năng giao tiếp ở trẻ em từ mẫu giáo đến trung học phổ thông. Trên thực tế, các mối quan tâm về sư phạm và việc mở rộng các chương trình giảng dạy về giao tiếp vào lĩnh vực giao tiếp giữa các cá nhân là một trong những yếu tố gây ra sự quan tâm đến năng lực giao tiếp vào cuối những năm 1960 và đầu những năm 1970.

Nghiên cứu kiểm tra các kỹ năng giao tiếp và xã hội cũng mở rộng sang các phương tiện truyền thông đại chúng. Các nhà nghiên cứu truyền thông từ lâu đã quan tâm đến các chiến lược để cung cấp thông tin hiệu quả cho mọi người và thay đổi thái độ và hành vi thông qua các bản tin, quảng cáo, chiến dịch thông tin công cộng và phim tài liệu. Ngày nay, mối quan tâm này mở rộng sang “phương tiện truyền thông mới”, ví dụ, trong các lĩnh vực như thiết kế các trang web cung cấp thông tin và thuyết phục hiệu quả.

Nghiên cứu về giao tiếp giữa các cá nhân thường hướng đến việc tìm hiểu cơ bản về cách thức giao tiếp được sử dụng trong việc hình thành các mối quan hệ và làm cho họ hạnh phúc hơn. Tôi đặt ra mối quan tâm hàng thế kỷ này với mối quan tâm chung là một trong những đặc điểm cơ bản của nghiên cứu về giao tiếp. Đó là một trong những lý do khiến việc tập trung vào những gì mọi người thực sự làm là rất quan trọng.

Để chắc chắn, trọng tâm của điều tra trong nghiên cứu truyền thông đã trải qua những thay đổi qua nhiều chu kỳ. Có lúc, bản thân các ‘hành vi khéo léo’ đã là trọng tâm hàng đầu của nguyên lý [ôi sao tôi ghét cái trọng tâm này thế, nó khiến tôi bị chỉ trích và bị đẩy khỏi các nội dung đào tạo giao tiếp, dành sân chơi này cho những tay ‘làm vườn ngắn hạn’, thậm chí có những thời gian tôi căm ghét cái từ khéo léo này]. Vào những lúc khác, người ta chú trọng nhiều hơn đến các quá trình nhận thức và tâm lý xã hội giả định làm nền tảng cho những hành vi này. Mặc dù các phương pháp tiếp cận nhấn mạnh đến các khía cạnh hành vi của kỹ năng xã hội không phải lúc nào cũng chiếm ưu thế trong bối cảnh nghiên cứu, các học giả vẫn tiếp tục nhận định rằng mối quan tâm đối với hành vi có kỹ năng là cần thiết cho sự tiến bộ trong hiểu biết của họ về giao tiếp ở mọi cấp độ phân tích. Công việc dựa trên kỹ năng vẫn là trọng tâm của các học giả truyền thông, một công việc có tiềm năng tích hợp nhiều quan điểm khác nhau vì nó đòi hỏi sự tập trung vào những gì mọi người làm trong cuộc sống thực. Thông qua nghiên cứu như vậy, chúng ta đã hiểu được tất cả các quá trình tâm lý, nhận thức và cảm xúc đều đóng góp vào hành vi giao tiếp như thế nào. Chúng tôi đã đạt được tiến bộ vượt bậc trong việc chỉ ra cách thức thực hiện, động lực và mục tiêu của mọi người thông qua tương tác xã hội.

Việc tích hợp các phương pháp tiếp cận hành vi và tâm lý (hiểu theo nghĩa rộng) đã và đang tiếp tục là một trong những thách thức lớn nhất trong việc nghiên cứu các kỹ năng giao tiếp và tương tác xã hội. Vào những năm 1950 và 1960, khi các học giả trong nhiều lĩnh vực khác nhau (ví dụ, xã hội học, tâm lý học xã hội và xã hội học, cũng như giao tiếp) phát triển mối quan tâm mới đối với các kỹ năng xã hội, cuộc tấn công từ nhiều phía vào vấn đề này cuối cùng đã dẫn đến những tiến bộ đáng kể. Không có gì ngạc nhiên khi việc trung thành với cách tiếp cận của riêng một người đôi khi cản trở việc tích hợp công việc này. Một trở ngại khác, thú vị hơn đối với hội nhập là “vấn đề về bối cảnh”. Hành vi được đặt trong bối cảnh và nghiên cứu về hành vi và các quá trình tâm lý đi kèm với nó cũng vậy. Vấn đề của bối cảnh là làm thế nào để vượt qua nó mà không làm mất đi sự phong phú của thông tin mà bối cảnh cung cấp cho cả các tác nhân được nghiên cứu và học giả đang thực hiện nghiên cứu.

Vào giữa những năm 1970, những nỗ lực của tôi (ví dụ, Wiemann, 1977) để tích hợp công việc của các quan điểm nguyên lý khác nhau và đối phó với những gì tôi thấy là vấn đề của ngữ cảnh đã khiến tôi liên kết hành vi được ngữ cảnh hóa với các chức năng xuyên ngữ cảnh (kiểm soát, liên kết và tác vụ). Bằng cách đó, tôi hy vọng rằng một lý thuyết về năng lực giao tiếp có thể được phát triển mạnh mẽ, nhưng vẫn có thể được sử dụng để hiểu hành vi giao tiếp trong một tình huống cụ thể. Khi công việc trong lĩnh vực này tiến triển vượt ra ngoài sự phân biệt đơn giản giữa hành vi “có kỹ năng” và “không có kỹ năng”, tầm quan trọng của các mục tiêu, chiến lược và động cơ cá nhân và cá nhân để đạt được những mục tiêu này, lập kế hoạch thường xuyên, cảm xúc và khả năng nhận thức trở nên rõ ràng. Nó cũng trở nên rõ ràng rằng, những kết luận quy kết về kỹ năng nào “hiệu quả” hoặc kỹ năng nào “tốt”, được khuyến khích bởi những mối quan tâm sư phạm, thúc đẩy phần lớn công việc trong ngành học vào thời điểm đó, sẽ không hữu ích lắm.

Mỗi bước tiến trong nghiên cứu đòi hỏi một vòng nghiên cứu lý thuyết tích hợp mới, đến lượt nó, đã thúc đẩy một làn sóng điều tra thực nghiệm mới. Những tiến bộ này đòi hỏi các học giả phải gạt lòng trung thành về nguyên lý và phương pháp của riêng họ (một động thái mà tôi biết từ kinh nghiệm cá nhân, đôi khi, rất khó để thực hiện!) để tận dụng kiến ​​thức đã được xây dựng ra.

Cùng với đó, chúng ta đã trở nên tinh vi hơn về ý nghĩa của việc trở thành người có năng lực hoặc kỹ năng. Việc chuyển từ tập trung vào các cá nhân sang các mối quan hệ là rất quan trọng bởi vì qua đó, chúng tôi học được rằng số lượng tuyệt đối các “kỹ năng” (khả năng của một cá nhân để tạo ra các hành vi thói quen mong muốn) không cần thiết – tôi chỉ dự đoán hạnh phúc, thành công, hiệu quả – mà là, các mối quan hệ có thẩm quyền. Một số học giả (xem Cupach & Spitzberg, 1994) bắt đầu xem xét cách các nhà giao tiếp lành nghề có thể cố tình tạo ra những kết quả rất tiêu cực cho đối tác của họ. Ví dụ: duy trì “mối quan hệ thù địch” mà không xua đuổi người kia, đòi hỏi rất nhiều kỹ năng. Mối quan hệ như vậy thậm chí có thể được gọi là “đúng đắn” (mặc dù theo cách tệ hại) nếu cả hai đối tác đều đạt được mục tiêu của họ. Không có vấn đề ‘phá hoại’ được đặt ra trong tình huống như vậy.

Tôi rất vui khi thấy rằng công việc nằm bên dưới các tiêu chuẩn về đánh giá năng lực giao tiếp, tương tác xã hội, kỹ năng xã hội và những thứ tương tự đã tiếp tục thịnh vượng. Lý thuyết chuyên sâu mà tôi đang tìm kiếm vẫn chưa được phát triển đầy đủ, nhưng như cuốn sách này chỉ ra, chúng ta đang tiến gần hơn đến việc đạt được mục tiêu đó.

Như các chương khác nhau trong Sổ tay này đã chứng minh, có nhiều cách hữu ích để tiếp cận các kỹ năng giao tiếp và tương tác xã hội. Sự tập hợp các quan điểm khác nhau này lại ở một nơi nhấn mạnh sức mạnh của công việc tập thể của kỷ luật theo thời gian. Nó cũng khuyến khích sự kết hợp và tổng hợp mới của những cách tiếp cận này. Các khả năng tổng hợp là kịp thời. Sự khác biệt giữa những gì mà một số người gọi là “mức độ phân tích” của giao tiếp (giữa các cá nhân, khối lượng, tổ chức, v.v.) trở nên ít có ý nghĩa hơn khi các công nghệ mới, toàn cầu hóa và thậm chí sự hiểu biết của chúng ta về các quá trình giao tiếp đòi hỏi lý thuyết và nghiên cứu mang tính tích hợp – tìm kiếm nhận ra rằng những cách suy nghĩ truyền thống trong học thuật hiện không còn nắm bắt được sự phức tạp trong trải nghiệm của chúng ta.

Vì Sổ tay này trình bày nhiều khía cạnh của các kỹ năng xã hội, nên nó cũng sẽ đóng vai trò là bàn đạp cho việc nghiên cứu và phát triển lý thuyết trong tương lai. Ví dụ, nghiên cứu hiện tại về việc sử dụng các công nghệ truyền thông mới có thể được hưởng lợi từ trí tuệ chung của cuốn sách này. Ngày nay, các phương pháp tiếp cận theo hướng mô tả đối với giao tiếp sử dụng công nghệ có thể tích hợp hơn, và khá nhạy cảm với các ứng dụng phụ thuộc vào ngữ cảnh của các kỹ năng xã hội trong các tình huống được dàn xếp để truyền thông.

Rất nhiều học giả đóng góp cho Sổ tay này. Chúng đại diện cho nhiều quan điểm đã phát triển trong nghiên cứu kỹ năng xã hội, và chúng tổng hợp nhiều thập kỷ nghiên cứu về việc đạt được và thực hiện kỹ năng xã hội trong các mối quan hệ và nhiều bối cảnh khác nhau. Công việc này cung cấp nền tảng để hiểu các mối quan hệ hiện tại và tạo tiền đề cho những tiến bộ trong tương lai trong nghiên cứu kỹ năng xã hội, khi chúng ta liên tục tìm kiếm những cách tốt hơn để tạo ra và duy trì thế giới xã hội của chúng ta.

Đăng bởi anhdo73

Hoạt động can thiệp đa ngành: Tâm lý lâm sàng, Tâm thần, Phục hồi chức năng, Y học cổ truyền

Bình luận về bài viết này