Các câu hỏi hay gặp trong chăm sóc sức khỏe tâm thần

1. Người tâm thần có thể trở lại làm việc không?

Sau một thời gian điều trị bằng thuốc và phục hồi chức năng, người bệnh tâm thần sẽ ổn định nhân cách và hành vi. Họ có thể trở lại làm việc với nghề cũ hoặc làm một việc nhẹ nhàng hơn và không gây căng thẳng thần kinh. Nhưng không nên làm ca đêm mất ngủ dễ làm cho bệnh tái phát.

2. Người bệnh tâm thần có thể trở lại với cuộc sống bình thường không?

Với sự giúp đỡ đúng cách, một số người bệnh tâm thần có thể sống một cuộc sống bình thường, các dấu hiệu hành vi bất thường giảm đáng kể. Tuy nhiên, một số người khác vẫn chịu ảnh hưởng suốt đời.

3.Tình trạng tâm thần có diễn tiến xấu đi không?

Có nhiều dạng bất thường về tâm thần, mỗi dạng bệnh có một cách tiến triển khác nhau, vì vậy khó có thể có câu trả lời chính xác.

(1) Một số trường hợp, bệnh xảy ra một lần và không bao giờ bị lại.

(2) Một số bệnh tâm thần không xấu đi mà t.nh trạng bệnh cứ như vậy suốt đời.

(3) Một số người bệnh, các hành vi bất thường biến mất sau một thời gian rồi sau đó lại tái phát.

(4) Một số khác t.nh trạng tâm thần ngày càng xấu đi, sức khoẻ giảm sút từng tháng.

4. Họ cần phải uống thuốc bao lâu?

Người khuyết tật tâm thần phải uống đủ thuốc, đủ liều, đủ thời gian, kéo dài 2 năm kể từ khi hết các triệu chứng tâm thần.

5. Họ có được quan hệ vợ chồng, lập gia đình không?

Sau khi đã điều trị ổn định, họ có quyền và hoàn toàn có khả năng quan hệ vợ chồng hoặc lập gia đình.

6. Con cái của họ có các biểu hiện tâm thần như thế không?

Tâm thần có yếu tố di truyền vì vậy con của họ có thể bị ảnh hưởng.

7. Các dịch vụ và các nơi có thể đến khám

– Các Bệnh viện có khoa Tâm thần hoặc các cơ sở Y tế khác được cấp phép.

– Bệnh viện tâm thần.

– Cán bộ PHCN trong chương trình PHCN dựa vào cộng đồng.

– Các chương trình quốc gia về tâm thần và bảo vệ sức khoẻ tâm thần.

– Cán sự xã hội phụ trách chương trình sức khoẻ tâm thần có thể tư vấn và vận động cộng đồng giúp đỡ người khuyết tật tâm thần.

Trích “Phục hồi chức năng người có bệnh tâm thần”- Bộ Y tế, 2008

Một lưu ý cho các nhà ngôn ngữ trị liệu về tri giác ngôn ngữ và vận động ngôn ngữ

Một phát hiện rất thú vị khác trong các thí nghiệm của chúng tôi là quan sát thấy một số neuron chỉ được kích hoạt bởi chuyển động của các nhà thực nghiệm trùng khớp với những neuron kích hoạt neuron khi được thực hiện bởi khỉ. Có các tài liệu báo cáo  rằng bệnh nhân mắc triệu chứng mất ý tưởng vận động/ ideomotor apraxia có thể gặp khó khăn (Heilman và cộng sự, 1982) trong việc nhận ra ý nghĩa của các cử chỉ do người khác thực hiện. Những phát hiện này được coi là bằng chứng cho thấy tri giác cử chỉ và vận động/praxia của các chi chia sẻ cùng một mạch vỏ não (Rothi và cộng sự, 1991). Tương tự, phát hiện rằng các mẫu âm thanh của lời nói tổng hợp phải được sửa đổi nếu một nhận thức ngữ âm bất biến được tạo ra trong các bối cảnh khác nhau đã khiến một số tác giả đề xuất rằng các đối tượng của tri giác lời nói không được tìm thấy trong âm thanh, mà trong các cử chỉ ngữ âm/phonetic gestures của người nói, được thể hiện trong não dưới dạng các lệnh vận động bất biến (xem Liberman và Mattingly, 1985). Mặc dù các quan sát của chúng tôi không có nghĩa là chứng minh các lý thuyết vận động của tri giác, tuy nhiên chúng chỉ ra rằng trong các khu vực vỏ não tiền vận động có các neuron được ban tặng các đặc tính mà các lý thuyết đó yêu cầu. Thật thú vị khi lưu ý rằng vị trí giải phẫu của khu vực dưới vùng 6, và đặc biệt là F5, tương ứng phần lớn với vị trí giải phẫu của vùng Broca trong não người (Freund, 1991).

Về cuốn “Cơ sở Ngôn ngữ học và Tiếng Việt”

LỜI NÓI ĐẦU CHO LẦN TÁI BẢN THỨ 9 

Ngay từ khi in lần đầu, giáo trình này đã được độc giả trong cả nước, nhất là giảng viên và sinh viên nhiều trường đại học đón nhận và sử dụng. Từ đó đến nay, giáo trình đã được tái bản tới 9 lần. Điều đó đủ nói lên tính hữu dụng của nó đối với đông đảo bạn đọc. 

Như tên gọi của cuốn sách, đây là giáo trình cơ sở về ngôn ngữ và tiếng Việt. Những kiến thức được đề cập đến ở đây, vì vậy tương đối đơn giản, dễ hiểu, mang tính “nhập môn” là chủ yếu. Giáo trình không đề cập đến những tranh luận khoa học phức tạp và những vấn đề mang tính chuyên sâu của từng chuyên ngành.

Đối tượng phục vụ của giáo trình là sinh viên các chuyên ngành Ngữ văn, Ngoại ngữ, Đông phương học, Quốc tế học,… thuộc các trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Đại học Sư phạm, Đại học Ngoại ngữ, v.v… 

Tập thể tác giả của giáo trình là Giáo sư và phó Giáo sư đã có nhiều năm giảng dạy ngôn ngữ học và Việt ngữ học tại Trường Đại học Khoa học xã hội và nhân văn Hà Nội (trước đây là Trường Đại học Tổng hợp Hà Nội). Trong giáo trình này, nội dung được biên soạn theo sự phân công như sau : 

Phần thứ nhất : Tổng luận

 Chương I, II : PGS. TS Vũ Đức Nghiệu và GS. TS Hoàng Trọng Phiến 

Chương III, IV : PGS. T S Vũ Đức Nghiệu 

Phần thứ hai: Cơ sở ngữ âm học và ngữ âm tiếng Việt GS. TS Mai Ngọc Chừ 

Phần thứ ba : Cơ sở từ vựng học và từ vựng tiếng Việt: PGS. TS Vũ Đức Nghiệu.

Hà Nội, mùa Xuân 2008 

Thay mặt các tác giả GS.TS Mai Ngọc Chừ 

QUY ƯỚC TRONG CÁCH TRÌNH BÀY 

1. Các chú thích ở cuối trang ứng với những chữ số ghi ở phía trên, đặt giữa hai ngoặc tròn, ví dụ : (1). 

2. Tài liệu dẫn trong sách được ghi bằng chữ số, đặt giữa hai ngoặc vuông, ví dụ : [15] – Chữ số này ứng với số được ghi ở mục Tài liệu tham khảo cuối mỗi phấn, ví dụ ở phần II (Cơ sở ngữ âm học và ngữ âm tiếng Việt) số [15] là tài liệu:  Đoàn Thiện Thuật. Ngữ âm tiếng Việt, H., 1980. 

3 Dấu ngoặc kép … “ được dùng để phiên âm các từ hoặc biểu thị các âm bằng chữ cái thông thường, ví dụ “a”, ”cam” ; dấu ngoặc vuông […] dùng ghi các âm tố, ví dụ [sistra] và dấu vạch chéo dùng ghi các âm vị, ví dụ /tan/. Kí hiệu đặt trong hai ngoặc vuông và trong hai vạch chéo là kí hiệu phiên âm quốc tế.

Phần thứ nhất 

TỒNG LUẬN

* * * 

• Bản chất xã hội của ngôn ngữ 

• Hệ thống tín hiệu ngôn ngữ 

• Nguồn gốc và diễn tiến của ngôn ngữ 

• Phân loại các ngôn ngữ

Chương I 

BẢN CHẤT XÃ HỘI CỦA NGÔN NGỮ 

Về mặt thời gian lịch sử, chắc hẳn ngôn ngữ của loài người phải cổ xưa hơn rất nhiều lần so với ngay cả những huyền thoai xưa cũ nhất. Nó gắn bó với sự sống cùa con người như đố ăn thức uống, như sự thở ra,  hít vào…; đến nỗi dường như không mấy khi mỗi người chúng ta nghĩ tới nó, nghĩ rằng có một cái gọi là ngôn ngữ tồn tại với mình. Nhưng rồi có lúc chúng ta tự hỏi: Ngôn ngữ là gì? Lời giải đáp cho câu hỏi đó không phải chỉ có một và không thể chỉ có một, bởi vì bản thân ngôn ngữ vốn là một đối tượng hết sức phức tạp và đa diện 

I. TRƯỚC HẾT, NGÔN NGỮ LÀ MỘT HIỆN TƯỢNG XÃ HỘI 

1. Nói rằng ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội là bời vì một sự thật hiển nhiên: nó không phải là hiện tượng tự nhiên (vốn là những hiện tượng tồn tại một cách khách quan, không lệ thuộc vào ý muốn chủ quan của con người) như sao băng, thủy triều, động đất… Ngôn ngữ chỉ sinh ra và phát triển trong xã hội loài người, do ý muốn và nhu cầu người ta phải giao tiếp với nhau trong quá trình sống và tồn tại, phát triển. Bên ngoài xã hội loài người, ngôn ngữ không thể phát sinh. Điều này được chứng minh qua hai câu chuyện sau đây. Chuyện thứ nhất: Theo nhà sử học Hê-Rô-Rốt, hoàng đế Zêlan Utđin Acba đã cho tiến hành một thí nghiệm để xem một đứa trẻ không cần ai dạy bảo, có thể biết được đạo của mình hay không, có biết nói tiếng nói của tổ tiên mình và gọi tên vị thần của dòng đạo mình hay không Ông ta đã cho bắt cóc một số trẻ sơ sinh thuộc nhiều dân tộc, nhiều tôn giáo, dòng đạo khác nhau, đem nuôi cách li hoàn toàn với xã hội trong một tháp kín; không ai được đến gần; cho ăn uống qua một đường dây. Mười hai năm sau, cửa tháp được mở. Những đứa trẻ vẫn lớn lên ; nhưng chúng có nhiều biểu hiện của thú hơn là người ; và không hề có biểu hiện nào về tiếng nói hoặc tín ngưỡng, tôn giáo cả. Chuyện thứ hai: Năm 1920, ở Ấn Độ, người ta phát hiện ra hai em bé gái được chó sói nuôi, sống trong một cái hang. Một em khoảng hai tuổi, một em khoảng bảy, tám tuổi. Sau khi được cứu trở về, em nhỏ bị chết ; em lớn sống được, nhưng chỉ có những tập tính của chó sói không có ngôn ngữ, chỉ biết gẩm gừ, bò bằng cả tứ chi, dựa trên hai bàn tay, hai bàn chân; thỉnh thoảng cất tiếng sủa như sói, về ban đêm… 

Sau gần bốn năm, em bé này mới học được 6 từ, và qua 7 năm được gần 50 từ. Đến 16 tuổi, em mới nói như một đứa trẻ 4 tuổi và không sống được nữa.

2 Ngôn ngữ cũng không phải là hiện tượng của cá nhân tôi, cá nhân anh; mà nó là của chúng ta. Chính vì nó là cái chung của xã hội, của chúng ta, cho nên anh nói tôi mới hiểu, và chúng ta hiểu nhau. Về mặt này, đối với mỗi cá nhân, ngôn ngữ như một thiết chế xã hội chặt chẽ, được giữ gìn và phát triển trong kinh nghiệm, trong truyền thống chung của cả cộng đồng. Thiết chế đó chính là một tập hợp của những thói quen nói, nghe và hiểu, được tiếp thu một cách dễ dàng và liên tục ngay từ thời thơ ấu của mỗi chúng ta. Vì thế, những thói quen này về sau rất khó thay đổi. Nó như là một cái gì đấy bắt buộc đối với mỗi người trong mọi người. 

Dẫu sao thì tiếng Việt cũng vẫn gọi con mèo, cái nhà, người mẹ… bằng các từ mèo, nhà, mẹ… Còn tiếng Anh thì gọi bằng các từ cat, house, mother… chứ không thể dễ dàng thay thế bằng từ khác hoặc đánh đổi cho nhau. 

Mặt khác, sự phân biệt giữa ngôn ngữ chuẩn, ngôn ngữ văn hóa chung của mỗi cộng đồng dân tộc với các biến dạng khác của nó trong các cộng đồng người nhỏ hơn, phân chia theo phạm vi lãnh thổ hoặc tầng lớp xã hội (gọi là những tiếng địa phương, phương ngữ xã hội) cũng chính là những biểu hiện sinh động, đa dạng về tính xã hội của ngôn ngữ. Ví dụ, từ lời lẽ của tiếng Việt chuẩn mực được phát âm thành nhời nhẽ, đó là cách phát âm của phương ngữ Bắc bộ Việt Nam. Trong khi đó, nếu phát âm thành nời nẽ thì đây lại là hiện tượng nói ngọng và bị coi là lỗi 

3. Ngôn ngữ cũng không phải là hiện tượng sinh vật vì nó không mang tính di truyền. Người ta có được ngôn ngữ là nhờ quá trình học tập, tiếp thu từ những người cùng sống ở xung quanh. 

Mặt khác, so với tiếng kêu của các loài động vật, ngôn ngữ loài người cũng khác hẳn về chất. Tiếng kêu đó, loài động vật có thể dùng để “trao đổi thông tin” như: kêu gọi bạn tình trong các mùa hôn phối, hay là báo tin có thức ăn, có sự nguy hiểm … nhưng tất cả đều vô tình xuất hiện dưới ảnh hưởng của những “cảm xúc” khác nhau. Chúng – những tiếng kêu đó – là bẩm sinh ; sự “trao đổi thông tin” là vô ý thức. Đó là những kết quả của quá trình di truyền chứ không giống nhau như kết quả của trẻ em học nói. 

Còn hiện tượng một số con vật học nói được tiếng người thi rõ ràng lại là kết quả của quá trình rèn luyện phản xạ có điều kiện. Những con vật “biết nói” đó dù thông minh đến mấy cũng không thể nào tự lĩnh hội được hoặc phát âm được những âm thanh để biểu thị khái niệm khi nó ở ngoài một hoàn cảnh cụ thể với một kích thích cụ thể 

4. Chẳng những ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội như đã phân tích bên trên ; mà hơn thế nữa, nó là một hiện tượng xã hội đặc biệt. Tính chất đặc biệt này thể hiện ở chỗ nó không thuộc về kiến trúc thượng tầng của riêng một xã hội nào; cho nên khi một cơ sở hạ tầng nào đó bị phá vỡ, kéo theo sự sụp đổ của kiến trúc thượng tầng tương ứng, thì nó (ngôn ngữ) vẫn là nó. Mặt khác ngôn ngữ không mang tính giai cấp. Nó ứng xử bình đẳng đối với tất cả mọi người trong xã hội. Tuy vậy, mỗi người, mỗi nhóm người, không vô can với nó mà họ sử dụng cho nó mục đích của mình, theo cách của mình sao cho có hiệu quả nhất

Huấn luyện trẻ sơ sinh đi vệ sinh: Bằng chứng khoa học

© 2006 – 2024 Gwen Dewar, Tiến sĩ

Được thực hành rộng rãi trong các nền văn hóa truyền thống, việc huấn luyện trẻ sơ sinh đi vệ sinh đang trở nên phổ biến hơn ở các nước phương Tây. Nhưng ưu và nhược điểm của việc huấn luyện sớm là gì? Bạn thực sự làm điều đó như thế nào? Và khoa học cho chúng ta biết gì về sự phát triển của khả năng kiểm soát bàng quang?

Nếu bạn lớn lên trong một nền văn hóa sử dụng tã lót, việc huấn luyện trẻ sơ sinh đi vệ sinh có vẻ không theo quy ước và kỳ lạ. Nhưng trong các xã hội truyền thống trên khắp thế giới — ở Châu Á, Châu Phi, Đông Âu, Châu Mỹ Latinh và Bắc Cực — việc huấn luyện trẻ sơ sinh là chuẩn mực.

Khi trẻ sơ sinh cần đi tiểu hoặc đại tiện, cha mẹ bế trẻ, để trần, trên một địa điểm ưa thích (như thùng đựng chất thải/ bô hoặc nhà vệ sinh ngoài trời). Cha mẹ ra hiệu cho trẻ sơ sinh đi tiểu và trẻ sơ sinh phản ứng (Boucke 2003; Duong và cộng sự, 2013a; Sonna 2006; deVries và deVries 1977).

Làm sao cha mẹ biết được khi nào con mình cần đi vệ sinh?

Không có phép thuật nào ở đây cả. Các bậc cha mẹ chú ý kỹ. Họ học cách đọc tín hiệu của con mình. Và cuối cùng, sau nhiều lần thử, trẻ sơ sinh học cách kiềm chế cho đến khi cha mẹ ra hiệu cho chúng — thường là một âm thanh đặc biệt, như “sheee-sheee” hoặc “shuuuus” (Bouke 2003; deVries và deVries 1977).

Nói cách khác, tất cả đều là về giao tiếp — cái mà một số người gọi là “giao tiếp loại trừ”. Và nó đang trở nên phổ biến hơn ở các nước phương Tây, như Hoa Kỳ (Bender và She 2017).

Nhưng liệu những đứa trẻ này có thực sự được “huấn luyện đi vệ sinh” không?

Điều đó phụ thuộc vào ý bạn. Trẻ sơ sinh không thể tự đi, tự lau hoặc tự mặc quần áo. Vì vậy, chúng không được “huấn luyện” theo nghĩa có khả năng tự đi vệ sinh. Nhưng các lần đi vệ sinh trở nên được phối hợp, có tổ chức và dễ đoán hơn. Và các gia đình có thể “không dùng tã”.

Đây có phải là mục tiêu đáng theo đuổi không? Khi nào cha mẹ nên bắt đầu huấn luyện trẻ sơ sinh đi vệ sinh? Họ nên làm theo những quy trình nào? Và nghiên cứu cho chúng ta biết điều gì về sự phát triển khả năng kiểm soát bàng quang và ruột? Huấn luyện sớm có phải là lựa chọn tốt cho con bạn không?

Sau đây là các chi tiết giúp bạn quyết định. Tôi đề cập đến những lợi ích tiềm năng của việc huấn luyện trẻ sơ sinh đi vệ sinh và phác thảo quy trình chung liên quan đến giao tiếp bài tiết. Ngoài ra, tôi cung cấp liên kết đến một phương pháp thay thế để huấn luyện trẻ sơ sinh đi vệ sinh và xem xét một số yếu tố phát triển (và văn hóa) có thể khiến việc huấn luyện trẻ sơ sinh trở nên khó khăn.

Lợi ích của việc huấn luyện trẻ sơ sinh đi vệ sinh là gì?

Việc huấn luyện trẻ sơ sinh đi vệ sinh phụ thuộc vào việc thiết lập sự giao tiếp chặt chẽ về nhu cầu đi vệ sinh thường xuyên của trẻ. Việc này tốn thời gian, nhưng có khả năng mang lại phần thưởng giống như cách giao tiếp về việc cho ăn có thể mang lại phần thưởng.

Ngoài ra, việc huấn luyện trẻ sơ sinh đi vệ sinh giúp các gia đình có thể giảm bớt — hoặc loại bỏ — việc sử dụng tã lót. Điều này có nghĩa là

  • tiết kiệm tiền mua tã và đồ dùng liên quan đến tã;
  • tạo ra ít tã dùng một lần không phân hủy sinh học hơn; và
  • sử dụng ít năng lượng hơn để giặt và sấy tã vải.
Nó cũng có nghĩa là tránh hăm tã và các bệnh nhiễm trùng liên quan đến tã, và có thể giúp trẻ hình thành thói quen đi vệ sinh đều đặn.

Trong một nghiên cứu gần đây được tiến hành trên những người thực hành giao tiếp loại trừ ở một quốc gia phương Tây (Áo), các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng trẻ sơ sinh càng không mặc tã trong thời gian dài thì càng ít bị phát ban. Ngoài ra, việc không mặc tã có liên quan đến “tần suất đại tiện đều đặn” hơn (Geist và cộng sự 2023).

Có lợi ích lâu dài nào không ?

Cha mẹ có thể tránh được những khó khăn liên quan đến việc huấn luyện trẻ lớn đi vệ sinh

Những bậc cha mẹ huấn luyện sớm có thể tránh được một số cạm bẫy, ít nhất là khi so sánh với những bậc cha mẹ trì hoãn việc huấn luyện cho đến khi trẻ được hai hoặc ba tuổi. Khi trẻ đã mặc tã trong nhiều năm, cha mẹ thường gặp phải những khó khăn sau:

  • Trẻ lớn hơn đã học cách bỏ qua các tín hiệu cơ thể của mình và phải học lại chúng.
  • Trẻ lớn hơn thường quen với việc mặc tã bẩn và có thể không muốn thay tã.
  • Trẻ lớn hơn có xu hướng thử thách thẩm quyền của bạn khi bạn yêu cầu chúng tuân thủ việc tập đi vệ sinh.
Trẻ em bắt đầu tập luyện từ khi còn nhỏ có thể tránh được một số vấn đề sức khỏe

Có một số bằng chứng cho thấy việc tập đi vệ sinh cho trẻ sơ sinh giúp trẻ học cách làm rỗng bàng quang hoàn toàn khi đi tiểu (Duong et al 2013b). Điều này có khả năng quan trọng, vì nước tiểu còn sót lại trong bàng quang có thể dẫn đến nhiễm trùng đường tiết niệu.

Và có lý do để nghĩ rằng giao tiếp loại trừ sớm có thể làm giảm nguy cơ trẻ mắc chứng rối loạn chức năng bàng quang và ruột (hay BBD). Trong một nghiên cứu dựa trên khảo sát về kết quả của hơn 10.000 trẻ em ở Trung Quốc, các nhà nghiên cứu đã so sánh hai nhóm trẻ:

  • Trẻ em bắt đầu giao tiếp loại trừ trước 12 tháng tuổi
  • Những đứa trẻ chưa bao giờ thực hành giao tiếp loại trừ

Trong số trẻ em đã thực hành giao tiếp loại trừ sớm, chỉ có 1,36% gặp vấn đề về rối loạn chức năng bàng quang và ruột. Trong số trẻ em chưa bao giờ thực hành giao tiếp loại trừ, 15,71% gặp vấn đề về rối loạn chức năng bàng quang và ruột (Xu và cộng sự 2021).

Nhược điểm là gì?

Có nhiều công việc hơn liên quan — loại công việc liên quan đến việc theo dõi và kiểm tra thường xuyên. Rắc rối cũng xảy ra (xem bên dưới). Và trong nghiên cứu về các bậc cha mẹ thực hành giao tiếp loại trừ ở Áo, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng thời gian không mặc tã ảnh hưởng đến giấc ngủ của cha mẹ — làm giảm lượng giấc ngủ liên tục (không bị gián đoạn) (Geist và cộng sự 2023).

Vậy khi nào thì nên bắt đầu tập cho bé đi vệ sinh?

Thực ra, đây không phải là vấn đề “nên”. Một số cha mẹ bắt đầu ngay sau khi sinh (Duong và cộng sự, 2013a; Boucke 2003). Những người khác đợi đến 3-6 tháng (Schaefer và DiGeronimo 1997; Smeets và cộng sự, 1985).

Quy trình như thế nào? Việc huấn luyện trẻ sơ sinh đi vệ sinh diễn ra như thế nào?

Thông thường, cha mẹ thực hiện theo các bước sau:


1. Làm quen với kiểu bài tiết của bé.

Bé của bạn cư xử như thế nào ngay trước khi đi vệ sinh? Một số bé có thể ngọ nguậy hoặc run rẩy ngay trước khi phải đi vệ sinh. Những bé khác có thể thay đổi kiểu thở, hoặc bắt đầu khóc, hoặc có biểu cảm khuôn mặt cụ thể.

Ngoài ra, hãy chú ý đến thời gian. Trẻ sơ sinh có thể có xu hướng đi tiểu ngay sau khi bú. Trẻ có thể đi tiểu ngay trước khi — hoặc ngay sau khi — ngủ. Một số trẻ có thể đi tiểu khá đều đặn, khoảng một giờ một lần.

Hãy chú ý đến những kiểu mẫu này và học cách dự đoán thời điểm em bé sắp đi vệ sinh.

2. Khi bé có dấu hiệu muốn đi vệ sinh, hãy tạo cơ hội: Đặt mông trần của bé vào một vật chứa thích hợp.

xelimination-communication-shutterstock-300x-min.jpg.pagespeed.ic.EVH35y8mzL.jpg

Đây không nhất thiết phải là nhà vệ sinh. Đối với trẻ sơ sinh, một số cha mẹ sử dụng bồn nhựa hoặc bát (Boucke 2003; Sonna 2006). Trong các nền văn hóa truyền thống, trẻ sơ sinh thường đi tiểu ngoài trời, trên mặt đất.

3. Dạy bé liên kết hành động đi vệ sinh với một tín hiệu do bạn lựa chọn.

Ở nhiều nơi trên thế giới, cha mẹ tạo ra âm thanh hoặc cử chỉ đặc trưng khi em bé đi tiểu. Trẻ sơ sinh học cách liên kết âm thanh với hành động.

4. Khi bé đã học được tín hiệu, hãy sử dụng tín hiệu đó để khuyến khích bé đi vệ sinh theo hiệu lệnh.

Bây giờ bạn có thể tác động đến thời gian đi vệ sinh. Ví dụ, trước khi đưa bé đi chơi, bạn có thể yêu cầu bé đi vệ sinh. Tạo cơ hội và ra hiệu cho bé. Tương tự như vậy, bạn có thể yêu cầu bé đi vệ sinh sau bữa ăn hoặc ngay trước khi đi ngủ.

Có giải pháp nào thay thế cho phương pháp này không?

Có. Nếu bé đã đạt đến cột mốc có thể tự ngồi dậy — mà không cần giữ cố định hoặc dựa vào đồ vật — bạn có thể thử một kỹ thuật khác giúp bé ngồi bô.

Phương pháp này đã được các nhà nghiên cứu phương Tây điều tra (Smeets và cộng sự, 1985) và thử nghiệm trên một số ít trẻ sơ sinh — với thành công.

Phải mất bao lâu để một đứa trẻ được “huấn luyện”?

Trong các nền văn hóa áp dụng phương pháp huấn luyện trẻ sơ sinh truyền thống, trẻ sơ sinh hoàn thành quá trình huấn luyện trong khoảng từ 6-12 tháng (Duong và cộng sự, 2013a; Boucke 2003; deVries và deVries 1977).

Và trong một nghiên cứu thử nghiệm phương pháp thay thế (ghế bô), trẻ sơ sinh tham gia đã hoàn thành khóa đào tạo trước khi được 12 tháng tuổi (Smeets và cộng sự, 1985).

Nhưng hãy chờ đã…làm sao điều này có thể xảy ra được?

Trẻ sơ sinh không có khả năng kiểm soát bàng quang và ruột phải không?

Phải công nhận rằng trẻ sơ sinh không phải là người lớn thu nhỏ. Chúng chưa thể kiểm soát việc bài tiết ở mức độ như chúng ta. Ví dụ, trong một nghiên cứu, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng chỉ có 20% trẻ em đạt được khả năng kiểm soát bàng quang và ruột “hoàn toàn” khi được 2 tuổi (Largo và cộng sự, 1978).

Nhưng việc tập đi vệ sinh cho trẻ sơ sinh không đòi hỏi sự kiểm soát “hoàn toàn”. Để việc tập luyện thành công, trẻ sơ sinh chỉ cần tuân theo một số khuôn mẫu có thể dự đoán được và có khả năng kiểm soát một phần .

Những yêu cầu này được đáp ứng khá dễ dàng đối với việc đi tiêu. Sau thời kỳ sơ sinh, việc đi tiêu tương đối ít thường xuyên và các dấu hiệu cảnh báo sắp đi tiêu khá dễ nhận biết. Cha mẹ và trẻ sơ sinh có thời gian để phản ứng.

Còn việc đi tiểu thì sao?

Phải công nhận là việc rèn luyện bàng quang khó khăn hơn. Trẻ sơ sinh có sức chứa bàng quang nhỏ và xử lý lượng chất lỏng lớn. Chúng đi tiểu thường xuyên và khó có thể biết khi nào chúng sắp đi tiểu.

Ngoài ra, một số trẻ sơ sinh có thể gặp khó khăn trong việc phối hợp cơ.

Họ có thể co thắt thành bàng quang (làm tăng áp lực bên trong bàng quang) và họ có thể làm giãn cơ thắt niệu đạo (mở niệu đạo và cho phép nước tiểu chảy ra ngoài cơ thể). Nhưng họ có thể gặp khó khăn khi thực hiện cả hai cùng một lúc. Kết quả là, họ có thể không làm rỗng hoàn toàn bàng quang sau mỗi lần đi tiểu (Yeung và cộng sự, 1995; Sillén và cộng sự, 1996; Bachelard 1998).

Nhưng điều này không có nghĩa là trẻ sơ sinh đi tiểu một cách ngẫu nhiên, bừa bãi. Ngược lại.

Như đã lưu ý ở trên, trẻ sơ sinh thường đi tiểu vào một số thời điểm nhất định trong ngày.

Trẻ em có nhiều khả năng đi tiểu sau khi bú. Trẻ em cũng có nhiều khả năng đi tiểu khi chúng hoàn toàn tỉnh táo hoặc chuyển sang trạng thái thức. Trẻ sơ sinh có xu hướng không đi tiểu khi chúng đang trong “giấc ngủ yên tĩnh” — giai đoạn ngủ của trẻ sơ sinh tương tự như giai đoạn ngủ “sâu” của người lớn (Yeung và cộng sự, 1995; Wen và Tong 1998).

Và quan trọng không kém, bàng quang của trẻ sơ sinh không hề yếu ớt hay bất thường.

Các cơ của thành bàng quang thường ổn định, chỉ co lại vào thời điểm đi tiểu (Yeung và cộng sự 1995; Wen và Tong 1998). Và khi các nhà nghiên cứu cố gắng kích thích trẻ sơ sinh khỏe mạnh đi tiểu bằng cách ấn bàng quang bằng tay, thì không hiệu quả. Bàng quang không bị rò rỉ (Gladh và cộng sự 2000).

Vì vậy, nghiên cứu bác bỏ quan niệm cho rằng bàng quang của trẻ sơ sinh hoàn toàn không bị ức chế (Sillén 2001; Yeung và cộng sự 1995).

Việc trẻ sơ sinh đi tiểu không chỉ là phản xạ tự động (Sillén 2001; Yeung và cộng sự, 1995). Và đó là lý do tại sao việc tập cho trẻ sơ sinh đi vệ sinh — đạt được độ khô tương đối thông qua sự giám sát của cha mẹ — là khả thi.

Còn gánh nặng cho cha mẹ thì sao? Việc huấn luyện trẻ sơ sinh đi vệ sinh có tốn thời gian và bừa bộn không?

Câu trả lời ngắn gọn là: Có.

Việc huấn luyện trẻ sơ sinh đi vệ sinh phụ thuộc vào sự gần gũi và cảnh giác của người chăm sóc. Chắc chắn là tốn thời gian.

Khi mới sinh, trẻ sơ sinh trung bình đi tiểu khoảng 20 lần một ngày (Geoller và cộng sự, 1981). Tần suất giảm dần theo thời gian, vì vậy một số tác giả khuyên cha mẹ nên trì hoãn việc huấn luyện trẻ sơ sinh cho đến tháng thứ ba (Schaefer và diGeronimo 1997).

Tuy nhiên, sức chứa của bàng quang khác nhau và một số trẻ sơ sinh đi tiểu rất thường xuyên trong suốt thời kỳ chập chững biết đi. Những trẻ sơ sinh khác đi phân mềm suốt cả ngày. Cha mẹ phải cân nhắc các yếu tố này cho phù hợp.

Tiếp theo, hãy xem xét sự lộn xộn.

Mặc dù chất thải của trẻ sơ sinh ít hôi hơn chất thải của trẻ mới biết đi (Sonna 2006), nhưng vẫn bừa bộn. Một số người ủng hộ cho rằng việc tập cho trẻ sơ sinh đi vệ sinh ít bừa bộn hơn việc đóng tã, vì việc đóng tã buộc cha mẹ phải dọn dẹp mỗi lần trẻ đi đại tiện (DiaperFreeBaby.org 2006).

Nhưng tôi nghĩ điều này bỏ qua vấn đề mà hầu hết người phương Tây quan tâm, đó là trẻ sơ sinh không dùng tã có thể làm bẩn đồ đạc, thảm và các vật dụng khác khá khó vệ sinh.

Cha mẹ có thể giảm thiểu sự bừa bộn bằng cách giữ trẻ tránh xa những đồ vật như vậy.

Ngoài ra, họ có thể áp dụng phương pháp dùng bô để huấn luyện trẻ sơ sinh đi vệ sinh.

Hoặc đơn giản là dùng tã trong giai đoạn đầu tập luyện.

Tuy nhiên, hàng triệu người vẫn thực hiện việc huấn luyện trẻ sơ sinh đi vệ sinh mà không cần dùng tã. Họ làm thế nào?

Tôi nghĩ có lẽ nguyên nhân là do sự khác biệt về thái độ và sự hỗ trợ xã hội.

Từ Kenya (deVries và deVries 1977) đến Bali (Diener 2000), cha mẹ không coi thỉnh thoảng có rủi ro là vấn đề lớn. Không ai bận tâm nhiều nếu một ít nước tiểu của trẻ sơ sinh dính vào quần áo hoặc sàn nhà của họ. Rắc rối xảy ra. Dọn dẹp là một phần của việc nuôi dạy con cái.

Ngoài ra, các xã hội truyền thống, “không tã lót” thường khoan dung hơn với việc trẻ nhỏ đi vệ sinh ở nơi công cộng. Phong tục địa phương giúp cha mẹ dễ dàng huấn luyện hơn.

Ví dụ, ở Trung Quốc, trẻ nhỏ mặc quần có đường may hở ở phía sau để có thể ngồi xổm và đi vệ sinh khi cần.

Và đối với người Ifaluk ở Châu Đại Dương, trẻ mới biết đi có thể đi tiểu ở bất cứ đâu miễn là ở bên ngoài (Le 2000).

Thái độ và phong tục ở phương Tây ít ủng hộ việc tập đi vệ sinh cho trẻ sơ sinh. Điều này không ngăn cản các bậc cha mẹ phương Tây có động lực. Nhưng rõ ràng là việc tập cho trẻ sơ sinh không dành cho tất cả mọi người.

Cho dù bạn có kế hoạch huấn luyện sớm hay muộn, bạn sẽ cần phải kiên nhẫn, hài hước và nhẹ nhàng. Sẽ có những rắc rối và sự cố. Không ai nên cố gắng huấn luyện trẻ sơ sinh đi vệ sinh mà không hiểu rõ về công việc liên quan.

Bài học cho phương Tây?

Bất chấp những khó khăn, một số phụ huynh đang chứng minh rằng có thể thực hành huấn luyện trẻ sơ sinh đi vệ sinh ở phương Tây. Sách, trang web và cộng đồng trực tuyến cung cấp lời khuyên và hỗ trợ tâm lý. Các bậc cha mẹ hiểu biết trao đổi mẹo về nơi mua quần tập đi kiểu Trung Quốc hoặc cách thức cần làm khi đi ô tô.

Đối với những bậc cha mẹ này, lợi ích của việc huấn luyện trẻ sơ sinh đi vệ sinh — không cần tã, không hăm — khiến công sức bỏ ra là xứng đáng.

Và đối với những bậc cha mẹ không có kế hoạch huấn luyện trẻ sơ sinh, thì “giao tiếp loại trừ” vẫn mang tính hướng dẫn.

Nó nhắc nhở chúng ta rằng tã không phải là một phần cần thiết hoặc tự nhiên của thời thơ ấu. Hăm tã hay sự phụ thuộc vào tã cũng vậy. Những em bé không bao giờ mặc tã sẽ không cần phải được dỗ dành để bỏ tã khi chúng lớn hơn.

Phụ lục: Những tuyên bố vô căn cứ

Tôi đã thấy một số tuyên bố đáng ngờ về việc huấn luyện trẻ sơ sinh đi vệ sinh cần được thảo luận. Vì vậy, tôi muốn giải quyết chúng ở đây.

Đầu tiên, tôi không tìm thấy bằng chứng nào cho thấy việc huấn luyện trẻ sơ sinh đi vệ sinh có thể giúp cha mẹ trở nên tốt hơn, nhạy cảm hơn.

Tôi cũng chưa tìm thấy bất kỳ nghiên cứu nào cho thấy việc huấn luyện đi vệ sinh ở bất kỳ hình thức nào – trẻ sơ sinh hay trẻ nhỏ – có thể cải thiện mối quan hệ cha mẹ – con cái. (cải thiện giao tiếp?)

Thứ hai, tôi chưa tìm thấy bất kỳ nghiên cứu nào cho thấy việc huấn luyện trẻ sơ sinh đi vệ sinh – khi thực hiện theo cách nêu trên – có tác động phát triển có ý nghĩa, lâu dài đến cuộc sống của trẻ.

Như đã lưu ý ở trên, có bằng chứng cho thấy nó giúp trẻ sơ sinh phát triển thói quen đi tiểu lành mạnh ở độ tuổi sớm hơn (Duong et al 2013b). Và cũng hợp lý khi cho rằng trẻ sơ sinh được huấn luyện sẽ ít có nguy cơ bị phát ban và nhiễm trùng liên quan đến tã lót hơn (Bender và She 2017).

Nhưng không có lý do gì để nghĩ rằng việc huấn luyện trẻ sơ sinh đi vệ sinh sẽ thay đổi tâm lý của con bạn, theo hướng tốt hơn hay xấu hơn.

Cuối cùng, cần nhắc lại rằng “huấn luyện trẻ sơ sinh đi vệ sinh” là một thuật ngữ có khả năng gây hiểu lầm.

Trẻ sơ sinh không được huấn luyện theo cách mà trẻ lớn hơn làm. Thay vào đó, cha mẹ học cách dự đoán khi nào trẻ sẵn sàng đi tiểu và trẻ học được rằng một âm thanh cụ thể có nghĩa là “hãy đi tiểu ngay bây giờ”.


Nếu không phải lúc còn nhỏ thì khi nào?

Khi nói đến thời điểm bắt đầu huấn luyện đi vệ sinh, cha mẹ có nhiều lựa chọn. Nghiên cứu cho chúng ta biết điều gì về việc trì hoãn huấn luyện cho đến khi con bạn được 12 tháng tuổi? 18 tháng tuổi? 24 tháng tuổi? Hoặc thậm chí lớn hơn?

Sách hướng dẫn trẻ sơ sinh đi vệ sinh

Infant Potty Training: A gentle and primeval method adapted to modern living (Laurie Boucke, 2002; nhà xuất bản White-Boucke).

Infant potty training: With and without diapers—the natural way (Laurie Boucke, 2003; White-Boucke publishing).

Làm thế nào để hỗ trợ sự phát triển ngôn ngữ ở trẻ sơ sinh

Bài gốc

🥰Trẻ sơ sinh có khả năng học tập đáng kinh ngạc. Nhưng để thành thạo ngôn ngữ, trẻ cần sự giúp đỡ của chúng ta. Các nghiên cứu cho thấy chúng ta có thể hỗ trợ sự phát triển ngôn ngữ bằng cách thu hút trẻ sơ sinh vào cuộc trò chuyện và cung cấp cho trẻ nhiều tín hiệu đặc biệt và trải nghiệm giao tiếp.
Bắt đầu từ đâu? Hãy xem những mẹo dựa trên bằng chứng sau đây.
1️⃣ Mẹo số 1: Chấp nhận “lời nói nựng”
👄Nhiều người thấy mình thay đổi cách nói khi nói chuyện với trẻ sơ sinh. Họ có thể nói cao hơn, và giọng nói của họ có thể trở nên du dương hơn, có tông điệu thay đổi. Họ cũng có xu hướng nói chậm hơn và lặp lại một số từ khóa nhiều lần, sử dụng vần hay âm vị “ngọng” kiểu trẻ em.
👄Liệu đó chỉ là sự ngớ ngẩn? Ngược lại. Các nhà nghiên cứu có bằng chứng cho thấy lời nói hướng đến trẻ sơ sinh này giúp trẻ hiểu được trạng thái cảm xúc của chúng ta. Nó cũng có thể giúp trẻ chọn ra các từ riêng lẻ và giải mã ý nghĩa của chúng.
2️⃣Mẹo số 2: Phản ứng phù hợp với tâm trạng và tín hiệu của bé — giống như cách bạn làm với một người lớn tuổi hơn.
👄Khi chúng ta giao tiếp với một người bạn trưởng thành, chúng ta cho rằng họ sẽ thừa nhận tâm trạng, trạng thái và nỗ lực thể hiện bản thân của chúng ta. Nếu chúng ta phấn khích và vui vẻ, chúng ta mong họ phản ánh lại một số điều này với chúng ta. Nếu chúng ta lo lắng hoặc buồn bã, chúng ta mong họ thừa nhận điều này và cố gắng xoa dịu. Nếu chúng ta mệt mỏi, bối rối hoặc quá kích thích, chúng ta hy vọng rằng một người bạn tốt sẽ nhận ra và cho chúng ta không gian để thư giãn.
👄Khi cha mẹ hiểu được trạng thái của con mình – và phản ứng bằng cách thừa nhận các tín hiệu của trẻ sơ sinh bằng ánh mắt, giọng nói, cảm xúc tích cực và sự chạm nhẹ trìu mến phù hợp – các nhà nghiên cứu gọi đây là “sự nhạy cảm của người chăm sóc”. Đây là nền tảng cơ bản của giao tiếp và sự an toàn gắn bó, và xét theo quan điểm của cả chức năng xã hội – cảm xúc và sự phát triển ngôn ngữ, không bao giờ là quá sớm để thể hiện sự nhạy cảm này.
👄Trong một nghiên cứu gần đây về 40 trẻ sơ sinh, các nhà nghiên cứu đã quan sát các bà mẹ và trẻ sơ sinh tương tác với nhau sau 3 tháng sau sinh, sau đó kiểm tra lại khi trẻ sơ sinh đã biết đi. Những trẻ sơ sinh có sự nhạy cảm của mẹ nhiều hơn ở tháng thứ 3 đã phát triển ngôn ngữ tiên tiến hơn ở tháng thứ 18 và 30 (Endevelt-Shapira và cộng sự 2024).
3️⃣Mẹo số 3: Nói chuyện với trẻ khi chúng phát ra âm thanh hoặc bi bô
👄Trên khắp thế giới, trẻ sơ sinh thường tuân theo cùng một mô hình: Từ 5 đến 10 tháng tuổi, chúng bắt đầu lặp lại một số âm tiết đơn giản mà chúng nghe được, chẳng hạn như “ba ba ba ba” (Lang và cộng sự 2019).
👄Đây được gọi là “biết nói theo chuẩn mực”, và bạn có thể nghĩ về nó như một hiện tượng một chiều: Trẻ sơ sinh bi bô, và chúng ta lắng nghe. Nhưng các thí nghiệm xác nhận rằng trẻ sơ sinh đang chú ý đến phản ứng của chúng ta đối với giọng nói của chúng.
👄Trong một nghiên cứu, các bà mẹ được yêu cầu bắt chước các âm tiết bi bô mà họ nghe thấy con mình phát ra. Các em bé phản ứng bằng cách tăng gấp đôi – tập trung nhiều hơn vào việc phát ra các âm tiết. Vì vậy, có vẻ như chúng ta có thể khuyến khích trẻ sơ sinh thực hành các âm thanh giống như lời nói bằng cách lặp lại một số âm tiết mà chúng bi bô (Goldstein và Shwade 2008; Emlinger và cộng sự 2019).
👄Hơn nữa, khi trẻ hướng giọng nói của mình vào một vật thể cụ thể, chúng ta có thể coi đó là tín hiệu để bắt đầu nói chuyện với trẻ về vật thể đó (Albert và cộng sự 2018). Chúng ta có thể mở rộng thêm bất cứ điều gì mà chúng ta nghi ngờ trẻ đang cố gắng truyền đạt (Lieberman và cộng sự 2019). “Ồ! Con thích chuối à? Con muốn ăn chuối không? Chúng ta ăn chuối nhé!”
👄Tóm lại là gì? Trẻ sơ sinh bận rộn học ngôn ngữ từ rất lâu trước khi chúng nói những từ đầu tiên. Và các chuyên gia khuyên rằng nói chuyện với trẻ sơ sinh — phản hồi lại tiếng bi bô và những nỗ lực giao tiếp của trẻ — là một cách quan trọng để trẻ sơ sinh học về âm thanh và ý nghĩa của ngôn ngữ.
4️⃣Mẹo số 4: Hỗ trợ phát triển ngôn ngữ bằng nhiều cuộc trò chuyện trực tiếp
👄Trẻ sơ sinh có thể học được điều gì đó từ việc “lắng nghe” các cuộc thảo luận của người khác. Nhưng khi nói đến việc học ngôn ngữ nhanh chóng và hiệu quả, có lẽ không có gì mạnh mẽ bằng việc trực tiếp tham gia vào một cuộc trò chuyện thực sự, một-một (Tamis-Lemonda và cộng sự 2014).
👄Ví dụ, ở các nước công nghiệp hiện đại — và cả ở một số cộng đồng nông nghiệp truyền thống — bạn có thể quan sát thấy một mô hình tương tự: Khi trẻ em dành nhiều thời gian trò chuyện hơn, kỹ năng ngôn ngữ của chúng dường như được cải thiện đáng kể (Frank và cộng sự 2021; Newman và cộng sự 2016; Shneidman và Goldin-Meadow 2012).
👄Và khi các nhà nghiên cứu tích cực hướng dẫn các bậc cha mẹ mới để thu hút con mình vào các cuộc trò chuyện chất lượng cao — thay phiên nhau và nhấn mạnh vào các đặc điểm của “lời nói hướng đến trẻ sơ sinh” — thì trẻ sơ sinh có kết quả ngôn ngữ tốt hơn (Ferjan Ramírez và cộng sự 2019; Ferjan Ramírez và cộng sự 2020; Garcia và cộng sự 2019).
5️⃣Mẹo số 5: Sử dụng điều này như một lời nhắc nhở để làm cho cuộc trò chuyện của bạn hiệu quả và bổ ích hơn
👄Một số nhà tâm lý học trẻ em sử dụng từ viết tắt “PRIDE” để truyền đạt quan điểm. Trẻ sơ sinh được hưởng lợi khi chúng ta
👍KHEN NGỢI bé;
👍SUY NGHĨ về bài phát biểu của mình (hoặc những nỗ lực phát biểu) bằng cách phản hồi bằng lời nói phù hợp;
👍BẮT CHƯỚC những hành vi vui tươi của chúng;
👍MÔ TẢ hành vi của họ khi bạn nói chuyện với họ (“Ồ! Bạn đang lăn bóng!”); và
thể hiện 👍SỰ NHIỆT TÌNH hoặc sự thích thú (Ồ! Thật tuyệt vời!”).
👄Tại sao? Nếu bạn làm những điều này, bạn sẽ thu hút bé vào cuộc trò chuyện, và chúng tôi đã lưu ý cách thức mà điều đó hữu ích. Nhưng cách tiếp cận PRIDE cũng có giá trị theo những cách khác. Nó có thể giúp truyền cảm hứng về sự gần gũi về mặt cảm xúc và tâm trạng tốt, khiến giao tiếp trở nên bổ ích hơn. Nó cũng có thể giúp bé dễ dàng khám phá ra tính hữu ích của ngôn ngữ — không chỉ để gọi tên đồ vật mà còn để thể hiện cảm xúc và mong muốn.
👄Để ủng hộ những ý tưởng này, các nhà nghiên cứu đã nhận thấy rằng trẻ sơ sinh có xu hướng phát triển các kỹ năng ngôn ngữ tốt hơn khi cha mẹ phản ứng với chúng theo cách nhạy cảm, tích cực (ví dụ: Madigan et al 2019; Garcia et al 2019). Và cũng có bằng chứng thực nghiệm: Trong các nghiên cứu theo dõi trẻ sơ sinh có nguy cơ mắc các vấn đề về hành vi, các nhà nghiên cứu đã chỉ định ngẫu nhiên một số phụ huynh để được đào tạo về kỹ thuật “PRIDE”. Kết quả ra sao? So với trẻ sơ sinh trong nhóm đối chứng, trẻ sơ sinh có cha mẹ được đào tạo có xu hướng tăng khả năng sản xuất ngôn ngữ nhiều hơn theo thời gian (Garcia et al 2015 và Bagner et al 2016).
6️⃣Mẹo số 6: Tận dụng sức mạnh của sự tò mò. Hãy tìm những dấu hiệu này!
👄Chúng ta có nhiều khả năng học hơn khi chúng ta thực sự quan tâm hoặc tò mò, và điều này đúng với cả trẻ sơ sinh và người lớn. Vì vậy, khi con bạn thực sự quan tâm đến điều gì đó, đó là thời điểm tốt nhất để nói về điều đó. Con bạn rất có động lực và bằng cách phản hồi nhanh chóng, bạn đang giúp con dễ dàng hơn trong việc lập bản đồ các từ mới với ý nghĩa của chúng.
👄Nhưng làm sao bạn có thể biết được em bé có hứng thú không? Khi các nhà nghiên cứu quan sát sự tương tác giữa mẹ và trẻ sơ sinh, hầu hết các bà mẹ dường như đều biết: Các bà mẹ có nhiều khả năng gọi tên một đồ vật nếu họ thấy con mình nhìn vào hoặc phát ra âm thanh — đúng thời điểm để giúp con mình học hỏi (Tamis-Lemonda và cộng sự 2014; Chang và cộng sự 2016).
👄Một manh mối lớn khác? Khi em bé của bạn chỉ vào một thứ gì đó. Hầu hết trẻ sơ sinh bắt đầu chỉ vào các đồ vật trước khi tròn một tuổi, và các thí nghiệm hấp dẫn cho thấy trẻ sơ sinh sử dụng hành động chỉ tay — ít nhất là một phần — để khiến chúng ta chia sẻ thông tin bằng lời mới thú vị về mọi thứ (Kovacs et al 2015; Lucca và Wilbourn 2018; Lucca và Wilbourn 2019).
7️⃣Mẹo số 7: Tận dụng khoảnh khắc khi bé vừa nhìn vừa cầm nắm một vật thể. Đây là lúc bé đặc biệt dễ tiếp thu để học tên của vật thể đó.
👄Chỉ tay là dấu hiệu rõ ràng cho thấy bé tò mò về điều gì đó. Nhưng đó không phải là dấu hiệu duy nhất. Một dấu hiệu chắc chắn khác cho thấy bé thích thú là nếu bé vừa nhìn vừa chạm vào thứ gì đó bằng tay.
👄Khi trẻ em tham gia đầy đủ theo cách này, chúng có thể đã sẵn sàng để học.
👄Ví dụ, hãy tưởng tượng con bạn cầm một con khủng long bằng nhựa. Con bé nhìn vào nó và cảm nhận kết cấu của nó bằng tay. Sau đó — chỉ 3 giây sau — con bé nghe bạn nói từ “khủng long” khi bạn nói chuyện với con bé về nó.
8️⃣ Mẹo số 8: Sử dụng cử chỉ và khuyến khích bé sử dụng cử chỉ
👄Chỉ tay là một cử chỉ đơn giản có thể giúp giao tiếp rõ ràng hơn. Nhưng vẫn còn những cử chỉ khác. Và các nghiên cứu chỉ ra rằng trẻ sơ sinh học ngôn ngữ dễ dàng hơn từ những người kết hợp những cử chỉ như vậy vào lời nói của chúng. Cũng có bằng chứng cho thấy trẻ sơ sinh có kết quả ngôn ngữ tốt hơn nếu bản thân chúng sử dụng nhiều cử chỉ.
9️⃣Mẹo số 9: Cho bé tham gia các hoạt động âm nhạc vui nhộn
👄Âm nhạc và ngôn ngữ đều sử dụng âm điệu và nhịp điệu, và một số bộ phận não xử lý âm nhạc cũng xử lý lời nói. Vậy việc cho bé tiếp xúc với âm nhạc — dạy bé chú ý đến các đặc điểm của âm nhạc — có thể hỗ trợ sự phát triển ngôn ngữ không?
👄Như tôi đã lưu ý trong một bài viết khác trên Parenting Science, có lý do để nghĩ như vậy. Khi các nhà nghiên cứu giao cho trẻ sơ sinh tham gia vào một số hoạt động âm nhạc nhất định, những đứa trẻ này đã tiếp tục có được các kỹ năng ngôn ngữ nâng cao hơn. Những loại hoạt động nào có khả năng giúp ích? Các thí nghiệm gợi ý nhiều cách tiếp cận khác nhau, bao gồm cả việc nhún nhảy theo nhịp điệu, khuyến khích trẻ lắc maraca hoặc lục lạc để giữ nhịp và chơi các trò chơi dựa trên âm nhạc (như nhảy khi nhạc phát và đứng im khi nhạc dừng).
1️⃣0️⃣Mẹo số 10: Đọc sách cho bé nghe
👄Có vẻ như trẻ sơ sinh còn quá nhỏ để hưởng lợi từ sách truyện. Nhưng có mối liên hệ không thể phủ nhận giữa việc đọc sách truyện chung và sự phát triển ngôn ngữ của trẻ (Flack và cộng sự 2018), và việc đọc sách chung có thể góp phần thúc đẩy kỹ năng ngôn ngữ: Nó có thể giúp trẻ nhỏ tiếp xúc với vốn từ vựng đa dạng hơn.
👄Ví dụ, trong một nghiên cứu, các nhà nghiên cứu đã quan sát cách cha mẹ tương tác với trẻ mới biết đi của họ trong hai điều kiện khác nhau — trong khi đọc truyện và khi cùng nhau xem chương trình truyền hình. Cha mẹ sử dụng ngôn ngữ phong phú hơn, phức tạp hơn trong thời gian đọc truyện (Hanson et al 2021).
👄Sau đó, có thêm một khả năng nữa: Nếu chúng ta khiến trẻ cảm thấy việc đọc sách là thú vị, chúng ta có thể đang đặt nền tảng để trẻ thực sự tham gia — trò chuyện với chúng ta trong khi kể chuyện, bình luận về nội dung, chia sẻ ý tưởng của riêng mình. Trong một nghiên cứu gần đây, các nhà nghiên cứu phát hiện ra rằng loại tương tác này có liên quan đến các kỹ năng ngôn ngữ mới xuất hiện của trẻ mới biết đi (Dicataldo và Roch 2022).
1️⃣1️⃣Mẹo số 11: Tôn trọng sức mạnh của giấc ngủ
👄Trẻ sơ sinh có nhiều khả năng giữ lại thông tin mới được mã hóa nếu chúng ngủ sau khi học (đây là đặc tính chung của trí nhớ con người). Điều này có nghĩa là bạn nên cố gắng gây áp lực để con bạn ngủ ngay không? Không. Nhưng 30-60 phút cuối trước khi ngủ là thời gian đặc biệt hiệu quả để chúng ta cho trẻ tiếp xúc với ngôn ngữ. Nó chứng minh cho việc thực hành đọc truyện trước khi đi ngủ…và các thói quen trò chuyện khác trước khi ngủ là có lợi thế ghi nhớ.
https://parentingscience.com/how-to-support-language-development-in-babies/

Đọc sách “Kể gì với bác sĩ”

 Mọi thứ đều quay trở lại với chẩn đoán, vậy hãy nói về những điều diễn ra khi quá trình ghi nhận bệnh sử và khám lâm sàng của bạn hoàn thành.

Bạn hãy nhớ lại rằng để đưa ra một chẩn đoán, các bác sĩ phải bắt đầu với các chẩn đoán. Trong khi xác định một chẩn đoán, bác sĩ không chỉ đi xác định một chẩn đoán mà còn phải phân biệt: một danh sách các bệnh có thể cùng giải thích cho các triệu chứng của bệnh nhân và khả năng xảy ra của chúng. Để đưa ra một danh sách các chẩn đoán phân biệt đòi hỏi bác sĩ xem xét các chẩn đoán có khả năng nhất cũng như các bệnh hiếm hơn, có thể quan trọng, không được bỏ lỡ.

Có phải chẩn đoán phân biệt là luôn cần thiết? 

Đương nhiên! Chẩn đoán phân biệt là về khả năng xảy ra, bởi vậy nếu không chắc chắn 100% bệnh nhân có một bệnh này, vậy thì phải có một khả năng của một số chẩn đoán khác. Hầu như chưa bao giờ một chẩn đoán được chắc chắn là 100%, bởi vậy cả bác sĩ (và bệnh nhân) nên cùng xem xét những khả năng khác. Trước khi chúng ta nói về cách đưa ra chẩn đoán của các bác sĩ, bạn hãy cùng xem lại bốn mục của các chẩn đoán phân biệt:

#1. Những câu chuyện tốt cho các bệnh thông thường.

Ở mục này, chẩn đoán phân biệt dễ dàng đưa ra nhất. Những thứ chung là những thứ phổ biến, cả bác sĩ và bệnh nhân đều có thể nhận ra một cách dễ dàng. Một cậu bé mười tuổi, và một nửa số bạn cùng lớp, phải ở nhà vì bị nôn mửa và tiêu chảy, có khả năng bị viêm dạ dày ruột do virus – một chứng “viêm dạ dày” phổ biến. Một chuyên viên đầu tư, 30 tuổi, với cơn đau bụng sau khi dùng nhiều thuốc ibuprofen cũng có khả năng bị viêm dạ dày.

Đây là sự nhận biết dấu hiệu kinh điển. Sinh viên y được dạy để nghĩ về các bệnh phổ biến trước tiên, đặc biệt nếu là bệnh sử điển hình. Như câu ngạn ngữ: “Khi nghe tiếng vó ngựa, hãy nghĩ đến những con ngựa thay vì ngựa vằn.” Việc xem xét các bệnh ít phổ biến cũng quan trọng, nhưng suy nghĩ về các biểu hiện cổ điển của các bệnh thông thường có thể giúp bác sĩ tiến gần đến chẩn đoán sơ bộ.

#2. Những câu chuyện không hẳn tốt cho các bệnh thông thường. 

Đau nửa đầu là một bệnh phổ biến ở những người trẻ tuổi. Thông thường, bệnh nhân có cơn đau nhói ở đầu kèm buồn nôn, nôn và nhạy cảm với ánh sáng. Một số bệnh nhân gặp phải triệu chứng thị giác “thoáng qua”, với ánh sáng lấp lánh trong tầm nhìn ngoại vi trước khi cơn đau đầu xuất hiện. Ít phổ biến hơn, hiện tượng “thoáng qua” này có thể bao gồm tê, ngứa ran và dị cảm khác. Đây là những biểu hiện ít điển hình, nhưng đối với một thanh niên 20 tuổi có những triệu chứng cảm giác lạ dẫn đến đau đầu, biểu hiện không bình thường của chứng đau nửa đầu này giống với đột quỵ nhiều hơn – vốn không phổ biến ở người trẻ tuổi như vậy. Nó không có nghĩa là bác sĩ nên tự động chuyển sang các chẩn đoán thông thường, mà sẽ theo dõi thêm các triệu chứng đó.

#3. Những câu chuyện tốt cho các bệnh hiếm gặp. 

Suy nghĩ xem bệnh sử có thể hướng đến bệnh gì khác là rất quan trọng bởi vì có thể câu chuyện là đặc trưng cho một bệnh hiếm gặp. Ở lần khám đầu, một người phụ nữ 40 tuổi không có tiền sử bệnh, bị đau bụng và buồn nôn thì rất có thể bị viêm dạ dày ruột do virus. Nhưng các triệu chứng của cô nghiêm trọng và các cơn đau đến theo từng đợt rõ rệt, và cô không bị tiêu chảy. Hóa ra câu chuyện của cô không phù hợp cho bệnh viêm dạ dày ruột (một bệnh phổ biến), nhưng nó đặc thù cho một bệnh thường gặp hơn: xoắn ruột, trong một số trường hợp là một loại cấp cứu ngoại khoa. Mặc dù hiếm gặp, đặc biệt là với những người trong độ tuổi của cô và chưa từng phẫu thuật, căn bệnh này phù hợp với câu chuyện của cô, và một bác sĩ nhanh trí sẽ nhận ra dấu hiệu này và xem xét nó trong chẩn đoán phân biệt.

#4. Những câu chuyện không hẳn tốt cho các bệnh hiếm gặp. 

Hiển nhiên đây là tập hợp các chẩn đoán phân biệt khó đưa ra nhất. Đây là danh sách của những “con ngựa vằn” thực sự bởi vì chúng là những biểu hiện hiếm gặp của những bệnh không phổ biến. Bệnh nhân với những chẩn đoán được xếp vào mục này thường trải qua nhiều năm không chắc chắn trước khi chẩn đoán được đưa ra. Tuy nhiên, khi nhìn lại, nhiều khía cạnh của câu chuyện lúc đầu không phù hợp với bất cứ điều gì khác. Khi đưa ra danh sách các chẩn đoán phân biệt, đây là một mục quan trọng cần ghi nhớ. Các chẩn đoán trong danh mục này hiếm khi xuất hiện trong lần khám đầu tiên, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hỏi lại: “Còn điều gì khác không? Chúng ta có bỏ lỡ điều gì khác không?”

Có thể bạn đang tự hỏi: “Có tới hàng nghìn căn bệnh, làm thế nào bác sĩ có thể xem xét từng chẩn đoán mà không phát điên lên chứ?” Một lời nhắc tới bạn là nếu câu chuyện không thực sự phù hợp với bất kỳ chẩn đoán nào, đó là dấu hiệu cho cả bác sĩ (và bệnh nhân) nên cùng tiếp tục tìm kiếm kỹ hơn.

Khi kể chuyện, và chắc chắn là trước khi bác sĩ rời đi, hãy tìm hiểu xem bác sĩ nghĩ gì về chẩn đoán của bạn. Chẩn đoán phân biệt mà bác sĩ đang nghĩ đến thuộc mục nào? Hãy đề nghị bác sĩ để bạn cùng suy nghĩ về nó. Bác sĩ có thể không biết ý của bạn là gì khi nói Mục #1 hay #3, bởi vậy hãy hỏi trực tiếp: “Có phải đây là một bệnh thường gặp với một người như tôi không? Đây có phải là biểu hiện hay gặp? Có bệnh gì khác có cùng triệu chứng không, có thể bệnh gì đó ít phổ biến hơn?” v.v. Đây là một quá trình xây dựng mối quan hệ cộng tác và giúp đảm bảo chẩn đoán của bạn không bị bỏ lỡ.

Hợp tác cho quá trình ra quyết định

Chúng ta đã thảo luận tầm quan trọng của việc chia sẻ quá trình suy nghĩ và giúp bác sĩ đưa ra chẩn đoán phân biệt. Điều tiếp theo là các chẩn đoán phân biệt cần phải được thu hẹp để đi đến chẩn đoán cuối cùng. Một cách để làm điều này là thông qua một quy trình khuôn mẫu. Đến giờ, bạn đã biết nên cẩn trọng với những quy trình trong đó ép buộc bạn phải làm các xét nghiệm không cần thiết. Thế nếu bác sĩ đề nghị bạn làm một xét nghiệm cụ thể – làm thế nào bạn biết được nó có ích hay không?

Ồ, một xét nghiệm có ích là khi những kết quả có nhiều khả năng ảnh hưởng đến khả năng xảy ra của một chẩn đoán so với các chẩn đoán khác. Ví dụ: Nếu bạn nghi ngờ có thai, xét nghiệm nước tiểu có thể xác nhận điều đó, hoặc nếu kết quả âm tính, có thể là những khả năng khác. Các xét nghiệm cũng có thể có ích giúp loại trừ các chẩn đoán nhất định. Bệnh nhân bị ho và sốt có thể được chỉ định chụp X-quang ngực để loại trừ viêm phổi trước khi đưa ra chẩn đoán viêm phế quản.

Thật không may, nhiều bác sĩ coi các xét nghiệm chỉ là một phần khác của phương pháp chẩn đoán theo sách vở: Nếu có triệu chứng A, tiến đến làm xét nghiệm 1. Nếu kết quả là X thì tiến hành xét nghiệm 2 và 3. Điều này hoàn toàn sai. Đây là lý do tại sao phần tiếp theo của quá trình – chọn lựa các xét nghiệm (nếu có) để thực hiện – quan trọng đến mức là một quyết định cần thảo luận kỹ giữa bệnh nhân và bác sĩ.

Hãy nhớ lại lần cuối bạn đi khám bệnh. Bác sĩ có hỏi ý kiến của bạn về các xét nghiệm cần làm tiếp theo không? Chúng tôi đã thực hiện một cuộc thăm dò không chính thức với 20 người bạn không phải bác sĩ bằng cách yêu cầu họ nghĩ lại về lần cuối họ gặp bác sĩ, và câu trả lời đều là: không.

Một số người nói với chúng tôi: “Bác sĩ nói rằng tôi ổn và tôi không cần phải làm xét nghiệm.” Một số khác nói rằng bác sĩ của họ thông báo rằng họ cần lấy máu và làm một số chẩn đoán hình ảnh: chụp X-quang, siêu âm, có thể chụp CT hoặc MRI. Bạn của chúng tôi được thông báo rằng việc xét nghiệm sẽ giúp tìm ra bệnh của họ nhưng họ không được nói rõ xem bác sĩ đó đang tìm kiếm điều gì.

Trong một mối quan hệ hợp tác thực sự, bệnh nhân sẽ tham gia trọn vẹn vào phần quan trọng này trong quá trình chẩn đoán. Rốt cuộc, bệnh nhân không thể thực sự chấp nhận một xét nghiệm trừ khi biết rằng xét nghiệm đó chỉ ra điều gì và giúp ích cho việc chẩn đoán thế nào. “Chúng tôi sẽ làm các ‘xét nghiệm cơ bản’” không phải là một lời biện minh; hay “Kết quả chụp cắt lớp sẽ giúp chúng tôi tìm ra vấn đề của bạn” cũng vậy. Thay vào đó, bác sĩ nên giải thích những xét nghiệm hoặc hay chụp CT để tìm kiếm thứ gì và làm thế nào nó thu hẹp chẩn đoán phân biệt hoặc xác nhận chẩn đoán sơ bộ.

Một số xét nghiệm được chỉ định gần như theo phản xạ. Ví dụ, công thức máu đo số lượng tế bào hồng cầu, bạch cầu và tiểu cầu thường được coi là một phần của các “xét nghiệm cơ bản”. Có nhiều lý do hợp lý để kiểm tra thường quy công thức máu của bệnh nhân. Ví dụ, bệnh nhân ung thư cần được đánh giá công thức máu thường xuyên bởi vì một số liệu pháp hóa trị nhất định có thể khiến lượng tế bào máu thấp đến mức nguy hiểm. Tuy vậy, trong nhiều trường hợp, công thức máu được chỉ định thường quy cho bệnh nhân đến khám với nhiều lý do khác nhau, đơn giản bởi vì nó là phần của một quy trình có bao gồm “xét nghiệm cơ bản”. Nhưng tại sao lại thực hiện một xét nghiệm không cần thiết ngay từ đầu?

Như chúng ta đã thảo luận, không một xét nghiệm nào là không có rủi ro. Hãy lấy ví dụ chụp cắt lớp vi tính (CT). Ngày càng có nhiều nghiên cứu trình bày chi tiết về nguy cơ phơi nhiễm phóng xạ; một nghiên cứu đã phát hiện ra rằng một lần chụp CT ở một phụ nữ 40 tuổi khỏe mạnh sẽ tăng thêm 1/200 khả năng bị ung thư trong đời của cô – chỉ do một lần chụp CT đó. Một nghiên cứu khác đã dự đoán sẽ có thêm 29.000 ca ung thư do chụp CT chỉ trong năm 2007. Hầu hết mọi người sẽ đắn đo việc chụp CT với những rủi ro trên. Dù thế, có bao nhiêu lần bệnh nhân được tư vấn về nguy cơ phóng xạ?

Thay vì thế, bệnh nhân chỉ đơn giản được nói rằng họ nên chụp CT bởi vì đó là “bước tiếp theo”, không một cuộc thảo luận về những rủi ro và lợi ích. Chúng tôi tin rằng việc thực hiện xét nghiệm chỉ “để xem kết quả thể hiện điều gì” hoặc “để chắc chắn rằng chúng tôi không tìm thấy bất cứ điều gì khác thường” hay vì một số quy trình khuyến nghị điều đó, là không đủ tốt. Mặt khác, nếu có một lý do rõ ràng cho việc chụp chiếu – ví dụ nếu chẩn đoán phân biệt hướng tới chảy máu lách hoặc vỡ ruột thừa – sự tăng nhẹ khả năng mắc ung thư trong đời là có thể chấp nhận được.

Mọi xét nghiệm đều đi kèm rủi ro và lợi ích. Chúng tôi ủng hộ việc bệnh nhân tham gia vào quá trình chẩn đoán, quyết định xét nghiệm nào có ý nghĩa và cân nhắc (với bác sĩ) những rủi ro và lợi ích. Bạn nên có khả năng đặt câu hỏi, khả năng hiểu xét nghiệm cho bạn biết điều gì và nó hữu ích (hoặc không) trong việc đưa ra chẩn đoán như thế nào. Bạn nên tìm hiểu xem xét nghiệm đó có phải là một phần của quy trình nào đó hay không, và nếu vậy, hãy thử xem lại liệu quy trình này có phù hợp với bạn hay không. Bạn có thể nói không và thảo luận về các giải pháp thay thế nếu rủi ro và lợi ích của xét nghiệm đó không hợp lý.

Vị trí của nhà can thiệp đối với người được can thiệp

Một số chương trình tập huấn cho những người can thiệp nghiệp dư trình bày vị trí của người can thiệp ở phía sau lưng người được can thiệp. Thực ra, vị trí can thiệp này khá ít sử dụng, nhưng nếu không giải thích kĩ, những người được tập huấn, vốn dĩ đã là nghiệp dư, dễ mắc sai lầm khi khái quát hóa và khi thực hiện mở rộng theo kiểu tự học.

Vị trí của nhà can thiệp trong đa số các trường hợp vẫn là đối mặt…

Vậy vị trí phía sau lưng được áp dụng khi nào:

Can thiệp trong quy trình hình thành hành vi (mang tính kĩ năng, thói quen, mà KHÔNG mang tính thái độ)

Hỗ trợ người được can thiệp khi khái quát hóa trong môi trường tự nhiên

Hành vi được can thiệp không còn ở bước bắt chước hoặc việc bắt chước không chiếm vai trò quan trọng trong quy trình

Khi áp dụng vị trí này, nhà trị liệu dễ dàng giảm dần các gợi nhắc, và người được can thiệp dễ khái quát hóa trong các môi trường khác nhau.

Chương 06- Rối loạn tâm thần, hành vi hoặc phát triển thần kinh được thay đổi thế nào trong ICD 11

Trích dịch 13.8.6Chapter 06 – Mental, behavioural or neurodevelopmental disorders (tr 206)- Reference Guide Draft 2017-10-09

Cấu trúc của Chương 06

Hệ thống phân cấp của Chương 06 bao gồm:

– loại bệnh / loại rối loạn rộng

– – loại bệnh / rối loạn biệt định

– – – Tính đặc hiệu hơn của loại bệnh / rối loạn

Những thay đổi đối với chương này bao gồm tái cấu trúc hệ thống phân cấp, bao gồm các thuật ngữ hiện thực hơn và các nhóm biệt định cho nhiễm độc, sử dụng có hại và phụ thuộc theo loại chất.

Cấu trúc tuyến tính tổng thể của chương Rối loạn tâm thần, hành vi hoặc phát triển thần kinh được đề xuất cho ICD-11 là một chủ đề thảo luận thực chất và toàn diện của Nhóm tư vấn về rối loạn chủ đề về sức khỏe tâm thần, cũng như các tương tác sâu rộng với Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ liên quan đến Phiên bản thứ năm vừa được xuất bản của Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn Tâm thần (DSM-5) (Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ,  2013), kể từ thời điểm bổ nhiệm Ban đầu của Tổ tư vấn vào năm 2007.

Trong ICD-10, số lượng các nhóm lớn, hoặc ‘khối’, các rối loạn bị hạn chế một cách giả tạo bởi hệ thống mã hóa thập phân được sử dụng trong phân loại, sao cho chỉ có thể có tối đa mười nhóm rối loạn chính trong chương rối loạn tâm thần và hành vi (tương ứng với các chữ số từ 0 đến 9). Điều này có nghĩa là một số nhóm được tạo ra không dựa trên tiện ích lâm sàng hoặc bằng chứng khoa học. Ví dụ, trong ICD-10, một khối (F30-F39) được dành cho các rối loạn Tâm trạng (cảm xúc), trong khi Rối loạn lo âu chỉ đại diện cho một phần của một khối rộng và không đồng nhất (F40- F49) được gọi là ‘Rối loạn tâm sinh/ neurotic, liên quan đến stress và dạng cơ thể/ somatoform’. Một khối khác – ‘Hội chứng hành vi liên quan đến rối loạn sinh lý và các yếu tố thể chất’ – hợp nhất các rối loạn không liên quan đến các triệu chứng lâm sàng và triệu chứng ngoại trừ việc chúng có liên quan đến cơ thể.

Với các thông số cấu trúc hạn chế của ICD-10, các nhà phát triển phân loại đã cung cấp một bộ nhóm chẩn đoán hợp lý. Tuy nhiên, các đặc điểm cấu trúc linh hoạt hơn của ICD-11 cho phép kết hợp các tính năng chính dựa trên bằng chứng khoa học sẵn có và thực tiễn hiện tại để có phân loại học/nosology tối ưu hơn.

Kiến trúc thích hợp của phân loại chẩn đoán rối loạn tâm thần và hành vi là một vấn đề đã nhận được sự chú ý đáng kể trong quá trình sửa đổi2 . Một trong những nguyên tắc hướng dẫn của ICD-11 là nó phải phản ánh bằng chứng khoa học hiện tại liên quan đến mối quan hệ giữa các rối loạn 3 thay vì các khái niệm cổ xưa như ‘tâm căn/ neurosis ‘, có cấu trúc và giá trị dự đoán kém. Ngoài ra, mục tiêu chính của Khoa Sức khỏe Tâm thần và Lạm dụng Chất gây nghiện của WHO cho bản sửa đổi hiện tại là cải thiện tiện ích lâm sàng của phần này của ICD–114 . Bởi vì ICD-11 sử dụng một cấu trúc mã hóa khác không dựa trên hệ thống đánh số thập phân, sao cho một số lượng lớn hơn các khối hoặc nhóm có thể được cung cấp trong chương, một cơ hội quan trọng đã được trình bày để đưa phân loại phù hợp hơn với nghiên cứu hiện tại và thực hành lâm sàng về cách thể hiện các nhóm rối loạn.

Dòng công việc đầu tiên liên quan đến kết quả đánh giá bằng chứng của 14 Nhóm công tác báo cáo cho Nhóm tư vấn, mỗi nhóm có nhiều cuộc họp trực tiếp trong khoảng thời gian ít nhất 2 năm. Các nhóm công tác được yêu cầu xem xét các bằng chứng khoa học có sẵn và các thông tin khác về ứng dụng lâm sàng của các phân loại trong các môi trường khác nhau trên toàn thế giới, và cung cấp bằng chứng và lý do cho các nhóm của nó cũng như nội dung và sắp xếp các phạm trù trong đó. Công trình này dẫn đến các bản thảo mô tả cơ sở lý luận cho hầu hết các nhóm rối loạn đã được xuất bản hoặc nộp cho các tạp chí đánh giá ngang hàng5 . Không gian không cho phép nêu chi tiết cơ sở lý luận và bằng chứng cho từng thay đổi cấu trúc ở đây, nhưng thông tin này liên quan đến bất kỳ quyết định cụ thể nào có thể được cung cấp theo yêu cầu dựa trên tài liệu do Nhóm công tác tạo ra.

Nhánh công việc thứ hai liên quan đến cấu trúc tuyến tính của Rối loạn tâm thần và hành vi tập trung vào tiện ích lâm sàng và được đại diện bởi hai nghiên cứu thực địa hình thành được thực hiện bởi WHO và Nhóm điều phối nghiên cứu thực địa báo cáo cho Nhóm tư vấn6 . Mục đích của những nghiên cứu này là kiểm tra các khái niệm được tổ chức bởi các chuyên gia sức khỏe tâm thần trên khắp thế giới về mối quan hệ giữa các rối loạn tâm thần để thông báo các quyết định về cấu trúc của phân loại. Từ góc độ tiện ích lâm sàng, đặc biệt là về mặt cải thiện giao diện giữa thông tin y tế và thực hành lâm sàng, các tính năng quan trọng và mong muốn nhất của tổ chức phân loại là (a) nó giúp các bác sĩ lâm sàng tìm ra các loại mô tả chính xác nhất về bệnh nhân họ gặp một cách nhanh chóng, dễ dàng và trực quan nhất có thể và (b) các loại chẩn đoán thu được sẽ cung cấp cho họ thông tin hữu ích về mặt lâm sàng về điều trị và sự quản lý. Một phân loại rối loạn tâm thần khó khăn và cồng kềnh khi thực hiện trong thực hành lâm sàng và không cung cấp thông tin có giá trị ngay lập tức cho bác sĩ lâm sàng không có hy vọng được thực hiện chính xác ở cấp độ thể hiện trong các cơ sở chăm sóc sức khỏe thực tế. Trong trường hợp đó, thực hành lâm sàng sẽ không được hướng dẫn bởi việc tiêu chuẩn hóa và vận hành các khái niệm và danh mục vốn có trong phân loại, và các cơ hội quan trọng để cải thiện thực hành và đánh giá kết quả sẽ bị mất. Đổi lại, một hệ thống chẩn đoán được đặc trưng bởi tiện ích lâm sàng kém ở cấp độ thể hiện không thể tạo ra dữ liệu dựa trên những cuộc thể hiện đó sẽ là cơ sở hợp lệ cho các chương trình và chính sách y tế hoặc cho thống kê y tế toàn cầu. Lý do đằng sau hai nghiên cứu này là nếu các cách thức mà các bác sĩ lâm sàng khái niệm hóa tổ chức các rối loạn tâm thần như gặp phải trong thực hành lâm sàng hàng ngày của họ được tìm thấy là (a) nhất quán giữa các quốc gia, ngôn ngữ và ngành học, và (b) khác biệt với tổ chức ICD-10, thì thông tin này có thể được sử dụng để tạo ra một phân loại các rối loạn tâm thần tương ứng chặt chẽ hơn với tổ chức nhận thức của các bác sĩ lâm sàng về các loại và do đó sẽ được suy luận ngộ giác/ intuitive và hiệu quả hơn để sử dụng trong các cơ sở chăm sóc sức khỏe trong thế giới thực.

Nghiên cứu thực địa hình thành đầu tiên7 là một nghiên cứu dựa trên internet được thực hiện bằng cả tiếng Anh và tiếng Tây Ban Nha, trong đó có 1.371 bác sĩ tâm thần và nhà tâm lý học từ 64 quốc gia tham gia. Nghiên cứu thực địa hình thành thứ hai8 liên quan đến việc quản lý trực tiếp nhiệm vụ phân loại và phân cấp tiêu chuẩn hóa cho 517 chuyên gia sức khỏe tâm thần ở tám quốc gia và năm ngôn ngữ. Cả hai nghiên cứu đều cho thấy bản đồ khái niệm về rối loạn tâm thần của các bác sĩ lâm sàng là hợp lý và rất ổn định về nghề nghiệp, ngôn ngữ và mức thu nhập quốc gia. Hơn nữa, cả hai nghiên cứu đều cho thấy cấu trúc đề xuất cho các rối loạn tâm thần và hành vi trong ICD-11 phù hợp hơn với các mô hình khái niệm của bác sĩ lâm sàng so với cấu trúc của ICD-10 hoặc DSM-IV. Nghiên cứu thứ hai cũng chứng minh rõ ràng rằng các bác sĩ lâm sàng thích cấu trúc ‘phẳng hơn’ với số lượng nhóm lớn hơn, so với cấu trúc phân cấp hơn và ít nhóm hơn như được tìm thấy trong ICD-10.

Nhánh công việc thứ ba liên quan đến những nỗ lực hài hòa cấu trúc của chương ICD-11 về Rối loạn tâm thần và hành vi với cấu trúc của DSM-5 9 , nếu có thể. Nhìn chung, mức độ tương đồng cao giữa cấu trúc tổng thể của DSM-5 và cấu trúc tuyến tính được đề xuất cho Rối loạn tâm thần và hành vi ICD-11 thể hiện một thành công lớn của nỗ lực hài hòa ICD – DSM. Sự khác biệt tương đối nhỏ liên quan chủ yếu đến:

1.      đề xuất kết hợp các phân loại các khía cạnh ‘thực thể’ và ‘không thực thể’ của các tình trạng như rối loạn giấc ngủ và rối loạn chức năng tình dục trong ICD-11 theo các chương riêng biệt theo những cách phù hợp hơn với bằng chứng hiện tại và thực hành lâm sàng, không phải là một lựa chọn cho DSM-5 vì theo định nghĩa đó là một phân loại rối loạn tâm thần; và

2. sự khác biệt trong các quy ước liên quan đến các loại còn lại và rối loạn tâm thần liên quan đến bệnh tiềm ẩn khác theo ICD-11 từ các quyết định về việc tổ chức các loại đó trong DSM-5. Thông tin bổ sung về cơ sở lý luận cho một vài khác biệt thực chất còn lại trong cấu trúc tổng thể giữa hai phân loại có sẵn theo yêu cầu. Cần phải nhấn mạnh rằng sự tương đồng kết quả trong tổ chức giữa hai hệ thống là sản phẩm của nhiều năm đàm phán phức tạp. Do DSM-5 đã được xuất bản, những thay đổi tiếp theo đối với cấu trúc ICD-11 gần như chắc chắn sẽ di chuyển ICD-11 theo hướng giảm sự tương đồng và hài hòa với DSM-5.

2 (e.g., Andrews et al, 2009; First, 2009a; Jablensky, 2009; Wittchen, Beesdo, & Gloster, 2009)

3 (Hyman, 2010)

4 (Reed, 2010; International Advisory Group for the Revision of ICD–10 Mental and Behavioural Disorders, 2011)

5 (e.g., Al-Adawi et al., 2013; Creed & Gureje, 2012; Drescher, Cohen-Kettenis, & Winter, 2012; Gaebel, 2012; Maercker et al., 2013; Maj & Reed, 2012; Pozynak, Reed, & Clark, 2011; Rutter, 2012)

6 (Reed et al., 2013; Roberts et al., 2012

7 (Roberts et al., 2012)

8 (Reed et al., 2013)

Câu hỏi tìm hiểu cho phân môn Tâm thần năm học 2024- 2025

Sinh viên chuẩn bị: viết và thuyết trình các bài học theo buổi học, lưu ý

  • Do thay đổi khung chương trình đào tạo nên các cập nhật kiến thức không đưa vào tài liệu “sức khỏe tâm thần” mà để ở dạng tài liệu tham khảo. Một số bài quan trọng để ở dưới post này.
  • Mỗi bài do 1 nhóm chuẩn bị, phân công ít nhất 2 bạn trình bày, đề phòng có việc đột xuất. Một nhóm không được kiêm 2 bài trình bày trong 1 buổi học.
  • Slide trình chiếu ghi dưới dạng các từ khóa. Không copy đoạn văn bản dài.
  • Trình bày trong vòng 5-10 phút, không liệt kê các mục vì đã có sẵn tài liệu. Hãy trình bày về việc đọc hiểu bài học.
  • Cần trao đổi trước buổi trình bày liên hệ zalo 0899366618 hoặc zalo 0372776527. Các bạn học lại, cải thiện liên hệ BS Yến (Y5) hoặc BS Nga (Y3) số 0814759535.
Tên bàiSố tiết
1Đại cương
Các rối loạn tâm thần thực tổn (chương 1)
Một số cập nhật về Tâm thần kinh học, Khoa học thần kinh và xu thế can thiệp đa ngành
04
2–  Các rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng chất tác động tâm thần (chương 2)
– Các rối loạn loạn thần (chương 3)
– Các rối loạn khí sắc (chương 4)    
– Tác động không xâm lấn
04
3– Các rối loạn liên quan đến stress (chương 5)
– Hội chứng hành vi kết hợp với các rối loạn sinh lý (chương 6)
– Liệu pháp tâm lý
  04
4Các rối loạn tâm thần ở trẻ em và vị thành niên (chương 7)
Hóa dược điều trị các rối loạn tâm thần
04

Tài liệu là Sức khỏe tâm thần tập 2

https://thuvienadong.com/suc-khoe-tam-than-tap-2/

Bài cập nhật trong buổi 1 tham khảo ở đây về dàn bài và viết thuyết trình với kiến thức đã học trong năm 3. Giảng viên có trình bày ngắn về cập nhật sau đó.

https://thuvienadong.com/cap-nhat-ve-khoa-hoc-than-kinh-tam-than-kinh-hoc-dan-bai/

Các tóm tắt để tìm hiểu bài giảng năm 2021-2022 ở đây

https://adongclinic.vn/chuyen-muc/than-kinh-tam-ly-hoc

Tham khảo một số video ở đây

https://thuvienadong.com/video/

Nội dung giảng dạy lâm sàng:

STTTên bàiSố tiết
1Rối loạn tâm thần do rượu Rối loạn tâm thần do lạm dụng chất khác hoặc nghiện game02
2Tâm thần phân liệt Rối loạn loạn thần khác02
3Trầm cảm02
4Rối loạn cảm xúc lưỡng cực02
5Tự kỉ và ADHD hoặc Sa sút trí tuệ02
6Rối loạn lo âu02
7Hỏi thi (2 giảng viên)04
Bài bổ xung do Bs Thúy Anh giảng theo lịch bổ xungThực hành Lâm sàng dựa trên bằng chứng
https://thuvienadong.com/thuc-hanh-lam-sang-dua-tren-bang-chung/
Tham khảo thêm https://canthiepdanganh.com/2024/07/08/bac-si-co-thuc-su-kham-toan-dien/
02
TTTên bàiSố tiết
1– Đại cương về tâm lý học
– Các phương pháp nghiên cứu tâm lý học
– Ý thức- Chú ý
– Nhận thức và trí tuệ
– Cảm giác và tri giác
  04
2– Tư duy
– Trí nhớ
– Học tập
– Ngôn ngữ
– Nhân cách
04
3– Động lực- Thúc đẩy
– Cảm xúc
– Tâm lý xã hội học (Xã hội tính)
– Các giai đoạn của cuộc đời (Tâm lý phát triển)
– Khoa học thần kinh (chương 3)
  04
4– Rối loạn hành vi
– Rối loạn vận động và phối hợp vận động
– Rối loạn tri giác
– Rối loạn tư duy
– Rối loạn cảm xúc
-Rối loạn nhận thức, ý thức
04

Tài liệu là Sức khỏe tâm thần tập 1

https://thuvienadong.com/suc-khoe-tam-than-tap-1/

Hướng dẫn thực hành

Số buổi thực hành: 2

Thời gian thực hành: tương đương 4 tiết/ buổi

Chuẩn bị thực hành: mỗi tổ chia 4 nhóm. Chuẩn bị thực hành như sau:

Buổi 1: chuẩn bị 4 bài thuyết trình

Nhóm 1: bài Giao tiếp

Nhóm 2: Kĩ năng hỏi bệnh sử và tiền sử

Nhóm 3: Kĩ năng cung cấp thông tin

Nhóm 4: Kĩ năng thông báo tin xấu                                      

Buổi 2: Thuyết trình và Thực hành đóng vai tình huống giao tiếp mẫu.

Nhóm 1 bình luận bài Bị tử vong theo hướng dẫn và trình chiếu

Đọc bài viết “Bị tử vong”

 (lưu ý, đây không phải thể loại văn chứng minh, mà là áp dụng lý thuyết vào thực tế)

  • Phân tích tình huống theo cách tiếp cận trong bài Xã hội tính của con người
  • Phân tích tình huống theo tiếp cận Tâm lý phát triển
  • Phân tích tình huống theo tiếp cận Stress và ứng phó (bài đã được trình bày trong môn Tâm lý y đức, hoặc xem bài Tâm lý học sức khỏe trong tài liệu)
  • Phân tích tình huống theo tiếp cận Nhân cách
  • Phân tích tình huống theo tiếp cận Giao tiếp “thày thuốc và bệnh nhân”

Nhóm 2 Kĩ năng hỏi bệnh sử, tiền sử

Nhóm 3 Kĩ năng cung cấp thông tin

Nhóm 4 Kĩ năng thông báo tin xấu Phần thực hành sẽ dùng để đánh giá điều kiện thi – không đạt tương đương vắng 2 buổi lý thuyết

Tham khảo

https://thuvienadong.com/kien-thuc-va-ki-nang-tam-than-kinh-co-so/

https://thuvienadong.com/hoa-sinh-than-kinh-va-hanh-vi/

https://thuvienadong.com/mo-hinh-giai-phau-than-kinh-hanh-vi-theo-paul-ykovlev/

https://thuvienadong.com/chuong-trinh-giang-day-ve-tam-than-kinh-va-cac-nang-luc-lam-sang-chinh/

Phân loại Catatonia- căng trương lực – theo ICD11



Catatonia- căng trương lực

Mô tả: Căng trương lực là một hội chứng rối loạn tâm thần vận động chủ yếu được đặc trưng bởi sự xuất hiện đồng thời của một số triệu chứng như sững sờ; chứng giữ nguyên tư thế; tính tạo dáng kiểu sáp; nhại lời/echolalia và nhại vận động quy trình/echopraxia. Căng trương lực có thể xảy ra trong bối cảnh rối loạn tâm thần biệt định, bao gồm rối loạn khí sắc, tâm thần phân liệt hoặc các rối loạn tâm thần nguyên phát khác, và rối loạn phát triển thần kinh, và có thể do các chất tác động tâm thần, bao gồm cả thuốc gây ra. Catatonia cũng có thể do một tình trạng bệnh lý không được phân loại trong Rối loạn tâm thần, hành vi hoặc phát triển thần kinh gây ra.

Loại trừ:

• Tác hại của thuốc, dược phẩm hoặc chất sinh học, chưa được phân loại ở nơi khác (NE60)

Được mã hóa ở nơi khác:

• Hội chứng căng trương lực thứ phát (6E69)

6A40 Catatonia liên quan đến rối loạn tâm thần khác

Mô tả: Căng trương lực liên quan đến rối loạn tâm thần khác là hội chứng rối loạn tâm thần vận động chủ yếu được đặc trưng bởi sự xuất hiện đồng thời của một số triệu chứng như sững sờ; giữ nguyên tư thế; tính tạo dáng kiểu sáp; mất lời; phủ định; tư thế; cách cư xử; khuôn mẫu; kích động tâm lý; nhăn mặt; nhại lời/ echolalia và nhại vận động quy trình/ echopraxia. Các rối loạn tâm thần liên quan đến căng trương lực bao gồm Rối loạn tâm trạng, Tâm thần phân liệt hoặc rối loạn tâm thần nguyên phát khác và Rối loạn phát triển thần kinh, đặc biệt là rối loạn phổ Tự kỷ.

6A41 Căng trương lực do các chất kích thích thần kinh, bao gồm cả thuốc gây ra

Mô tả: Căng trương lực gây ra bởi các chất kích thích thần kinh, bao gồm cả thuốc là một hội chứng rối loạn tâm thần vận động chủ yếu phát triển trong hoặc ngay sau khi nhiễm độc hoặc cai nghiện chất gây nghiện hoặc trong quá trình sử dụng thuốc thần kinh (ví dụ: thuốc chống loạn thần, amphetamine, phencyclidine hoặc PCP). Hội chứng được đặc trưng bởi sự xuất hiện đồng thời của một số triệu chứng như sững sờ; giữ nguyên tư thế; tính tạo dáng kiểu sáp; mất lời; phủ định; tư thế; cách cư xử; khuôn mẫu; kích động tâm lý; nhăn mặt; nhại lời/ echolalia và nhại vận động quy trình/ echopraxia. Chất được chỉ điểm, cũng như số lượng và thời gian sử dụng, phải có khả năng tạo ra các triệu chứng căng trương lực.

6E69 Hội chứng căng trương lực thứ phát

Hội chứng catatonia thứ phát, “Hội chứng tâm thần hoặc hành vi thứ phát liên quan đến rối loạn hoặc bệnh được phân loại ở nơi khác” (6E69).

Mô tả: Hội chứng căng trương lực thứ phát là hội chứng rối loạn tâm thần vận động chủ yếu được đánh giá là do một tình trạng bệnh lý không được phân loại trong Rối loạn tâm thần, hành vi và phát triển thần kinh (ví dụ, nhiễm toan đái tháo đường, tăng canxi máu, bệnh não gan, homocystin niệu, tổn thương đầu do u tân sinh, bệnh mạch máu não, viêm não). Hội chứng được đặc trưng bởi sự xuất hiện đồng thời của một số triệu chứng như sững sờ; giữ nguyên tư thế; tính tạo dáng kiểu sáp; mất lời; phủ định; tư thế; cách cư xử; khuôn mẫu; kích động tâm lý; nhăn mặt; nhại lời/ echolalia và nhại vận động quy trình/ echopraxia.

6A4Z Catatonia, không xác định

Danh mục này là danh mục ‘không xác định’ còn lại.