Tâm lý học căn bản- Lý thuyết phát triển nhận thức luân lý của Kohlberg

Chúng ta nên xem xét lý thuyết này, bởi vì sự phát triển nhận thức của con người không thể thiếu nhận thức luân lý. Phần này cũng làm nền tảng cho sự phát triển của môn đạo đức nghề nghiệp trong tất cả các ngành khoa học cũng như các ngành nghề ứng dụng. Mặt khác, có thể nói, đạo đức của một người cũng phản ánh năng lực nhận thức của anh ta?

Đo lường sự phát triển đạo đức
Kể từ khi lý thuyết của Kohlberg phát triển, một số công cụ đo lường nhằm mục đích đo lường lý luận đạo đức đã được xây dựng. Kohlberg’s Moral Judgement Interview (1969) là một cuộc phỏng vấn có cấu trúc khá dài, đòi hỏi người phỏng vấn và người chấm điểm được đào tạo. Một công cụ khác là Kiểm tra vấn đề xác định được phát triển bởi James Rest (1974). Các biện pháp này, từ trắc nghiệm khách quan đến đánh giá khách quan, có cấu trúc, tất cả đều bao gồm một tập hợp các câu chuyện giả định liên quan đến các tình huống khó xử về đạo đức. Như vậy, không khó để hình dung rằng, chương trình đào tạo về đạo đức không phải là đưa ra tuyên bố mà chính là đào tạo kĩ năng lập luận trong các xung đột.

Hệ thống xếp thứ bậc của Kohlberg giả định rằng con người trải qua 3 mức độ theo một trình tự cố định, và rằng khoảng tuổi 13 người ta nếu không đủ sức vươn đến giai đoạn cao nhất thì chủ yếu do thiếu sót trong quá trình tiến triển trí tuệ trước độ tuổi ấy chưa được khắc phục. Tuy nhiên, nhiều người không bao giờ vươn đến được mức độ nhận thức luân lý cao nhất. Kohlberg cho rằng chỉ khoảng 25% tổng số người trưởng thành phát triển đến mức 3 trong mô hình của ông.

Mức 1: Luân lý tiền ước lệ. Ở mức  độ này, quan tâm cụ thể của cá nhân nhằm vào phần thưởng được hưởng và hình phạt phải gánh chịu. Gồm 2 giai đoạn:

Giai đoạn 1: Sự trừng phạt / định hướng vâng lời. Hành vi được quyết định bởi hậu quả. Cá nhân sẽ tuân theo để tránh bị trừng phạt. Giai đoạn 2: Định hướng mục đích công cụ. Hành vi lại được xác định bằng hậu quả. Cá nhân tập trung vào việc nhận phần thưởng hoặc thỏa mãn nhu cầu cá nhân.

Mức 2: Luân lý ước lệ. Đến mức độ này, người ta tìm cách giải quyết rắc rối về mặt luân lý, với tư cách là một thành viên của nhóm. Với xã hội, họ quan tâm làm hài lòng người khác bằng cách hành động như là phần tử lương thiện trong xã hội. Cũng gồm 2 giai đoạn:

Giai đoạn 3: Định hướng người tốt. Hành vi được xác định bởi sự chấp thuận của xã hội. Cá nhân muốn duy trì hoặc giành được tình cảm và sự chấp thuận của người khác bằng cách trở thành một “người tốt”. Giai đoạn 4: Định hướng luật và trật tự. Các quy tắc và luật lệ xã hội quyết định hành vi. Cá nhân bây giờ xem xét một viễn cảnh lớn hơn, đó là các quy luật xã hội. Việc ra quyết định về mặt đạo đức trở nên không chỉ đơn giản là xem xét mối quan hệ chặt chẽ với những người khác. Cá nhân tin rằng các quy tắc và luật pháp duy trì trật tự xã hội đáng được bảo tồn.

Mức 3: Luân lý siêu ước lệ. Ở mức độ này, người ta vận dụng các nguyên tắc luân lý được xem là bao quát hơn các nguyên tắc của bất kỳ một nhóm, cộng đồng đặc biệt nào. Gồm 2 giai đoạn:

Giai đoạn 5: Định hướng hợp đồng xã hội. Quyền của cá nhân quyết định hành vi. Các cá nhân xem luật và quy tắc như những công cụ linh hoạt để cải thiện mục đích của con người. Có nghĩa là, trong tình huống phù hợp, có những ngoại lệ đối với các quy tắc. Khi luật pháp không phù hợp với quyền cá nhân và lợi ích của đa số, chúng không mang lại lợi ích cho con người và cần xem xét các giải pháp thay thế. Giai đoạn 6: Định hướng nguyên tắc đạo đức phổ quát. Theo Kohlberg, đây là giai đoạn hoạt động cao nhất. Tuy nhiên, ông tuyên bố rằng một số cá nhân sẽ không bao giờ đạt được cấp độ này. Ở giai đoạn này, hành động thích hợp được xác định bởi các nguyên tắc đạo đức lương tâm do một người tự lựa chọn. Những nguyên tắc này là trừu tượng và phổ quát trong ứng dụng. Loại lập luận này liên quan đến việc xem xét quan điểm của từng người hoặc từng nhóm có thể bị ảnh hưởng bởi quyết định.

Đến nay các cuộc nghiên cứu sâu rộng đều cho thấy rằng các giai đoạn xác định bởi Kohlberg phản ánh hợp lý tiến trình phát triển nhận thức luân lý. Tuy vậy, các nghiên cứu ấy cũng nêu ra một số vấn đề về mặt phương pháp luận trong lý thuyết của Kohlberg. Một nghi vấn quan trọng là phương pháp của Kohlberg nhằm đánh giá các phán đoán / thẩm định (judgments) chứ không phải các hành vi (behaviors) luân lý. Phân biệt được đúng sai không có nghĩa là chúng ta sẽ luôn luôn hành động phù hợp với phán đoán của chúng ta.

Ngoài ra, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng việc hiểu các giai đoạn là tích lũy (ví dụ: nếu một người hiểu giai đoạn 3, người đó hiểu các giai đoạn thấp hơn nhưng không nhất thiết là các giai đoạn cao hơn) và việc hiểu các giai đoạn cao hơn ngày càng khó khăn. Hơn nữa, xu hướng phát triển đạo đức theo thời đại đã nhận được sự ủng hộ giữa các nền văn hóa. Cuối cùng, dữ liệu hỗ trợ tuyên bố rằng mọi cá nhân đều tiến bộ qua cùng một trình tự phát triển; tuy nhiên, tốc độ phát triển sẽ khác nhau.

Tiến trình phát triển nhận thức luân lý của nữ giới. Nhà tâm lý Carol Gilligan (1982, 1987) đã nêu ra được một thiếu sót quan trọng trong công trình nghiên cứu ban đầu của Kohlberg. Bà cho rằng công trình đã được tiến hành trong điều kiện chỉ sử dụng các đối tượng nghiên cứu là nam giới, nên thích hợp cho họ, hơn nữ giới. Ngoài ra bà lập luận đầy thuyết phục rằng, do kinh nghiệm xã hội hóa khác biệt nhau nên theo bà, nam giới quan niệm luân lý chủ yếu dưới dạng các nguyên tắc phổ quát như công lý và công bằng chẳng hạn, còn nữ giới xét luân lý theo khái niệm trách nhiệm đối với cá nhân và thiện chí hy sinh để giúp đỡ một cá nhân đặc biệt trong bối cảnh một mối quan hệ đặc thù. Lòng trắc ẩn đối với cá nhân là một yếu tố khá nổi bật trong hành vi luân lý đối với nữ giới hơn là nam giới. Như vậy, vì lý thuyết của Kohlberg quan niệm hành vi luân lý phần lớn căn cứ vào các nguyên tắc về công lý, nên nó không chính xác khi miêu tả tiến trình phát triển nhận thức luân lý khác, có vẻ thiên về của nữ giới. Yếu tố này lý giải được sự kiện khiến cho người ta ngạc nhiên là nữ giới nói chung thường đạt điểm số thấp hơn nam giới trong các trắc nghiệm thẩm định luân lý áp dụng chuỗi các giai đoạn phát triển của Kohlberg.

Hiểu đúng khái niệm “chơi” trong can thiệp sớm

Nghĩa phổ biến nhất của từ “PLAY” trong tiếng Anh, khi dịch sang tiếng Việt, là một hoạt động chơi đùa, giải trí (danh từ), tham gia một trò chơi (động từ). Tuy nhiên, theo đại từ điển Anh- Việt của Bùi Phụng, Nhà xuất bản Từ điển bách khoa và Công ty sách Hà Nội (2003) thì bảng nghĩa của từ bao gồm:

Danh từ

1. Chơi đùa, giải trí. Trẻ con đang nô đùa trong công viên.

2 Đùa bỡn đối xử một cách khinh thường. Hãy nghiêm chỉnh đường đùa bỡn với tôi.

3. Suy nghĩ không có mục đích cụ thể. Anh ta thích suy nghĩ viển vông từ những ý niệm.

4. Chơi chữ (sử dụng tính đa nghĩa hay đồng âm của từ). Anh ta chơi chữ.

5. Lợi dụng. Họ đang lợi dụng những sự sợ hãi.

6 Cử động nhẹ nhàng. Họ nhìn ánh sáng chập chờn trên mặt nước.

7. Hoạt động trong những giới hạn chặt chẽ. Đàn piano này chơi hay.

8 Chơi nhạc. Kéo đàn violon.

9. Phát ra âm thanh hoạt động. Radio mở rất to. Cái radio của nó đang phát âm thanh.

10. Biểu diễn, đóng kịch. Đóng trong một bộ phim.

11. Đánh bạc.

12 Chơi, đánh, đá. Chơi hay.

13. Đối xử ăn ở. Ăn gian.

14. Nã súng vào. Phun nước.

15. Đình công (công nhân).

Động từ

1. Tham dự một công việc, một trò chơi. Chơi bóng đá. Tham dự cuộc tranh cãi.

2. Đóng vai. Đóng vai thằng ngốc.

3. Chơi nhạc. Kéo đánh thổi. Kéo đàn violon.

4. Khai thác lợi dụng. Lợi dụng thị trường.

5. Chiếu (đèn pha), phun (nước).

6. Chơi xỏ. Chơi ai một vố?

7. Giật giật dây câu cho cá mệt lử.

Danh từ

1. Trò chơi cuộc chơi, hoạt động để giải trí. Trò chơi trẻ con. Tiếng cười vui vẻ của bọn trẻ đang chơi đùa. Cô ấy chỉ đùa thôi, cô ấy không có ý định thật đâu.

2. Cách chơi, lối chơi. Lối chơi phòng ngự.

3. Vở kịch. Một trong những vở kịch nổi tiếng của …

4. Phạm vi hoạt động.

5. Cờ bạc.

6. Luật chơi.

7. Ảnh hưởng.

Vì vậy “chơi” ở trẻ em phải được hiểu là một hoạt động (gồm cả nhận thức và vận động) mà trong đó trẻ tiến hành quá trình học tập, với cả 2 hình thức: điều kiện cổ điển và điều kiện tạo tác. Các hoạt động này của trẻ dần dần sẽ được cấu trúc, nghĩa là gồm nhiều thành tố có ý thức, vô thức sẽ giảm dần. Và chuẩn bị cho khả năng tham gia hoạt động cấu trúc chặt chẽ ở giai đoạn học đường. Hoạt động chơi của trẻ em vì thế phải được mô tả theo lý thuyết phát triển nhận thức của Piaget cũng như lý thuyết phát triển xã hội của Erikson, từ đó đặt ra các khái niệm can thiệp.

Khi theo học các course ngôn ngữ trị liệu ở Việt Nam hiện nay ta có thể bị rối về khái niệm này, và càng khó để hiểu khái niệm “can thiệp chơi”. Nếu chữ ta nhìn chữ “chơi” theo góc độ là một hoạt động, thì việc nhận ra phương pháp can thiệp này xuất phát ở bên hoạt động trị liệu (OT) sẽ không làm ta ngạc nhiên. Đồng thời việc tìm hiểu và nâng cao kiến thức về lĩnh vực can thiệp này sẽ chuẩn xác.

Tâm lý học căn bản- Lý thuyết phát triển nhận thức của Piaget

Tuy đây là một trong những lý thuyết rất căn bản trong tâm lý học phát triển, nhất là các chuyên ngành liên quan đến giáo dục mầm non, tiểu học. Nhưng bài dịch của các nhà sư phạm vẫn tôi khó hình dung vấn đề. Vì vậy, trích đăng ở đây, để dễ dàng cho việc tham vấn.

Không lý thuyết phát triển nhận thức nào gây nhiều ảnh hưởng bằng lý thuyết của nhà tâm lý Thụy Sĩ Jean Peaget. Peaget (1970) cho rằng mọi đứa trẻ đều phải trải qua một loạt gồm bốn giai đoạn riêng biệt theo một trình tự nhất định. Lý thuyết này rất quan trọng trong tâm lý giáo dục. Ông chủ trương rằng các giai đoạn này khác biệt nhau không chỉ về số lượng thông tin ở mỗi giai đoạn, mà còn về tính chất của kiến thức và cách tìm hiểu nữa. Đứng trên quan điểm của ngươi tương tác, ông cho rằng muốn chuyển mình từ một giai đoạn sang giai đoạn kế tiếp trẻ phải vươn đến mức trưởng thành nhất định và từng trải đủ loại kinh nghiệm thích hợp. Không có được các kinh nghiệm ấy, chưa thể xem trẻ có đủ khả năng vươn được đến đỉnh điểm phát triển trí tuệ của chúng. Peaget gọi bốn giai đoạn ấy là giai đoạn vận động giác quan, chuẩn bị vận dụng năng lực tư duy, vận dụng tư duy cụ thể, và vận dụng tư duy chính thức.

Giai đoạn vận động giác quan: từ khi sinh đến 2 tuổi Trong thời kỳ đầu thuộc giai đoạn vận động giác quan (senserimotor stage), trẻ tương đối ít khả năng dùng hình ảnh, ngôn ngữ hay các dạng biểu tượng khác để tượng trưng cho sự vật thuộc bối cảnh gặp phải trong tâm trí chúng. Do đó, trẻ không nhận biết được vật hoặc người nào không tức thời hiện hữu vào thời điểm cảm nhận. Chúng thiếu loại khả năng mà Peaget gọi là khả năng nhận thức tính bền vững của đối tượng cảm nhận (obiect permanence). Đây chính là khả năng nhận biết rằng vật và người – vẫn cứ hiện hữu dù chúng khuất khỏi tầm nhìn của chúng ta.

Giai đoạn chuẩn bị vận dụng năng lực tư duy: từ 2 tuổi đến 7 tuổi Sự phát triển quan trọng nhất trong giai đoạn chuẩn bị vận dụng năng lực tư duy (preoperational stage) chính là hành vi sử dụng ngôn ngữ. Trẻ thiết lập hệ thống biểu tượng trong tâm trí chúng về thế giới chung quanh cho phép chúng miêu tả được con người, sự việc, và các trạng thái về tình cảm. Thậm chí trẻ có thể chơi giả vờ.

Trẻ có lối tư duy qui ngã (egocentric thinking) trong đó trẻ không phân biệt được mình và người khác. Trẻ trong giai đoạn này thường cho rằng mọi người đều có cách nhìn và kiến giải giống như chúng.

Trẻ chưa hiểu nguyên lý bảo tồn (principle of conservation), nên không biết được rằng số lượng, khối lượng, hoặc chiều dài của một vật có thể không biến đổi dù cho hình dáng của vật ấy có bị thay đổi đi.

Giai đoạn vận dụng năng lực tư duy cụ thể: từ 7 tuổi dến 12 tuổi Khởi đầu giai đoạn vận dụng năng lực tư duy cụ thể (concrete operational stage) được đánh dấu bởi khả năng am hiểu nguyên lý bảo tồn, nhưng vẫn còn vài khía cạnh thuộc nguyên lý này – như bảo tồn trọng lượng và thể tích – chưa được am hiểu hoàn toàn trong vài năm.

Trong suốt giai đoạn này, trẻ phát triển năng lực tư duy theo cung cách logic hơn, và chúng bắt đầu khắc phục được phần nào lối tư duy qui ngã trong giai đoạn chuẩn bị vận dụng trước đây.

Một trong các nguyên lý quan trọng mà trẻ học hỏi được trong giai đoạn này là nguyên tắc nghịch đảo (reversibility), tức là khái niệm cho thấy một số biến đổi không thực hiện được bởi đảo ngược một tác động trước đó. Thí dụ, trẻ trong giai đoạn vận dụng tư duy cụ thể có khả năng hiểu rằng một cục đất sét hình cầu được nhồi thành vật có hình khúc dồi dài có thể làm lại thành cục đất hình cầu ban đầu bằng động tác ngược lại. Thậm chí chúng có thể khái niệm hóa nguyên lý này trong tâm trí mà không cần phải nhận thấy hành động thực hiện trước mắt.

Mặc dù trẻ có nhiều tiến bộ quan trọng về khả năng lý luận logic trong giai đọan vận dụng tư duy cụ thể này, nhưng năng lực tư duy của chúng vẫn còn bị một giới hạn quan trọng: nói chung trẻ còn bị ràng buộc vào khía cạnh thực tại vật chất cụ thể của thế giới xung quanh. Phần lớn chúng gặp khó khăn trong việc tìm hiểu các vấn đề có bản chất giả thuyết trừu tượng.

Giai đoạn vận dụng năng lực tư duy chính thức: từ 12 tuổi Giai đoạn vận dụng năng lực tư duy chính thức (formal operational stage) nảy sinh các tư duy mới mẻ: tư duy logic, chuẩn xác, và trừu tượng. Cách tư duy không còn bị trói buộc vào các sự kiện quan sát được trong bối cảnh nữa, mà lại vận dụng các kỹ thuật luận lý để giải các bài toán.

Mặc dù lối tư duy logic, chuẩn xác xuất hiện ở độ tuổi thiếu niên, nhưng trong một số trường hợp dạng tư duy này chỉ thỉnh thoảng mới được vận dụng đến. Hơn nữa, dường như nhiều người chưa bao giờ vươn đến được giai đoạn phát triển trí tuệ này.

Lý thuyết phát triển trí tuệ toàn diện của Piaget có chính xác? Chưa có lý thuyết gia nào trình bày cho chúng ta một lý thuyết phát triển trí tuệ toàn diện bằng Piaget. Thế nhưng, một số lý thuyết gia đương đại lại cho rằng cách miêu tả tiến trình phát triển trí tuệ của trẻ sẽ hoàn hảo hơn nếu người ta dùng các tiếp cận không phân chia tiến trình thành các giai đoạn tách biệt. Chẳng hạn, trẻ không luôn luôn đáp ứng được các yêu cầu mà – nếu như lý thuyết của Piaget chính xác- chúng có nhiệm vụ phải hoàn thành đúng mức ở một giai đoạn nhất định. Nhưng đôi khi, trẻ đáp ứng yêu cầu sớm hơn. Nói chung Piaget đã cống hiến cho chúng ta một lý giải đúng đắn về các biến chuyển có mốc phát triển thời gian, có thể hình dung dễ dàng. Hơn nữa, ảnh hưởng của thuyết này  với tâm lý học phát triển là vô cùng lớn lao bởi học tập là một chức năng nhận thức nền tảng cho quá trình phát triển.

Trí thông minh (IQ)- Hiệu ứng Flynn

Khi còn nhỏ, tôi đã đọc câu này từ đâu đó ” Chúng ta đứng trên vai những người khổng lồ”. Câu nói hàm ý rằng, chúng ta có thể được thừa hưởng kho trí tuệ từ những thế hệ đi trước. Nhờ thế, các thế hệ sau này mất ít thời gian hơn để đạt được tới ngưỡng mức hiểu biết nào đó.

Trong những năm qua, việc giảng dạy một môn học mà tôi là giảng viên duy nhất, cũng mang lại cho tôi những góc nhìn thú vị. Có những khái niệm mà tôi chật vật truyền đạt cho sinh viên ở những năm đầu tiên khi cập nhật, thì những năm sau các sinh viên ở cùng thời kì đã tiếp nhận nó một cách dễ dàng hơn rất nhiều. Vì thế không chờ tới khi đọc về hiệu ứng này, tôi đã thấy minh chứng của nó, tuy rằng chưa tiến hành được một nghiên cứu cụ thể.

Sau đây là trích dịch Understanding Psychology, phiên bản thứ 10 của Robert Stephen Feldman viết về hiệu ứng này.

Trí thông minh cũng linh hoạt hơn và có thể thay đổi được so với hình dung ban đầu. Ví dụ, các nhà nghiên cứu đã bối rối bởi dữ liệu cho thấy sự gia tăng lâu dài về điểm IQ đã xảy ra từ đầu những năm 1900. Bởi vì người bình thường ngày nay nhận được nhiều mục đúng hơn trong các bài kiểm tra IQ so với người bình thường vài thế hệ trước, điểm số đã tăng lên đáng kể — một hiện tượng được đặt tên là hiệu ứng Flynn theo tên người phát hiện ra nó, nhà tâm lý học James Flynn. Hiệu ứng Flynn không hề nhỏ, với thành tích của thanh niên 20 tuổi trung bình ngày nay cao hơn 15 điểm so với thành tích của thanh niên 20 tuổi trung bình vào năm 1940 (Flynn, 2000, 2007).
Nguyên nhân của hiệu ứng Flynn không rõ ràng. Flynn và một đồng nghiệp, nhà kinh tế học William Dickens, cho rằng điểm số cao hơn là do mọi người đã kết hợp các món quà di truyền của họ với môi trường của họ. Bởi vì xã hội ngày càng phức tạp và được thúc đẩy bởi công nghệ, ngày càng đặt ra yêu cầu rằng những người có trí thông minh cao phải đặc biệt thông thạo trong việc đáp ứng. Do đó, xã hội tạo cơ hội lớn hơn cho những người có chỉ số IQ cao để vượt trội và môi trường đó thúc đẩy họ thậm chí còn phát triển trí tuệ hơn, tạo ra sự gia tăng tổng điểm về chỉ số IQ (Dickens & Flynn, 2001; Flynn, 2007).
Các giải thích khác cho hiệu ứng Flynn cho rằng nó có thể là do chế độ dinh dưỡng tốt hơn, nuôi dạy con cái tốt hơn hoặc những cải thiện trong môi trường xã hội nói chung, bao gồm cả giáo dục. Dù nguyên nhân là gì, thì sự thay đổi điểm số IQ qua thế kỷ không phải do những thay đổi tiến hóa trong di truyền của con người: khoảng thời gian mà hiệu ứng Flynn xảy ra là quá ngắn để con người có thể tiến hóa thành một loài thông minh hơn (Loehlin, 2002; Sunder Borren, & Tambs, 2008; Lynn, 2009).

Tâm lý học căn bản- các quy luật Gestalt

Chúng ta sẽ tìm hiểu một chút về các quy luật có từ thế kỷ 19 này, và xem xét chúng trong tiến trình nhận thức tổng thể hơn với đặc điểm là  xử lý thông tin trên xuống.

Quy luật về tính trọn vẹn của tri giác- tính khép kín (closure) của cấu trúc

Trong quá trình tri giác, các thuộc tính bên ngoài, cụ thể của sự vật, hiện tượng luôn được con người phản ánh trong một kết cấu chặt chẽ, theo một cấu trúc nhất định. Sự tổng hợp này được dựa trên cơ sở phối hợp hoạt động của nhiều cơ quan phân tích, nhờ đó tạo một hình ảnh trọn vẹn về đối tượng.

Tính trọn vẹn của tri giác có được là nhờ kết cấu nhất định của bản thân sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới khách quan, kết hợp với vốn kinh nghiệm của con người về đối tượng vào khả năng phân tích, tổng hợp của vỏ não… Điều đó có nghĩa là khi ta được tiếp xúc với càng nhiều thuộc tính, bộ phận của sự vật thì ta càng dễ dàng, nhanh chóng tạo ra được hình ảnh tương đối đầy đủ về chúng. Mặt khác, khi có nhiều kinh nghiệm về đối tượng nào đó thì chỉ cần dựa vào một số ít thuộc tính, bộ phận của chúng, ta vẫn có thể tri giác được đó là sự vật hay hiện tượng gì.

Hình minh họa cho tính trọn vẹn của tri giác

(Thoạt nhìn, hình trên trông như những vết lốm đốm mà không ra một hình thù nào cả. Nhưng sau khi nhìn kỹ lại, ta có thể thấy hình của một con chó.)

Những người có thính giác bình thường, phát triển các chiến lược để hiểu được lời nói trong ngữ cảnh và bộ não của chúng ta có thể tự động điền vào các âm vị, hình vị bị thiếu. Trẻ sơ sinh đang học nói và ngôn ngữ cần phải nghe được tất cả các tần số âm thanh để học cách phân biệt và lưu giữ các nhận thức này.

Quy luật về tính lựa chọn của tri giác- quy luật hình/nền (figure/background)

Tính lựa chọn của tri giác thể hiện sự chú ý của con người đối với các sự vật, hiện tượng đang tri giác, thể hiện trạng thái có ý thức trong hoạt động nhận thức.

Trên thực tế, trong cùng một lúc có rất nhiều sự vật, hiện tượng tác động đến các giác quan của chúng ta. Chú ý chọn lựa (selective attention) là tiến trình nhận thức có chọn lựa loại kích thích nào phải chú ý đến. Chúng ta đặc biệt chú ý đến các loại kích thích tỏ ra đặc biệt tương phản nhau về mức độ sáng, bề rộng, mức độ ồn ào, mức độ mới lạ, hoặc mức độ cao thấp. Chúng ta cũng chú ý nhiều đến các kích thích có ý nghĩa đặc biệt phù hợp với các kỳ vọng riêng tư của chúng ta. Thí dụ, khi đói chúng ta sẽ dễ cảm nhận các kích thích do thức ăn và các sự vật liên hệ đến thức ăn gây ra.

                  

Hình ảnh minh họa cho tính lựa chọn của tri giác

     Hãy xem hình trên đây:

(A) là hình không rõ ràng, khi thì nó trông như là hình một cô gái trẻ, khi thì trông như là hình một bà già.

(B) và (C) thì tương đối rõ ràng hơn, hai bức tranh đã mô tả rõ nét hai hình ảnh: một là hình ảnh của cô gái trẻ, một là hình ảnh của bà già.

Người ta không phản ứng thụ động đối với các kích thích, với tri giác thị giác, người ta cố gắng tách biệt hình ảnh (figure) ra khỏi nền (background) của nó. Thực chất của quá trình tri giác tích cực là quá trình tách đối tượng ra khỏi bối cảnh xung quanh. Vì vậy, những sự vật (hay thuộc tính của một sự vật) càng phân biệt với bối cảnh thì ta tri giác nó càng dễ dàng. Trong quá trình tri giác, do có tính lựa chọn mà đối tượng và bối cảnh tri giác có thể hoán đổi cho nhau: một vật nào đó vào lúc này là đối tượng, lúc khác có thể trở thành bối cảnh và ngược lại, một vật lúc này là bối cảnh, lúc khác lại có thể trở thành đối tượng.

Trong lĩnh vực thính giác, các nhà tâm lý đã xây dựng một phương pháp gọi là nghe rẽ đôi (dichotic listening) trong đó một người mang hai tai nghe, mà mỗi bên tai, cùng một lúc được nghe một thông điệp khác biệt với bên tai kia để tìm hiểu quy luật tri giác này. Người đó được yêu cầu lặp to lại một trong các thông điệp khi nó vào đến một bên tai – tiến trình này gọi là bắt bóng (shadowing), bởi vì giọng nói của người nghe ấy tác động như một cái “bóng” âm thanh của thông tin đang được truyền đến. Hầu hết mọi người đều làm được khá dễ dàng.

Quy luật về tính giản lược của tri giác

Kết quả của quá trình tri giác là con người đã tạo ra được hình ảnh trọn vẹn của một sự vật, hiện tượng nào đó trong thế giới khách quan. Hình ảnh này bao giờ cũng có một ý nghĩa đơn giản nhất. Điều đó thể hiện qua việc con người gọi được tên hoặc sắp xếp đối tượng tri giác vào một nhóm sự vật, hiện tượng cùng loại, chỉ ra được công cụ, ý nghĩa của nó đối với hoạt động và đời sống của con người. Quy luật giản lược này được thể hiện qua các tính chất sau:

Tính đồng dạng (similarity) đề cập đến xu hướng tri giác những thứ trông giống như là một phần của cùng một nhóm. Khi các thành viên của một đội thể thao mặc đồng phục có cùng màu, nó cho phép mọi người xem trò chơi cảm nhận họ như một nhóm ngay cả khi họ nằm rải rác trên sân hoặc sân đấu.

Tính tương cận (proximity) Một quy tắc tri giác rất đơn giản khác là xu hướng nhận thức các đối tượng gần nhau như là một phần của cùng một nhóm, một nguyên tắc gọi là sự gần gũi hoặc gần kề.

Tính tiếp tục (continuity) dễ hiểu khi nhìn thấy hơn là khi giải thích bằng lời. Nó đề cập đến xu hướng nhận thức mọi thứ một cách đơn giản nhất có thể với một mẫu liên tiếp hơn là với một mẫu bị phá vỡ hay phức tạp.

Tính liên tiếp (contiguity) được thể hiện không chỉ liên quan đến gần về không gian mà còn gần về thời gian. Về cơ bản, sự liên tiếp là xu hướng nhận thức hai điều xảy ra gần nhau trong thời gian là có liên quan. Thông thường sự kiện xảy ra đầu tiên được coi là gây ra sự kiện thứ hai. Người nói tiếng bụng tạo ra giọng hát mà không di chuyển miệng của họ làm cho mọi người có xu hướng tin rằng hình nộm đang thực hiện việc hát là do sự liên tiếp (hình nộm mấy máy môi và giọng hát đi tiếp ngay sau). Các quy luật giản lược này hiện cũng được giải thích bởi chức năng điều hành có hạn chế dung lượng trong xử lý thông tin và số lượng chú ý luôn có giới hạn.

Tâm lý học căn bản- sự chú ý

Đây là phần soạn cho giảng dạy về hiểu biết cơ bản về các chức năng tâm lý của con người mà một bác sĩ cần trình bày được. Sách Sức khỏe Tâm thần – tài liệu lưu hành nội bộ của Học việc Y dược học cổ truyền Việt Nam

Định nghĩa

Chú ý là sự tập trung của ý thức vào một (hay một nhóm) đối tượng, sự vật, hiện tượng nào đó và tương đối “thoát ly” khỏi các đối tượng khác.

Chú ý được xem là một trạng thái ý thức “chọn lọc” trong quá trình nhận thức.

Mặc dù phần lớn việc xử lý thông tin của chúng ta là có ý thức, nhưng phần lớn là vô thức và tự động – nằm ngoài ý thức của chúng ta. Ý thức có chọn lọc (chú ý)  của chúng ta, hướng sự ý thức khi đang nhận thức của chúng ta, cho phép chúng ta thu thập thông tin từ nhiều nguồn khi chúng ta suy ngẫm về quá khứ và lập kế hoạch cho tương lai. Chúng ta cũng chú ý khi chúng ta tìm hiểu một khái niệm hoặc hành vi phức tạp. Khi học đi xe đạp, ban đầu, chúng ta tập trung vào vận động của chân với bàn đạp, đồng thời, nhận ra các chướng ngại vật xung quanh mà chúng ta phải tránh và cách sử dụng phanh. Với việc luyện tập (luyện một kĩ năng), việc đạp xe trở nên bán tự động, giúp chúng ta không cần tập trung chú ý vào vận động của chân nữa, thậm chí, với một cung đường quen thuộc thì các chướng ngại vật không còn khiến chúng ta vất vả, mà tập trung những việc khác nữa. Khi làm như vậy, chúng ta trải nghiệm điều mà nhà tâm lý học đầu tiên William James gọi là “dòng ý thức” liên tục, với mỗi khoảnh khắc chảy sang khoảnh khắc tiếp theo. Theo thời gian, chúng ta còn xoay chuyển giữa các trạng thái ý thức khác nhau, bao gồm ngủ, thức và các trạng thái thay đổi khác nhau. (David G. Myers, 2014)

Người ta vẫn thấy: chăm chú nhìn, lắng tai nghe, … là những biểu hiện của chú ý. Chú ý không có đối tượng riêng, đối tượng của nó chính là đối tượng của tri giác mà nó “đi kèm”. Chú ý thường thể hiện qua những biểu hiện bề ngoài tại cơ quan giác quan… Nhưng những biểu hiện này chỉ là bề ngoài, vì sự chú ý thực sự luôn luân chuyển hoặc thay đổi theo quá trình nhận thức có ý thức, vì thế người ta có thể “vờ chú ý” hoặc “vờ không chú ý” khi nhấn mạnh vào biểu hiện giác quan không tương ứng với sự chú ý.

Vậy chú ý được coi là biểu hiện của các hoạt động nhận thức có ý thức.

Các loại chú ý

Việc phân loại này cần thiết cho việc mô tả lâm sàng, phản ánh sự tự nguyện của cá nhân. Có 3 loại chú ý: chú ý không chủ định, chú ý có chủ định và chú ý sau chủ định.

Chú ý không chủ định là loại chú ý không có mục đích tự giác, không cần có sự nỗ lực của bản thân. Chú ý không chủ định phụ thuộc vào đặc điểm của kích thích như:

– Tính chất bất ngờ, mới lạ của kích thích

– Cường độ kích thích

– Sự tương phản giữa vật kích thích và bối cảnh

Loại chú ý này thường nhẹ nhàng, ít căng thẳng, nhưng kém bền vững, khó duy trì lâu dài, do các quy luật về tri giác chi phối, không có tính tự nguyện (xử lý thông tin từ dưới lên).

Chú ý có chủ định là loại chú ý có mục đích định trước hoặc do tiếp thu mệnh lệnh (của người khác) và phải có sự nỗ lực của bản thân, còn gọi là sự chọn lọc chú ý- liên quan đến nhận thức, có tính tự nguyện, một cách hoạt động tư duy (xử lý thông tin từ trên xuống). Loại chú ý này thường có thể duy trì tương đối lâu dài nhưng căng thẳng, mệt mỏi.

Chú ý sau chủ định vốn là chú ý có chủ định, nhưng không đòi hỏi sự căng thẳng của ý chí, lôi cuốn con người vào nội dung và phương thức hoạt động tới mức khoái cảm (động lực thúc đẩy hay cảm xúc).

Ví dụ: khi bắt đầu đọc sách đòi hỏi phải có chú ý có chủ định, nhưng càng đọc ta càng bị lôi cuốn vào nội dung của cuốn sách,  nói cách khác, nội dung này đã mang lại cho chúng ta động lực, mà không cần sự nỗ lực cao, sự căng thẳng của ý chí. Như vậy, là chú ý có chủ định đã chuyển thành chú ý sau chủ định.

Các thuộc tính của chú ý

Các thuộc tính, hay nói cách khác, là các đặc điểm, có thể dùng để mô tả về sự chú ý của cá nhân tại một thời điểm.

Sức tập trung của chú ý là khả năng chú ý đến một phạm vi đối tượng tương đối hẹp. Phạm vi đối tượng càng hẹp thì sức tập trung chú ý càng cao, cường độ chú ý càng lớn và hiệu quả công việc cũng càng cao, phản ánh đối tượng càng rõ ràng, chính xác.

Hiện tượng “đãng trí bác học” là do quá trình tập trung vào một đối tượng nào đó, khiến chú ý không phân phối được sang các đối tượng khác hay phạm vi khác khi cần thiết.

Số lượng chú ý là số lượng các đối tượng (hay số lượng bộ phận của một đối tượng) được tri giác đồng thời với nhau. Nghĩa là trong cùng một lúc, mức độ sáng tỏ và rõ ràng của các mục tiêu ấy đều được cảm thụ như nhau.

Nếu không có tập luyện, thì việc chú ý đến nhiều đối tượng sẽ là sự phân phối chú ý là khả năng luân phiên sức tập trung chú ý (di chuyển chú ý rất nhanh) đến vài ba phạm vi đối tượng mà vẫn phản ánh từng phạm vi đó rõ ràng, chính xác như nhau. Đặc điểm này thường phản ánh sự thuần thục của hoạt động, chứ một hoạt động mới mẻ thường không thể có thuộc tính này của sự chú ý.

Sự bền vững của chú ý là duy trì chú ý lâu hay chóng vào một hay một số phạm vi đối tượng của hoạt động. Khả năng này phụ thuộc vào: cường độ kích thích, sự trưởng thành của hệ thần kinh, tính chất của hoạt động, khả năng nhận thức…

Người ta nghiên cứu thấy rằng trong sự bền vững của chú ý có sự dao động –  là sự sao nhãng, phân tách, hay nói chính xác là sự không tập trung chú ý vào đối tượng chính trong khoảng từ 3-15 giây theo những chu kỳ nhất định, nhưng không xa rời đối tượng của chú ý. Sự bền vững chú ý phát triển theo độ tuổi. Trẻ em có sức bền chú ý tương đối thấp, nên bố trí thời gian cho một giờ học ở trẻ mẫu giáo bé chỉ vào khoảng 10 phút.

Về tâm lý phát triển tuổi trưởng thành- bài 5

Đây là bài cuối trong loạt bài trích dịch từ The Seasons of a Man’s Life của Levinson. Vừa thỏa mãn về vấn đề bản quyền (thời gian xuất bản sách sắp đủ 50 năm, và trích dịch nhằm mục tiêu giảng dạy), vừa có hạn chế về thời gian làm việc, nên tôi chỉ trích phần viết mang tính tổng quan và bàn luận của tác giả. Bạn đọc có thể tìm bản gốc để tham khảo.

Khi được quan sát và trải nghiệm ngay lập tức, mọi cuộc sống đều mang phong cách riêng, vô trật tự và đa dạng. Sự khác biệt rõ ràng hơn nhiều so với sự tương đồng. Tuy nhiên, luận điểm cơ bản của cuốn sách này là ngay cả những cuộc sống khác biệt nhất cũng được điều chỉnh bởi cùng một trật tự cơ bản – một chuỗi các kỷ nguyên và các thời kì phát triển. Thứ tự này thường không rõ ràng ngay lập tức. Nó phải được suy ra từ một mảng dữ liệu tiểu sử thực sự đáng kinh ngạc. Nhưng nếu lý thuyết phát triển của chúng ta về tuổi trưởng thành có bất kỳ giá trị nào — và tôi tin chắc rằng nó đúng — nó sẽ cho phép chúng ta tìm thấy hình dạng và ý nghĩa trong bất kỳ quá trình sống cá nhân nào. Và nó sẽ làm được điều này mà không làm giảm nguyên liệu thô – những chi tiết khác nhau tuyệt vời về sự tồn tại của mỗi con người – thành một nhóm danh mục hoặc đơn thuốc đơn giản cho sự bình thường.

Nghiên cứu này mang tính tiểu sử trong cách tiếp cận lý thuyết, phương pháp và chủ đề của nó. Chúng tôi quan tâm hơn tất cả đến cuộc sống cá nhân vì nó đã tồn tại qua nhiều năm. Vì vậy, chúng ta nên sử dụng tiểu sử thực tế để báo cáo những phát hiện của mình là điều thích hợp. Tiểu sử minh họa loại tài liệu mà từ đó chúng tôi xuất phát ý tưởng của mình và khả năng ứng dụng phi thường của những ý tưởng này trên một loạt các tính cách và điều kiện xã hội. Khi lướt qua, chúng tôi sẽ đề cập đến nhiều trong số bốn mươi chủ đề của chúng tôi. Nhưng cuộc sống của bốn người đàn ông sẽ được giải quyết trong một số chi tiết. Tiểu sử của họ nằm ở đâu đó giữa một bức tranh dài và một cuốn sách ngắn.

Trong những cuốn tiểu sử này, cũng như trong cuốn sách nói chung, chúng tôi chủ yếu tập trung vào phần trưởng thành của cuộc đời. Chúng tôi cố gắng nói đủ về các quá trình tâm lý bên trong của một người đàn ông, và về hoàn cảnh bên ngoài và thế giới xã hội của anh ta, để cho thấy tất cả những điều này được đan xen như thế nào trong kết cấu cuộc sống đang phát triển của anh ta. Chúng tôi chắc chắn không khẳng định rằng bản phác thảo tiểu sử là chân dung hoàn chỉnh của đối tượng của chúng tôi. Trên thực tế, họ chỉ ra nhu cầu cả về tiểu sử mở rộng hơn và các phương pháp viết tiểu sử ngắn gọn sẽ hữu ích trong việc nghiên cứu các khía cạnh cụ thể của sự phát triển ở tuổi trưởng thành.

Bốn người đàn ông đại diện cho mỗi nhóm trong số bốn nhóm nghề nghiệp — giám đốc điều hành, công nhân, nhà sinh vật học và tiểu thuyết gia — trong nghiên cứu của chúng tôi. Tôi muốn nhấn mạnh, mặc dù điều này nghe có vẻ mâu thuẫn, rằng chúng tôi không coi họ là “đại diện” cho nghề nghiệp của họ theo bất kỳ nghĩa cụ thể nào. Không ai có thể thể hiện đầy đủ sự đa dạng phong phú trong cuộc sống của người khác, ngay cả những người cùng làm việc với anh ta. Mỗi người trong số bốn người đàn ông này đều “đặc biệt” ở một số khía cạnh nhất định, nhưng sau đó, mỗi người trong số bốn người đàn ông đó đều có hình thức đặc biệt của riêng mình.

Để quyết định bốn người đàn ông nào sẽ được báo cáo chi tiết ở đây, chúng tôi đã sử dụng một số tiêu chí. Đầu tiên, một người đàn ông phải trên 42 tuổi vào thời điểm phỏng vấn, để cuộc sống được báo cáo của anh ta sẽ kéo dài trong hầu hết khoảng thời gian được nghiên cứu đề cập. Thứ hai, chúng tôi muốn bốn người đàn ông đã được phỏng vấn bởi bốn thành viên khác nhau trong nhóm nghiên cứu của chúng tôi, hiện đang hoạt động trong dự án (một số nhân viên đã chuyển đi nơi khác). Hai tiêu chí này đã thu hẹp nhóm đối tượng vào khoảng một chục nam giới. Khi chọn bốn người đàn ông từ nhóm này, yêu cầu của một giám đốc điều hành, một công nhân, một nhà sinh vật học và một tiểu thuyết gia — chúng tôi đã cố gắng tối đa hóa sự đa dạng của nhóm về nguồn gốc xã hội và cuộc sống. Chúng tôi không chọn người đàn ông này hơn người đàn ông khác vì anh ta thú vị hoặc buồn tẻ, thần kinh hoặc điều chỉnh tốt, thành công hay thất bại, nói nhiều hay kín tiếng. Những người đàn ông khác nhau về những khía cạnh này ở mức độ tương tự như mẫu nói chung.

Bốn người đàn ông xuất hiện từ quá trình tuyển chọn này rất khác biệt với nhau. Nếu xét riêng họ, thoạt đầu khó có thể thấy được bất kỳ hình thái phát triển chung nào trong lịch sử cuộc đời của họ. Họ khác nhau rất nhiều về tính cách, trạng thái tinh thần hiện tại và hoàn cảnh bên ngoài, và chuỗi các sự kiện trong cuộc sống của họ. Chúng tôi giới thiệu họ với bạn ngay bây giờ, theo thứ tự xuất hiện của chính họ.

Người đàn ông đầu tiên của chúng tôi là Jim Tracy (tên, giống như của tất cả những người khác trong nghiên cứu của chúng tôi, là một bút hiệu), một giám đốc điều hành kinh doanh. Ông đã được phỏng vấn tổng cộng khoảng 12 giờ bởi Edward Klein trong suốt mùa thu năm 1968 và mùa xuân năm 1969, với một cuộc phỏng vấn tiếp theo vào năm 1971. Năm 1969 Tracy 44 tuổi, là phó chủ tịch kiêm tổng giám đốc của Bộ phận vũ khí của Tập đoàn Ajax, với quyền hạn trên vài nghìn nhân viên ở Hartford và hai nhà máy ở Trung Tây.

Là một người đàn ông mạnh mẽ, phong độ với mái đầu đầy muối tiêu được cắt sát, Tracy tự đưa cho người phỏng vấn như là một người đàn ông đã đạt được nhiều thành tựu trên thế giới và rất tự hào về điều đó. Trong phần lớn cuộc đời, anh duy trì một hình ảnh trung tâm: Jim Tracy, nhà lãnh đạo có trách nhiệm của loài người, anh hùng kiểu mẫu trong thế giới quân sự-công nghiệp. Anh ấy có định hướng công việc mạnh mẽ, một người cực kỳ năng động, người có thể hài lòng nhìn lại sự nghiệp của mình với tư cách là một sĩ quan hải quân và sau đó là một giám đốc điều hành. Tuy nhiên, vào thời điểm phỏng vấn, Tracy đã trải qua một cuộc thẩm định lại có tầm vóc lớn và khó khăn. Sự nghiệp kinh doanh của anh tưởng như đã lên đến đỉnh cao. Một vài năm trước đó anh đã kết thúc cuộc hôn nhân đầu tiên, dài nhưng không hạnh phúc; cuộc hôn nhân thứ hai của anh ấy, sau một khởi đầu rất hạnh phúc, lại có vẻ có vấn đề.

Trong các chương tiếp theo, chúng ta sẽ từng bước xem xét toàn bộ cuộc đời của Tracy, cho thấy các lực lượng phát triển như thế nào — trình tự các kỷ nguyên và thời kỳ đã giúp hình thành nó. Chương 7 sẽ đưa anh ta trải qua ba giai đoạn đầu tiên của tuổi trưởng thành sớm, cho đến khi 34 tuổi và kết thúc Quá trình chuyển đổi Tuổi Ba mươi. Chương 11 sẽ kể về cuộc sống của anh ấy trong giai đoạn An cư, từ 34 đến 41 tuổi, trong khi Chương 19 tập trung vào Quá trình chuyển đổi giữa cuộc đời của Tracy và bước vào tuổi trưởng thành giữa của anh ấy – khoảng thời gian khó khăn mà anh ấy đã trải qua khi chúng tôi trò chuyện với anh ấy.

William Paulsen 44 tuổi và là nhân viên làm việc theo giờ tại United Electronics khi Braxton McKee phỏng vấn anh vào năm 1969. McKee đã dành khoảng tám giờ với anh trong năm đó, cộng với một cuộc phỏng vấn riêng với vợ của Paulsen, Ruth. Hai năm sau McKee và Paulsen gặp lại nhau trong một cuộc phỏng vấn duy nhất, và họ nói chuyện ngắn gọn vài năm sau đó.

Sinh ra và lớn lên trong một gia đình thuộc tầng lớp lao động ở Brooklyn, Paulsen ở tuổi bốn mươi, là một người đàn ông gầy gò, lanh lợi, đi lại nhanh nhẹn, ăn mặc chỉnh tề, cẩn thận trong cách cư xử. Mái tóc húi cua và khuôn mặt của anh ấy được chăm sóc kĩ, linh động và biểu cảm. Anh thường cười nhạt, cho thấy, theo quan điểm của McKee, là một sự tự mãn nhất định. Nhưng điều này đã bị che lấp bởi đôi mắt buồn và những câu chuyện anh kể về cuộc đời mình. Những câu chuyện này thường xuyên xảy ra với McKee như một nỗ lực để gây ấn tượng với người khác và củng cố lòng tự trọng có phần lung lay của Paulsen. Một chủ đề đặc biệt nổi bật. Để cảm thấy tốt hơn về bản thân, anh luôn tự huyễn hoặc mình về bản chất thực của một tình huống nhất định và vị trí của anh trong đó. Lặp đi lặp lại trong suốt cuộc đời trưởng thành của mình, anh ấy đã phải gánh vác nhiều hơn những gì anh ấy có thể quản lý.

Trong 5 năm trước đó, Paulsen đã thay đổi công việc nhiều lần, trải qua một loạt thất bại và bắt đầu mới. Mỗi công việc mới đều khiến anh hy vọng được thăng chức, cuối cùng, vào vị trí quản lý cấp trung. Bây giờ, ở tuổi 43 và 44, anh bắt đầu đối mặt với những ảo tưởng của mình và thừa nhận những hạn chế của mình đối với những gì đang có. Anh ấy đang tự hòa mình với viễn cảnh về một công việc mang lại sự an toàn và thu nhập khiêm tốn, nhưng ít về cách hài lòng và cơ hội thăng tiến. Có vẻ như Paulsen sẽ không đạt được ngay cả mục tiêu giới hạn này. Tuy nhiên, từ việc nghiên cứu toàn bộ tiểu sử của anh, cũng rõ ràng rằng những sai sót và thất bại nhất định trong các giai đoạn phát triển cụ thể — những khó khăn, về nguồn gốc của chúng trong anh và trong hoàn cảnh bên ngoài của anh – đã góp phần vào hoàn cảnh hiện tại của bản thân. Cạnh tranh với hoàn cảnh của mình, một lần nữa là một vấn đề của sự hiểu biết, và đối phó với các vấn đề phát triển.

Trong Chương 8, chúng ta sẽ xem xét chi tiết cuộc đời của Paulsen cho đến năm 32 tuổi – cuối của Chuyển đổi Tuổi Ba mươi và giai đoạn mới làm quen của tuổi trưởng thành sớm. Chương 18 sẽ hoàn thành lịch sử của anh, đến cuối những năm bốn mươi.

Viết lách là một giấc mơ trung tâm đối với Paul Namson, nhưng lại thường xuyên rơi vào mâu thuẫn với những lựa chọn nghề nghiệp và nhu cầu xã hội khác. Theo nghĩa này, anh ấy giống như hầu hết các tiểu thuyết gia trong mẫu của chúng tôi. Nhưng ở một số khía cạnh khác, anh ấy không như vậy. Là một nhà tài chính thành công ở tuổi hai mươi, thực sự là một triệu phú ở tuổi ba mươi, Namson có một cuộc sống phức tạp, thú vị và đầy rắc rối, đầy thỏa mãn và thất vọng.

Được phỏng vấn bởi Charlotte Darrow vào năm 1969, Namson khi đó, 43 tuổi, đã rời khỏi công ty môi giới của gia đình trong sáu năm, đang cố gắng thực hiện ước mơ trở thành một tiểu thuyết gia và đang trải qua một cuộc khủng hoảng giữa cuộc đời. Mặc dù thành công về mặt phê bình, khiêm tốn với tư cách là một tiểu thuyết gia, anh vẫn gặp khó khăn trong việc tiến lên phía trước. Một cuộc phỏng vấn tiếp theo, mười lăm tháng sau, khi anh 44 tuổi, cho thấy anh đã giải quyết được những chia rẽ trong cuộc sống và hình thành những cam kết mới với tư cách là một nhà văn, một người chồng và một người cha. Vợ anh, Sarah, cũng được phỏng vấn vào thời điểm này.

Namson là một người đàn ông mạnh mẽ, hiền lành, cao và nhẹ nhàng, có lối sống nội tâm và trí thông minh rõ ràng. Có lẽ vì kinh nghiệm của bản thân trong việc cố gắng phân tích cảm xúc và động cơ bằng những thuật ngữ hư cấu, anh ấy có xu hướng nói một cách phân tích khi mô tả cuộc sống của mình. Chúng ta sẽ kể về 40 năm đầu tiên của Namson, với trọng tâm chính là 12 năm cuối cùng của khoảng thời gian đó (Quá trình chuyển đổi tuổi ba mươi, ổn định và trở thành người đàn ông của riêng một người), trong Chương 12. Cuộc sống của anh ấy trong những năm bốn mươi sẽ được mô tả trong Chương 18.

Người đàn ông thứ tư của chúng tôi, John Barnes, là giáo sư sinh học tại Đại học Columbia và có danh tiếng quốc tế. Anh được biết đến như một người đàn ông mạnh mẽ, hoạt bát, một giáo viên và một nhà quản lý hiệu quả. Khi tôi phỏng vấn anh ấy lần đầu, anh ấy mới bước sang tuổi 44. Tôi cũng đã nói chuyện với vợ anh ấy, Ann. Các cuộc phỏng vấn tiếp theo diễn ra khi ông 46 tuổi và một lần nữa khi ông 50. Việc phân tích cuộc đời ông được thực hiện bởi Maria Levinson.

Barnes là một người đàn ông điềm tĩnh với những đường nét hoàn hảo và vóc dáng của một vận động viên. Phong thái của anh ấy truyền tải cảm giác mạnh mẽ, năng lượng được kiểm soát và sự háo hức hoàn thành công việc. Bài phát biểu của anh ấy có thể nặng nề, nhưng nó cũng đơn giản và thẳng thừng. Barnes có sự đĩnh đạc và kiêu hãnh, sự tự chủ và quan tâm đến quyền riêng tư cá nhân, và thái độ tinh thần trách nhiệm xã hội phù hợp với xuất thân quý tộc Yankee của anh. Người ta có thể tưởng tượng anh đang chặt cây hoặc làm mộc với sự cân nhắc nặng nề của một nông dân New England. Khi tham gia vào việc phân tích lý trí các vấn đề cụ thể, anh ấy gặp nhiều khó khăn hơn trong việc giải quyết tình cảm và các mối quan hệ cá nhân. Tuy nhiên, trong một cuộc khủng hoảng trầm trọng giữa cuộc đời, anh ấy đã truyền đạt kinh nghiệm cá nhân của mình với sự sâu sắc và phong phú tuyệt vời.

Vào thời điểm cuộc phỏng vấn đầu tiên của chúng tôi, Barnes đã rơi vào bế tắc nghiêm trọng trong cuộc sống của mình, bất chấp những thành tựu đáng kể và thành công trước công chúng. Không còn là một “chàng trai trẻ đầy triển vọng”, anh phải đối mặt với sự cần thiết phải chấp nhận một tầm nhìn hoàn toàn mới về bản thân. Anh hy vọng sẽ khám phá ra một vai trò quan trọng trong nghề nghiệp mà anh có thể cống hiến phần còn lại của cuộc đời làm việc của mình. Nhưng anh thực sự không chắc chắn về điều này có thể là gì.

Các biển chỉ dẫn đánh dấu các giai đoạn trong cuộc đời của John Barnes – hôn nhân và gia đình đầu tiên, thành tựu khoa học, ly hôn và tái hôn, thăng tiến thông qua hệ thống cấp bậc học thuật – có thể được xem như những hiện tượng hoàn toàn bên ngoài. Nhưng ý nghĩa và thời gian của chúng có ý nghĩa to lớn và có thể được xem là đặc điểm của một mô hình sâu sắc hơn. Trong Chương 17, chúng ta sẽ xem xét một số chi tiết về cuộc đời của anh ta, đặc biệt chú ý đến phần kịch tính nhất của nó, giai đoạn mà chúng ta gọi là Chuyển tiếp giữa cuộc đời.

Trong các chương tiếp theo, chúng ta sẽ xem xét trình tự của các giai đoạn phát triển. Đầu tiên, Giai đoạn chuyển tiếp trưởng thành sớm, Bước vào thế giới trưởng thành và Giai đoạn chuyển đổi tuổi ba mươi, bao gồm giai đoạn mới làm quen của tuổi trưởng thành sớm (Chương 5 đến Chương 8). Thứ hai, giai đoạn Định cư và Trở thành Người của riêng Một người, khi mà một người đàn ông đạt đến đỉnh điểm của tuổi trưởng thành sớm (Chương 9 đến Chương 12). Cuối cùng là Sự chuyển đổi giữa cuộc đời và Bước vào Tuổi trưởng thành giữa, khi anh ấy chuyển từ tuổi thanh niên sang tuổi trung niên (Chương 13 đến Chương 19).

Về tâm lý phát triển tuổi trưởng thành- bài 4 phần 2

Các phát hiện và mô tả của Levinson khá hòa hợp với lý thuyết phát triển con người xã hội của Erickson.

Nhiệm vụ và các giai đoạn trong sự phát triển của cấu trúc sự sống

Khi chúng tôi sử dụng khái niệm cấu trúc cuộc sống để viết tiểu sử của 40 người đàn ông của mình, chúng tôi đã có một khám phá đáng chú ý: cấu trúc cuộc sống phát triển theo một trình tự tương đối có trật tự trong những năm trưởng thành. Đặc điểm cơ bản của trình tự giống nhau đối với tất cả những người đàn ông trong nghiên cứu của chúng tôi và những người đàn ông khác có tiểu sử mà chúng tôi đã xem xét. Nó bao gồm một loạt các thời kì ổn định xen kẽ (cấu trúc-xây dựng) và chuyển tiếp (cấu trúc- thay đổi). Những thời kì này định hình quá trình phát triển tâm lý xã hội của người lớn.

Nhiệm vụ chính của mỗi thời kỳ ổn định là xây dựng cấu trúc cuộc sống: một người đàn ông phải đưa ra những lựa chọn quan trọng nhất định, hình thành cấu trúc xung quanh họ, và theo đuổi các mục tiêu và giá trị của mình trong cấu trúc này. Để nói rằng một thời kỳ ổn định theo nghĩa này không nhất thiết phải nói rằng nó yên tĩnh và không có khó khăn. Nhiệm vụ đưa ra những lựa chọn quan trọng trong cuộc sống và xây dựng một cấu trúc thực sự thường rất căng thẳng và có thể liên quan đến nhiều loại thay đổi.

Mỗi thời kỳ ổn định có các nhiệm vụ bổ sung của riêng nó phản ánh vị trí của nó trong chu kỳ sống và phân biệt nó với các thời kỳ ổn định khác. Không có hai thời kì nào trong chu kỳ sống là giống hệt nhau. Chúng có thể có một số yếu tố chung nhưng chúng cũng khác nhau theo những cách thiết yếu. Tuổi già không “chỉ đơn thuần là” thời thơ ấu thứ hai, mặc dù nó giống với thời thơ ấu ở một số khía cạnh nhất định, và Sự chuyển đổi giữa cuộc đời không “chỉ đơn thuần” như là tuổi vị thành niên thứ hai, mặc dù các vấn đề phát triển của tuổi thiếu niên (và các giai đoạn khác) được kích hoạt lại trong đó. Một thời kỳ ổn định thường kéo dài sáu hoặc bảy năm, nhiều nhất là mười năm. Vì nhiều lý do khác nhau, bên trong và bên ngoài, cấu trúc cuộc sống đã hình thành cơ sở cho sự ổn định bị đặt ra câu hỏi và phải được sửa đổi.

Một thời kì chuyển tiếp, như chúng ta đã thấy, chấm dứt cấu trúc cuộc sống hiện tại và tạo ra khả năng cho một cấu trúc mới. Nhiệm vụ chính của mọi thời kì chuyển tiếp là đặt câu hỏi và đánh giá lại cấu trúc hiện có, khám phá các khả năng thay đổi khác nhau trong bản thân và thế giới, và tiến tới cam kết với những lựa chọn quan trọng tạo nền tảng cho cấu trúc cuộc sống mới trong thời kì ổn định tiếp theo. Mỗi thời kì chuyển tiếp có những nhiệm vụ khác biệt, đặc trưng phản ánh vị trí của nó trong chu kỳ sống. Những thời kì này thường kéo dài từ bốn đến năm năm.

Vì các thời kì chuyển tiếp đóng một vai trò quan trọng trong sự phát triển, hãy để tôi nói rõ hơn về bản chất của chúng. Quá trình chuyển đổi là một cầu nối, hoặc một vùng ranh giới, giữa hai trạng thái ổn định hơn. Nó liên quan đến một quá trình thay đổi, chuyển dịch từ cấu trúc này sang cấu trúc khác.

Ví dụ, Chuyển tiếp giữa vòng đời là một vùng ranh giới giữa hai kỷ nguyên lớn trong chu kỳ sống. Khi bắt đầu, người đó chủ yếu ở thời kỳ trưởng thành sớm. Khi nó kết thúc, tuổi trưởng thành giữa đã hiện rõ. Tuy nhiên, trong quá trình Chuyển đổi giữa cuộc đời, người đó thực sự ở “ranh giới”: anh ta vừa ở tuổi trưởng thành sớm vừa ở tuổi trưởng thành gữa. Quá trình chuyển đổi này tách biệt hai kỷ nguyên, cho phép một kỷ nguyên kết thúc để giai đoạn tiếp theo có thể bắt đầu. Nó cũng phục vụ để kết nối chúng, mang lại sự trao đổi để quá khứ có thể được rút ra và sử dụng một cách có chọn lọc để xây dựng cho tương lai. Nó là một phần nội tại của cả hai kỷ nguyên và chỉ có thể hiểu được từ quan điểm gắn liền của cả hai. Tương tự, Chuyển đổi Tuổi Ba mươi là một phương tiện chấm dứt cấu trúc cuộc sống trưởng thành đầu tiên và bắt đầu một cấu trúc mới để hoàn thành giai đoạn trưởng thành sớm, như chúng ta sẽ thấy.

Chấm dứt là một ‘kết thúc, một quá trình chia cắt hoặc mất mát. Trong một số trường hợp, sự tách biệt đã hoàn tất: tôi chấm dứt một mối quan hệ bình thường, công việc, tư cách thành viên trong một nhóm hoặc cộng đồng, quyền sở hữu một ngôi nhà hoặc một cuốn sách — và chúng hoàn toàn biến mất khỏi cuộc sống của tôi. Tôi không còn liên lạc với họ nữa, tôi hiếm khi nghĩ về họ, và chỉ còn lại những gì hạn chế nhất về sự tồn tại của họ trong tôi.

Khi mối quan hệ với một đối tượng (người, nhóm, bối cảnh, sự vật, biểu tượng) có ý nghĩa lớn đối với tôi, tuy nhiên, chấm dứt không có nghĩa là kết thúc hoàn toàn mối quan hệ. Mối quan hệ vẫn tiếp tục nhưng ở dạng đã thay đổi và đang thay đổi. Sự phân tách rõ ràng và kịch tính nhất thuộc loại này liên quan đến sự mất mát hoàn toàn của một đối tượng quan trọng: người tôi yêu qua đời; một cuộc cãi vã dẫn đến chia tay vĩnh viễn từ một người bạn hoặc người cố vấn; Tôi chuyển đến một vùng ngôn ngữ mới và bỏ lại một thế giới phía sau. Tôi trải qua một sự mất mát sâu sắc và phải đối mặt với cảm giác đau đớn khi bị bỏ rơi, đau buồn và giận dữ. Theo thời gian, đối tượng bị mất được hoàn thiện bên trong đầy đủ hơn và mối quan hệ tiếp tục phát triển trong bản thân tôi và cuộc sống của tôi. Các khía cạnh quan trọng của mối quan hệ đã kết thúc, nhưng các khía cạnh khác vẫn tiếp tục và những khía cạnh mới được tạo ra. Tôi đã mất đối tượng bên ngoài nhưng tôi vẫn duy trì mối quan hệ với đối tượng bây giờ bên trong.

Sự phân tách thường là một phần chứ không phải toàn bộ. Tôi tiếp tục có một số liên hệ với người hoặc nhóm, nhưng một thay đổi lớn xảy ra trong bản chất của mối quan hệ: mối quan hệ tình yêu Tomantic trở thành một tình bạn khiêm tốn; một mối quan hệ cố vấn căng thẳng trở thành một liên kết bình thường hơn trong công việc; một cuộc hôn nhân kết thúc bằng ly hôn và mối quan hệ này tiếp tục diễn ra dưới những hình thức mới, chẳng hạn như việc nuôi dạy con cái thân thiện hoặc tiếp tục thù địch và tái thống trị. Mối quan hệ đi đến một bước ngoặt và phải được sửa đổi hoặc chuyển đổi nếu muốn tiếp tục. Cần có một giai đoạn chuyển tiếp để chấm dứt quá khứ và bắt đầu tương lai.

Một ví dụ điển hình là thanh niên đang trong quá trình tách khỏi cha mẹ. Nhiệm vụ phát triển của anh ấy không phải là chấm dứt hoàn toàn mối quan hệ. Thay vào đó, anh ta phải từ chối một số khía cạnh (ví dụ, những khía cạnh mà anh ta là đứa trẻ phục tùng hoặc thách thức liên quan đến cha mẹ kiểm soát tất cả), để duy trì các khía cạnh khác và xây dựng những phẩm chất mới như sự tôn trọng lẫn nhau giữa những cá nhân đặc biệt có lợi ích riêng cũng như chung. Cả trẻ vị thành niên và cha mẹ của cậu ta đều không thấy đây là một nhiệm vụ dễ dàng.

Như các học sinh trong giai đoạn phát triển thời thơ ấu đã cho thấy, các quá trình tách biệt và cá nhân hóa có mối liên hệ chặt chẽ với nhau. Sự thay đổi và mất mát mạnh mẽ có thể gây tổn hại, nhưng trong những điều kiện hỗ trợ hợp lý, quá trình tách biệt sẽ dẫn đến sự phong phú, khác biệt và phát triển của bản thân. Điều này đúng với tuổi trưởng thành cũng như thời thơ ấu.

Nhiệm vụ của quá trình chuyển đổi phát triển là chấm dứt một khoảng thời gian trong cuộc đời của một người: chấp nhận những tổn thất mà sự chấm dứt đó gây ra; để xem xét và đánh giá quá khứ; để quyết định những khía cạnh nào của quá khứ để giữ lại và những khía cạnh nào để từ chối; và xem xét mong muốn và khả năng của một người trong tương lai. Một người bị lơ lửng giữa quá khứ và tương lai, và vật lộn để vượt qua khoảng cách ngăn cách họ. Phần lớn quá khứ phải được từ bỏ — tách khỏi, cắt đứt cuộc sống của một người, bị từ chối trong giận dữ, từ bỏ trong nỗi buồn hoặc đau đớn. Và có rất nhiều điều có thể được sử dụng làm cơ sở cho tương lai. Thay đổi phải được cố gắng trong cả bản thân và thế giới.

Các tác vụ này tạo ra các đặc điểm chung cho tất cả các quá trình chuyển đổi. Chúng thường là những thời điểm khủng hoảng – về xung đột nội tâm sâu sắc, về cảm giác “trong trạng thái hoạt hình lơ lửng” như một trong những người đàn ông của chúng tôi đã nói. Sau khi nghe một bài nói chuyện về Chuyển đổi giữa đời, một thanh niên hỏi tôi, “Làm thế nào mà tôi, ở tuổi 31, đang có nhiều trải nghiệm mà bạn mô tả ở tuổi 41 – liệu tôi có đang ở trong Chuyển đổi giữa cuộc đời sớm không? ” Tất nhiên, câu trả lời là không: anh ta đang trải qua một quá trình chuyển đổi khác phù hợp với vị trí của mình trong chu kỳ sống, nhưng đó là một sự chuyển đổi có nhiều điểm chung với các quá trình chuyển đổi khác, chẳng hạn như ở tuổi nhi đồng và ở tuổi dậy thì.

Cùng với những đặc điểm chung, những nhiệm vụ phát triển nhất định và những vấn đề cuộc sống mang tính đặc thù của từng thời kỳ và tạo cho nó nét riêng biệt. Ví dụ, Chuyển đổi Tuổi Ba mươi được tô màu mạnh mẽ bởi sự bất tử của việc Định cư và nhu cầu hình thành một cấu trúc cuộc sống mà qua đó những ước mơ và giá trị tuổi trẻ của một người có thể được thực hiện. Sự chuyển tiếp giữa cuộc đời mang đến những mối quan tâm mới về sự mất mát của tuổi trẻ, sự giả định về một vị trí cao cấp hơn trong thế giới của một người, và việc làm lại các phân cực bên trong. Một số mối bận tâm về cái chết – sợ hãi nó, bị lôi cuốn vào nó, tìm cách vượt qua nó – không phải là hiếm trong tất cả các quá trình chuyển đổi, vì quá trình kết thúc- khởi đầu gợi lên hình ảnh của cái chết và sự tái sinh. Nhưng ý nghĩa của cái chết và các loại công việc phát triển cần thực hiện khác nhau rất nhiều từ quá trình chuyển đổi này sang quá trình chuyển đổi khác.

Khi quá trình chuyển đổi kết thúc, đã đến lúc phải đưa ra những lựa chọn quan trọng, để những lựa chọn này có ý nghĩa và sự cam kết, và bắt đầu xây dựng một cấu trúc cuộc sống xung quanh chúng. Các lựa chọn đánh dấu sự bắt đầu của thời kỳ tiếp theo. Theo một nghĩa nào đó, chúng là sản phẩm chính của quá trình chuyển đổi. Khi tất cả những nỗ lực trong vài năm qua đã được thực hiện – tất cả những cuộc đấu tranh để cải thiện công việc hoặc hôn nhân của một người, để khám phá những khả năng thay thế của cuộc sống, để hòa hợp hơn với bản thân – một người đàn ông phải đưa ra lựa chọn và đặt cược của mình. Anh ta phải quyết định, ‘Điều này tôi sẽ giải quyết cho,’ và bắt đầu tạo ra một cấu trúc cuộc sống sẽ phục vụ như một phương tiện cho bước tiếp theo trong cuộc hành trình.

Một người đàn ông có thể chọn tái khẳng định cam kết với một phần hiện có của cuộc đời mình. Anh ấy quyết định tiếp tục cuộc hôn nhân với ý định làm cho nó hoạt động tốt hơn. Anh ta từ bỏ một mối quan hệ ngoài hôn nhân nghiêm túc — hoặc anh ta bắt đầu một mối quan hệ như vậy với hy vọng rằng điều này sẽ làm phong phú thêm cuộc sống của anh ta trong khi vẫn cho phép hôn nhân và gia đình tiếp tục. Tương tự như vậy, anh ta có thể chọn tiếp tục làm công việc hiện tại của mình thay vì thực hiện một thay đổi mạnh mẽ hơn dẫn đến rủi ro lớn hơn và sự gián đoạn. Nếu đây là một sự tái khẳng định tích cực, anh ta sẽ có những cải thiện đáng kể về đặc điểm của công việc ngay cả khi chức danh công việc vẫn được giữ nguyên.

Quyết định giữ nguyên không phải lúc nào cũng dựa trên một cam kết đã được khẳng định lại. Nó có thể xuất phát nhiều hơn từ sự cam chịu, sức ì, sự dễ dãi thụ động hoặc sự tuyệt vọng có kiểm soát — một sự hạn chế bản thân trong bối cảnh những ràng buộc nghiêm trọng từ bên ngoài. Loại ổn định bề mặt này đánh dấu sự khởi đầu của một sự suy giảm dài hạn trừ khi các yếu tố mới can thiệp (có lẽ trong giai đoạn chuyển tiếp tiếp theo) và cho phép anh ta hình thành một cấu trúc sống thỏa đáng hơn.

Những lựa chọn được đưa ra trong một giai đoạn chuyển tiếp thường dẫn đến sự thay đổi vừa phải hoặc mạnh mẽ trong cấu trúc cuộc sống. Một người đàn ông có thể ly hôn, tái hôn, thay đổi công việc hoặc nghề nghiệp của mình, di chuyển địa lý, bắt đầu theo đuổi đam mê mới để sửa đổi và phong phú cuộc sống của anh ta. Một sự lựa chọn thường được đánh dấu bằng một sự kiện chỉ diễn ra trong vài ngày hoặc vài tuần. Tuy nhiên, sự kiện được nhúng trong một quá trình thay đổi thường kéo dài trong một vài năm. Do đó, ly hôn hoặc thay đổi công việc là sự kiện dễ thấy nhất trongquá trình chuyển đổi phức tạp chứa nhiều thay đổi khác. Khi thực hiện quá trình chuyển đổi, một người đàn ông phải thay đổi cấu trúc cuộc sống hiện tại của mình, thực hiện một số nhiệm vụ phát triển cơ bản và tái cấu trúc một cuộc sống mới.

Một giai đoạn chuyển tiếp kết thúc không phải khi một sự kiện cụ thể xảy ra hoặc khi một chuỗi được hoàn thành trong một khía cạnh của cuộc sống. Nó kết thúc khi các nhiệm vụ đặt câu hỏi và khám phá mất đi tính cấp bách, khi một người đàn ông đưa ra những cam kết quan trọng của mình và sẵn sàng bắt đầu các nhiệm vụ xây dựng, sống bên trong và nâng cao cấu trúc cuộc sống mới.

Chúng tôi đã không bắt đầu nghiên cứu này với các giả thuyết đã được định hình trước về các giai đoạn phát triển diễn ra theo một trình tự liên quan đến tuổi tác. Chúng tôi cũng ngạc nhiên như những người khác trước những khám phá này. Những phát hiện liên quan đến tuổi có thể được tóm tắt ngắn gọn như sau. Có một độ tuổi duy nhất, thường xuyên nhất mà mỗi thời kỳ bắt đầu. Có một loạt các thay đổi, thường là khoảng hai năm trên và dưới mức trung bình. Do đó, Giai đoạn Chuyển đổi Tuổi Ba mươi thường bắt đầu ở tuổi 28, phạm vi từ 26 đến 29. Giai đoạn tiếp theo, Định cư, thường bắt đầu ở tuổi 33 — và không bao giờ trước 30 hoặc sau 34, trong mẫu của chúng tôi. Bốn nhóm nghề nghiệp trong nghiên cứu của chúng tôi chỉ cho thấy sự khác biệt nhỏ về độ tuổi bắt đầu và kết thúc của mỗi giai đoạn. Dữ liệu cụ thể hơn về tuổi sẽ được trình bày trong các chương về các giai đoạn kế tiếp.

Các nhiệm vụ phát triển có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển của các thời kỳ. Tính chất cụ thể của một thời kỳ bắt nguồn từ bản chất của các nhiệm vụ của nó. Một giai đoạn bắt đầu khi các nhiệm vụ chính của nó trở nên chủ yếu trong cuộc đời của một người đàn ông. Một giai đoạn kết thúc khi các nhiệm vụ của nó mất đi tính ưu tiên và các nhiệm vụ mới xuất hiện để bắt đầu một thời kỳ mới. Sự tiến triển có trật tự của các giai đoạn bắt nguồn từ sự thay đổi thường xuyên trong các nhiệm vụ. Những nhiệm vụ cơ bản nhất của thời kỳ ổn định là đưa ra những lựa chọn vững chắc, xây dựng lại cấu trúc cuộc sống và nâng cao cuộc sống của một người trong nó. Những người của thời kỳ chuyển tiếp là đặt câu hỏi và đánh giá lại cấu trúc hiện có, tìm kiếm những khả năng mới trong bản thân và thế giới, và sửa đổi cấu trúc hiện tại đủ để một cấu trúc mới có thể được hình thành.

Ngụ ý trong khái niệm nhiệm vụ là ý tưởng rằng nó có thể được thực hiện tốt hoặc kém. Khi một nhiệm vụ khá chuyên biệt và cụ thể, thường không khó để đánh giá nó đã được thực hiện tốt như thế nào. Đánh giá công việc về các nhiệm vụ phát triển khó hơn nhiều. Trong một số trường hợp, có vẻ như rõ ràng rằng các nhiệm vụ của một giai đoạn đã được đáp ứng rất kém hoặc rất tốt, nhưng trong hầu hết các trường hợp, là bức tranh hỗn hợp. Việc đánh giá không thể dựa trên một vài tiêu chí. Điều quan trọng là phải hiểu các nhiệm vụ và quy trình phát triển ở mức độ phức tạp đầy đủ của chúng, và tránh đưa ra các đánh giá quá sớm và đơn giản hóa về mức độ xử lý của các nhiệm vụ.

Tuy nhiên, chúng tôi đã có một bước khởi đầu nhỏ để giải quyết vấn đề đánh giá. Vì các nhiệm vụ phát triển liên quan nhiều đến việc xây dựng, sửa đổi và xây dựng lại cấu trúc cuộc sống, nên việc xác định và đánh giá “mức độ thỏa mãn” của cấu trúc trở nên quan trọng. Trong thời kỳ ổn định, một người đàn ông cố gắng xây dựng một cấu trúc mà theo một nghĩa nào đó sẽ khiến anh ta hài lòng. Trong giai đoạn chuyển tiếp, anh ta cố gắng đánh giá lại (đánh giá) cấu trúc hiện tại và tiến tới một cấu trúc mới và hài lòng hơn. “Vừa ý” có nghĩa gì đối với anh ta, và chúng ta sẽ sử dụng thuật ngữ này như thế nào cho các mục đích riêng của mình?

Nói một cách tổng thể, một cấu trúc cuộc sống là thỏa mãn ở mức độ mà nó có thể tồn tại trong xã hội và phù hợp với bản thân. Ở đây cần có quan điểm của cả xã hội và bản thân. Một cấu trúc có thể tồn tại ở mức độ mà nó hoạt động trên thế giới. Trong đó, một người đàn ông có thể thích nghi, duy trì các vai trò khác nhau của mình và nhận đủ phần thưởng. Một cấu trúc có thể tồn tại bên ngoài nhưng không phù hợp bên trong nếu nó không cho phép anh ta sống được những khía cạnh cốt yếu quan trọng của bản thân anh ta. Mặt khác, một cấu trúc có thể phù hợp với những ước mơ và giá trị bên trong của anh ta, nhưng lại không khả thi ra thế giới bên ngoài. Thông thường, cấu trúc cuộc sống của một người đàn ông là “khá thỏa đáng”: nó hoạt động khá tốt trong thế giới bên ngoài, mặc dù nó không mang lại tất cả những phần thưởng mà người đàn ông đã hy vọng, và vừa phải phù hợp với bản thân, mặc dù nó không cho phép anh ta sống với một số mong muốn và giá trị quan trọng.

Mọi cấu trúc cuộc sống đều mang lại lợi ích và chi phí đa dạng cho bản thân con người, cho người khác và cho xã hội. Các yếu tố tạo nên sức mạnh to lớn của nó cũng là nguồn gốc của điểm yếu và gây thiệt hại cho chúng. Một cấu trúc không bao giờ chỉ là tất cả của một mảnh. Nó chứa đựng một số hỗn hợp của trật tự và rối loạn, thống nhất và đa dạng, tích hợp và phân mảnh. Nó luôn luôn thiếu sót trong một số khía cạnh. Nó chứa đựng những mâu thuẫn và khoảng trống chỉ có thể được sửa đổi bằng những thay đổi cơ bản trong chính cấu trúc. Những mâu thuẫn thường gây ra những hậu quả đau lòng, nhưng chúng cũng có thể làm phong phú thêm quá trình sống và tạo cơ sở nội tại cho sự thay đổi và phát triển.

Cho dù một cấu trúc có thỏa mãn đến đâu, thì theo thời gian, tiện ích của nó giảm đi và những sai sót của nó tạo ra xung đột dẫn đến việc sửa đổi hoặc chuyển đổi cấu trúc. Đúng như Marx đã nói: mọi hệ thống đều chứa đựng trong mình những mầm mống của sự hủy diệt của chính nó. Cấu trúc đã từng ổn định chuyển sang một thời kỳ quá độ mới. Các mùa thay đổi. Các nhiệm vụ phát triển được thực hiện một lần nữa, và các bài học về tăng trưởng được tập hợp và tích trữ để chống lại thời kỳ mới sắp tới. Mô hình phát triển của người trưởng thành vẫn tiếp tục.

Một thời kì được xác định dựa trên các nhiệm vụ phát triển của nó. Nó không được định nghĩa theo các sự kiện cụ thể như kết hôn hoặc nghỉ hưu. Nhiều nhà điều tra đã tìm kiếm các sự kiện quan trọng có thể đóng vai trò là dấu hiệu cho các thời kì phát triển. Việc tìm kiếm này đã không có kết quả trong việc tạo ra một lý thuyết phát triển, mặc dù nó đã góp phần vào việc nghiên cứu các vấn đề trong cuộc sống của người trưởng thành. Tôi tin rằng việc quan niệm sự phát triển theo các nhiệm vụ và thời kì trong quá trình tiến hóa của cấu trúc cuộc sống sẽ có kết quả hơn. Sau đó, chúng ta có thể sử dụng quan điểm phát triển này để hiểu tầm quan trọng của các sự kiện cụ thể.

Cuộc sống của chúng ta bị nhấn chìm bởi những biến cố như hôn nhân, ly hôn, bệnh tật, sự ra đời hoặc qua đời của những người thân yêu, chấn thương bất ngờ hoặc vận may, thăng tiến hay thất bại trong công việc, nghỉ hưu, chiến tranh, thời hưng thịnh và thời điểm “chạm đáy”. Chúng tôi sử dụng thuật ngữ sự kiện đánh dấu để xác định một sự kiện thuộc loại này, có tác động đáng chú ý đến cuộc sống của một người. Các sự kiện đánh dấu thường được xem xét về mức độ thích ứng mà chúng yêu cầu. Chúng thay đổi hoàn cảnh sống của một người đàn ông và anh ta phải đương đầu với chúng theo một cách nào đó. Những thay đổi sâu hơn trong các mối quan hệ, vai trò và tính cách của anh ấy sau đó được hiểu là một phần của sự thích nghi của anh ấy với hoàn cảnh mới.

Tuy nhiên, chúng ta cũng cần xem xét các sự kiện đánh dấu từ quan điểm của sự phát triển. Chúng có thể xảy ra ở nhiều lứa tuổi khác nhau và bản thân chúng không gây ra hiện tượng bắt đầu hoặc kết thúc một thời kì. Tuy nhiên, độ tuổi mà một sự kiện xảy ra là quan trọng. Tầm quan trọng của một sự kiện đánh dấu đối với một cá nhân phụ thuộc một phần vào vị trí của nó trong chuỗi các giai đoạn phát triển.

Ví dụ, kết hôn là một sự kiện đánh dấu trong cuộc đời của một người đàn ông, bất kể tuổi tác và hoàn cảnh của anh ta. Tuy nhiên, nó tạo ra một sự khác biệt lớn, chỉ là nơi nào trong quá trình phát triển của các thời kỳ mà nó xảy ra. Nếu một người đàn ông kết hôn khi bắt đầu Quá trình trưởng thành sớm, chẳng hạn như ở tuổi 18 hoặc 19, thì quyết định kết hôn và đặc điểm của mối quan hệ hôn nhân sẽ được tô đậm bởi các nhiệm vụ phát triển hiện tại của anh ta. Anh ta đang tham gia vào quá trình tách khỏi cha mẹ và hình thành danh tính người lớn ban đầu. Anh ta muốn độc lập và “người lớn” hơn, nhưng anh ta cũng cảm thấy không được chuẩn bị cho cuộc sống trưởng thành và có xu hướng tìm kiếm một mối quan hệ phụ thuộc với một nhân vật kiểm soát chăm sóc bảo vệ không phải là cha mẹ. Nguy cơ của việc kết hôn vào thời điểm này trong quá trình phát triển của anh ta là mối quan hệ hôn nhân có thể kéo dài những cuộc đấu tranh với cha mẹ anh ta. Kết quả thường là anh ta vẫn giữ những phẩm chất trẻ con mà anh ta đã khước từ một cách có ý thức và không đạt được danh tính người lớn thực sự hơn. Có những mối nguy hiểm tương tự đối với người phụ nữ vào thời điểm này, và mỗi đối tác đều có liên quan đến cuộc đấu tranh phát triển của người kia.

Tương tự như vậy, một mối quan hệ hôn nhân hình thành sớm trong giai đoạn Bước vào Thế giới Người lớn, ví dụ ở tuổi 23 hoặc 24, sẽ phản ánh các nhiệm vụ phát triển của thời kỳ đó: khám phá những khả năng của thế giới trưởng thành và hình thành một cấu trúc cuộc sống tạm thời. Sự lựa chọn của một người bạn đời ảnh hưởng và bị ảnh hưởng bởi đặc điểm tổng thể của cấu trúc đó. Một người đàn ông cố gắng xây dựng một cấu trúc trong đó anh ta có thể theo đuổi ước mơ hoặc tầm nhìn đặc biệt của mình; anh kết hôn với một người phụ nữ có chung ước mơ đó và muốn cùng anh thực hiện hành trình hiện thực hóa ước mơ đó. Một người đàn ông khác phản bội ước mơ của mình: tìm cách xây dựng một cấu trúc dễ được các bậc cha mẹ chấp nhận hơn hoặc “an toàn hơn” theo một nghĩa nội tâm nào đó, anh ta kết hôn với một người phụ nữ sẽ coi trọng và ủng hộ chủ nghĩa bảo thủ này. Một lúc nào đó sau này, anh ta có thể đổ lỗi cho cô ấy, dù ít hay nhiều, với lý do biện minh, vì cô ấy đã dẫn anh ta đi khỏi giấc mơ của mình. Ý nghĩa và những thăng trầm hơn nữa của mối quan hệ hôn nhân sẽ khác nhau rõ rệt trong hai trường hợp. Các biến thể là vô tận.

Nếu việc kết hôn xảy ra khi bắt đầu một thời kỳ, khi quá trình phát triển mới đang bắt đầu, thì tính cách ban đầu của quan hệ hôn nhân sẽ gắn bó mật thiết với những khó khăn khi bước vào một thời kỳ mới. Ngược lại, một cuộc hôn nhân xảy ra vào cuối một thời kỳ có thể là đỉnh điểm hoặc kết quả của những nỗ lực phát triển của thời kỳ đó và là dấu hiệu cho thấy một thời kỳ mới đang xuất hiện.

Trong nhiều trường hợp, sự kiện đánh dấu không phải là kết quả của nỗ lực hoặc lựa chọn tự nguyện của một người đàn ông, mà là kết quả của những hoàn cảnh nằm ngoài tầm kiểm soát của anh ta (chẳng hạn như chiến tranh, suy thoái kinh tế và bệnh tật hoặc cái chết của người khác). Giai đoạn phát triển hiện tại của anh ta không ảnh hưởng đến thời gian của sự kiện này, nhưng nó định hình sự thích nghi của anh ta với nó và ảnh hưởng của nó đến cuộc sống sau này của anh ta.

Điểm qua các giai đoạn phát triển trưởng thành

Chuỗi các giai đoạn bắt đầu với Sự chuyển đổi giai đoạn trưởng thành sớm(17 đến 22 tuổi), liên kết giữa tuổi vị thành niên và tuổi trưởng thành sớm. Tiếp theo là giai đoạn xây dựng cấu trúc, Bước vào Thế giới Người lớn, kéo dài từ khoảng 22 đến 28; nhiệm vụ chính của giai đoạn này là tạo ra một cấu trúc cuộc sống trưởng thành đầu tiên. Cấu trúc này được sửa đổi trong Chuyển đổi Tuổi Ba mươi. Trong thời kỳ Định cư (33 đến 40), một người đàn ông xây dựng cấu trúc thứ hai và đạt đến đỉnh điểm ở tuổi trưởng thành sớm. Giai đoạn chuyển tiếp giữa cuộc đời, từ khoảng 40 đến 45, liên quan đến giai đoạn trưởng thành sớm và giữa. Tiếp theo là một giai đoạn ổn định hơn, trong khoảng giữa và cuối những năm bốn mươi, khi một người đàn ông xây dựng cấu trúc cuộc sống đầu tiên cho tuổi trưởng thành giữa.

Trình tự các thời kỳ được minh họa ở dưới. Trong các chương sau, mỗi tiết sẽ được khám phá chi tiết. Ở đây, chúng ta sẽ xem trước ngắn gọn các giai đoạn và đưa ra bức tranh ban đầu về nhiệm vụ và trình tự phát triển của chúng.

Giai đoạn chuyển tiếp trưởng thành sớm: Chuyển từ giai đoạn trước sang giai đoạn trưởng thành sớm

Quá trình chuyển đổi người lớn bắt đầu ở tuổi 17 và kết thúc ở tuổi 22, kéo dài hoặc kém đi hai năm. Nhiệm vụ song sinh của nó là chấm dứt tuổi trưởng thành và bắt đầu tuổi trưởng thành sớm. Nhiệm vụ đầu tiên là bắt đầu bước ra khỏi thế giới trước khi trưởng thành: đặt câu hỏi về bản chất của thế giới đó và vị trí của một người trong đó; sửa đổi hoặc chấm dứt các mối quan hệ hiện có với những người, nhóm và tổ chức quan trọng; để đánh giá lại và sửa đổi cái tôi đã hình thành trong đó. Nhiều loại phân tách, kết thúc và biến đổi khác nhau phải được thực hiện khi một người hoàn thành toàn bộ một mùa của cuộc đời.

Nhiệm vụ thứ hai là thực hiện một bước đầu tiên trong thế giới người lớn: khám phá các khả năng của nó, tưởng tượng mình là một người tham gia vào thế giới đó, củng cố bản sắc ban đầu của người trưởng thành, đưa ra và thử nghiệm một số lựa chọn sơ bộ cho cuộc sống của người trưởng thành. Trong giai đoạn này một thanh niên đang ở ranh giới giữa tuổi vị thành niên và tuổi trưởng thành. Quá trình chuyển đổi kết thúc khi anh ta vượt ra ngoài ranh giới và bắt đầu tạo ra một cuộc sống trong thế giới người lớn.

Cấu trúc cuộc sống của người trưởng thành đầu tiên: Bước vào thế giới người lớn

Giai đoạn này kéo dài từ khoảng 22 đến 28. Nhiệm vụ chính của nó là tạo ra một cấu trúc tạm thời cung cấp một liên kết khả thi giữa bản thân được coi trọng và xã hội trưởng thành. Một người đàn ông trẻ phải chuyển trọng tâm của cuộc đời mình; không còn là một đứa trẻ trong gia đình gốc của mình, anh ta phải trở thành một người lớn mới làm quen với một cơ sở của riêng mình. Anh ấy đưa ra và thử nghiệm nhiều lựa chọn ban đầu khác nhau về nghề nghiệp, các mối quan hệ yêu đương (thường bao gồm hôn nhân và gia đình), các mối quan hệ đồng đẳng, các giá trị và phong cách sống.

Người thanh niên có hai nhiệm vụ cơ bản nhưng trái ngược nhau: (a) Anh ta cần khám phá các khả năng sống của người trưởng thành: giữ cho các lựa chọn của mình luôn mở, tránh các cam kết mạnh mẽ và tối đa hóa các lựa chọn thay thế. Nhiệm vụ này được phản ánh trong cảm giác phiêu lưu và kinh ngạc, mong muốn tìm kiếm tất cả các kho báu của thế giới mới mà anh ta đang bước vào, (b) Nhiệm vụ tương phản là tạo ra một cấu trúc cuộc sống ổn định: trở nên có trách nhiệm hơn và “tạo ra một cái gì đó của cuộc đời tôi.” Mỗi nhiệm vụ đều có các nguồn và hỗ trợ từ thế giới bên ngoài và trong bản thân.

Tìm kiếm sự cân bằng giữa các nhiệm vụ này không phải là một vấn đề dễ dàng. Nếu cái thứ nhất chiếm ưu thế, thì sự sống có một chất lượng cực kỳ thoáng qua, không có gốc rễ. Nếu yếu tố thứ hai chiếm ưu thế, sẽ có nguy cơ dấn thân sớm vào một cấu trúc mà không có đủ sự khám phá các giải pháp thay thế. Đó là một quá trình thú vị nhưng thường khó hiểu và đau đớn để khám phá thế giới mới của người lớn, đồng thời, cố gắng xây dựng một cuộc sống ổn định trong đó. Thường có sự gián đoạn vừa phải hoặc lớn giữa thế giới trước khi trưởng thành mà một người đàn ông lớn lên và thế giới trưởng thành nơi anh ta hình thành cấu trúc cuộc đời đầu tiên của mình.

Quá trình chuyển đổi tuổi ba mươi: Thay đổi cấu trúc cuộc sống đầu tiên

Quá trình chuyển đổi này, kéo dài từ khoảng 28 đến 33, tạo cơ hội để khắc phục những sai sót và hạn chế của cấu trúc cuộc sống trưởng thành đầu tiên, và tạo cơ sở cho một cấu trúc thỏa đáng hơn để hoàn thành kỷ nguyên trưởng thành sớm. Ở tuổi 28, phẩm chất tạm thời của tuổi đôi mươi đang dần kết thúc và cuộc sống đang trở nên nghiêm túc hơn, nhiều hơn “thực tế / ‘Một tiếng nói bên trong bản thân nói:” Nếu tôi muốn thay đổi cuộc sống của mình — nếu có điều gì đó trong đó tôi muốn sửa đổi hoặc loại trừ, hoặc những thứ còn thiếu mà tôi muốn bổ sung — bây giờ tôi phải bắt đầu lại, sớm thôi không thì sẽ quá muộn. “

Đàn ông khác nhau về các loại thay đổi mà họ thực hiện, nhưng cấu trúc cuộc sống luôn khác ở cuối Chuyển đổi Tuổi Ba mươi so với lúc đầu. Một số người đàn ông có một quá trình chuyển đổi khá suôn sẻ, không bị gián đoạn hoặc cảm thấy khủng hoảng. Họ sửa đổi cuộc sống của họ ở một số khía cạnh, nhưng họ xây dựng trực tiếp dựa trên quá khứ và không thực hiện những thay đổi cơ bản. Đó là thời điểm cải cách, không phải cách mạng.

Nhưng đối với hầu hết nam giới, nghiên cứu của chúng tôi cho thấy, quá trình chuyển đổi này diễn ra ở dạng căng thẳng hơn, đó là cuộc khủng hoảng tuổi ba mươi. Một cuộc khủng hoảng phát triển xảy ra khi một người đàn ông gặp khó khăn lớn với các nhiệm vụ phát triển của một thời kỳ; anh ta thấy cấu trúc cuộc sống hiện tại của mình là không thể dung nạp được, nhưng dường như không thể hình thành một cấu trúc tốt hơn. Trong một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng, anh ta trải qua một mối đe dọa đối với cuộc sống của chính nó, nguy cơ của sự hỗn loạnvà tan biến, mất hy vọng cho tương lai. Một cuộc khủng hoảng trung bình hoặc nghiêm trọng là rất phổ biến trong giai đoạn này.

Ba giai đoạn đầu tiên này — Giai đoạn chuyển tiếp trưởng thành sớm, Bước vào thế giới trưởng thành và Giai đoạn chuyển đổi tuổi ba mươi — thường kéo dài khoảng mười lăm năm, từ 17 hoặc 18 tuổi cho đến 32 hoặc 33. Cùng với nhau, chúng tạo thành giai đoạn chuẩn bị, “mới làm quen” của giai đoạn trưởng thành sớm. .

Sự chuyển dịch từ giai đoạn cuối của Giai đoạn Ba mươi tuổi sang giai đoạn bắt đầu của giai đoạn tiếp theo là một trong những bước quan trọng trong quá trình phát triển của người lớn. Vào thời điểm này, một người đàn ông có thể đưa ra những lựa chọn mới quan trọng, hoặc anh ta có thể khẳng định lại những lựa chọn cũ. Nếu những lựa chọn này phù hợp với ước mơ, tài năng và khả năng bên ngoài của anh ấy, chúng sẽ tạo cơ sở cho một cấu trúc cuộc sống tương đối thỏa đáng. Nếu các lựa chọn được đưa ra kém và cấu trúc mới bị sai sót nghiêm trọng, anh ta sẽ phải trả giá đắt trong kỳ tiếp theo. Ngay cả cấu trúc tốt nhất cũng có những mâu thuẫn của nó và phải kịp thời thay đổi.

Cấu trúc cuộc sống của người trưởng thành thứ hai: Ổn định

Cấu trúc cuộc sống thứ hai hình thành vào cuối Chuyển đổi Tuổi Ba mươi và tồn tại cho đến khoảng tuổi 40. Cấu trúc này là phương tiện cho đỉnh cao của tuổi trưởng thành sớm. Một người đàn ông tìm cách đầu tư bản thân vào các thành phần chính của cấu trúc (công việc, gia đình, tình bạn, giải trí, cộng đồng — bất cứ điều gì quan trọng nhất đối với anh ta), và để hiện thực hóa khát vọng và mục tiêu tuổi trẻ của mình.

Trong giai đoạn này, một người đàn ông có hai nhiệm vụ chính: (a) Anh ta cố gắng thiết lập một vị trí thích hợp trong xã hội: cố gắng tạo dựng cuộc sống của mình vững chắc hơn, phát triển năng lực trong một nghề đã chọn, trở thành một thành viên có giá trị của một thế giới có giá trị, (b) Anh ta làm việc khi thực hiện nó: phấn đấu để thăng tiến, tiến bộ theo thời gian biểu. Tôi sử dụng thuật ngữ “làm cho nó” một cách rộng rãi để bao gồm tất cả những nỗ lực để xây dựng một cuộc sống tốt đẹp hơn cho bản thân và để được khẳng định bởi bộ tộc.

Cho đến đầu những năm ba mươi, chàng trai trẻ đã là một người lớn “mới vào nghề”. Anh ấy đã và đang hình thành một cuộc sống trưởng thành và làm việc để hướng tới một vị trí vững chắc hơn trong xã hội trưởng thành. Nhiệm vụ của anh ấy trong giai đoạn Định cư là trở thành một người trưởng thành chính thức trong thế giới của riêng mình. Anh định hình một doanh nghiệp cá nhân, một phương hướng để phấn đấu, một ý thức về tương lai, một “dự án” như Jean-Paul Sartre đã gọi nó. Doanh nghiệp có thể được xác định chính xác ngay từ đầu hoặc có thể chỉ dần dần hình thành trong suốt thời kỳ này.

Hình ảnh của chiếc thang là trung tâm của doanh nghiệp Định cư. Nó phản ánh mối quan tâm đến sự thăng tiến và sự khẳng định rất quan trọng trong thời kỳ này. Bằng “bậc thang”, chúng tôi đề cập đến tất cả các khía cạnh của sự thăng tiến — sự gia tăng về thứ hạng xã hội, thu nhập, quyền lực, danh tiếng, sự sáng tạo, chất lượng cuộc sống gia đình, đóng góp cho xã hội — vì những khía cạnh này quan trọng đối với người đàn ông và thế giới của anh ta. Chiếc Thang có cả mặt khách quan và mặt chủ quan: nó phản ánh hiện thực của thế giới xã hội bên ngoài, nhưng nó do con người quy định những ý nghĩa và sự phấn đấu của bản thân.

Khi bắt đầu giai đoạn này, một người đàn ông đang ở bậc dưới cùng của cái thang của mình và đang bước vào thế giới mà anh ta là một thành viên cấp dưới. Mục đích của anh ấy là thăng tiến trong doanh nghiệp, leo lên bậc thang và trở thành thành viên cấp cao trong thế giới đó. Cảm giác hạnh phúc của anh ấy trong giai đoạn này phụ thuộc rất nhiều vào đánh giá của chính anh ấy và của những người khác về sự tiến bộ của anh ấy đối với những mục tiêu này.

Vào cuối giai đoạn Định cư, từ khoảng 36 đến 40 tuổi, có một giai đoạn đặc biệt mà chúng ta gọi là Trở thành Người của riêng một người. Các nhiệm vụ phát triển chính của giai đoạn này là hoàn thành các mục tiêu của doanh nghiệp Định cư, trở thành một thành viên cấp cao trong thế giới của một người, nói mạnh mẽ hơn bằng tiếng nói của chính mình và có một thước đo quyền lực lớn hơn.

Đây là khoảng thời gian định mệnh trong cuộc đời của một người đàn ông. Có thâm niên và tiến đến bậc cao nhất của bậc thang là những dấu hiệu cho thấy anh ấy đang trở thành một người đàn ông (không chỉ là một người, mà còn là một nam giới trưởng thành). Mặc dù sự tiến bộ của anh ấy mang lại những phần thưởng mới, nhưng nó cũng mang theo gánh nặng của những trách nhiệm và áp lực lớn hơn. Nó có nghĩa là anh ta phải từ bỏ nhiều hơn nữa cậu bé bên trong mình – một nhân vật nội bộ không bao giờ hoàn toàn trưởng thành, và chắc chắn không phải ở tuổi trưởng thành sớm.

Giai đoạn chuyển tiếp giữa cuộc đời: Chuyển từ giai đoạn sớm đến giữa

Cuối những năm ba mươi đánh dấu đỉnh cao của tuổi trưởng thành sớm. Giai đoạn Chuyển tiếp giữa cuộc đời, kéo dài từ khoảng 40 đến 45 tuổi, tạo cầu nối từ giai đoạn đầu đến tuổi trưởng thành trung niên. Nó mang lại một loạt các nhiệm vụ phát triển mới. Cấu trúc cuộc sống một lần nữa được đặt ra. Điều quan trọng là phải tự hỏi: “Tôi đã làm được gì với cuộc đời mình? Tôi thực sự nhận được gì và cho gì, cho vợ con, bạn bè, công việc, cộng đồng — và bản thân? Điều gì là tôi thực sự muốn cho bản thân và những người khác?” Một người đàn ông khao khát một cuộc sống mà ở đó những mong muốn, giá trị, tài năng và khát vọng thực tế của anh ta có thể được thể hiện.

Một số người đàn ông rất ít hỏi hoặc tìm kiếm trong quá trình Chuyển đổi giữa cuộc đời. Họ dường như không gặp rắc rối bởi những câu hỏi khó liên quan đến ý nghĩa, giá trị và hướng đi của cuộc sống của họ. Những người đàn ông khác nhận ra rằng tính cách của cuộc đời họ đang thay đổi, nhưng quá trình này không phải là một quá trình đau đớn. Họ đang trong một quá trình chuyển đổi có thể quản lý được, một quá trình chuyển đổi không có khủng hoảng. Nhưng đối với đại đa số đàn ông, đây là một giai đoạn đấu tranh lớn trong bản thân và với thế giới bên ngoài. Giai đoạn Chuyển tiếp giữa cuộc đời của họ là một thời kỳ khủng hoảng vừa phải hoặc nghiêm trọng. Họ thắc mắc về hầu hết mọi khía cạnh của cuộc sống và cảm thấy rằng họ không thể tiếp tục như trước. Họ sẽ cần vài năm để hình thành một con đường mới hoặc sửa đổi con đường cũ.

Chúng ta cần sự chuyển đổi phát triển ở tuổi trưởng thành một phần bởi vì không có cấu trúc cuộc sống nào có thể cho phép sống ngoài mọi khía cạnh của bản thân. Để tạo ra một cấu trúc cuộc sống, tôi phải đưa ra các lựa chọn và thiết lập các ưu tiên. Mọi lựa chọn của tôi đều liên quan đến việc từ chối nhiều khả năng khác. Dấn thân vào một cấu trúc, tôi cố gắng trong một khoảng thời gian để nâng cao cuộc sống của mình bên trong nó, nhận ra tiềm năng của nó, chịu trách nhiệm và chịu đựng những chi phí mà nó phải gánh chịu. Trong giai đoạn chuyển tiếp — và đặc biệt là trong Giai đoạn chuyển tiếp giữa vòng đời — những phần bị bỏ quên của bản thân càng khẩn trương tìm kiếm sự thể hiện và kích thích sự sửa đổi cấu trúc hiện có.

Bước vào tuổi trưởng thành giữa: Xây dựng một cấu trúc cuộc sống mới

Các nhiệm vụ của Chuyển đổi giữa cuộc đời phải được từ bỏ vào khoảng tuổi 45. Một người đàn ông đã dành toàn bộ thời gian để đánh giá lại, khám phá, thử nghiệm các lựa chọn và tạo cơ sở cho một cuộc sống mới. Cơ hội để đặt câu hỏi và tìm kiếm xuất hiện trong suốt độ tuổi trung niên trở lên, nhưng tại thời điểm này, các nhiệm vụ mới chiếm ưu thế. Bây giờ anh ta phải đưa ra lựa chọn của mình và bắt đầu hình thành một cấu trúc cuộc sống mới.

Sự kết thúc của Sự chuyển đổi giữa vòng đời, giống như tất cả sự chuyển dịch từ giai đoạn này sang giai đoạn tiếp theo, được đánh dấu bằng một loạt các thay đổi chứ không phải một sự kiện kịch tính. Có thể thấy rõ ràng chỉ khi một người đàn ông nhìn lại vài năm sau rằng anh ta thực sự đã cam kết với những lựa chọn mà xung quanh đó là một cấu trúc cuộc sống mới đã hình thành.

Trong một số cuộc sống, sự thay đổi được báo hiệu bởi một sự kiện đánh dấu quan trọng — một sự thay đổi mạnh mẽ trong công việc hoặc nghề nghiệp, một cuộc ly hôn hoặc tình yêu, một căn bệnh nghiêm trọng, cái chết của một người thân yêu, chuyển đến một địa phương mới. Những cuộc sống khác không có sự thay đổi rõ ràng nào: cuộc sống ở tuổi 45 dường như giống như ở tuổi 39. Tuy nhiên, nếu chúng ta quan sát kỹ hơn, chúng ta phát hiện ra những thay đổi dường như nhỏ nhưng lại tạo ra sự khác biệt đáng kể. Một người đàn ông vẫn có thể kết hôn với cùng một người phụ nữ, nhưng tính cách của các mối quan hệ gia đình của anh ta đã thay đổi đáng kể theo hướng tốt hơn hoặc xấu đi. Hoặc tính chất công việc của anh đã thay đổi: anh lặng lẽ đánh dấu thời gian cho đến khi nghỉ hưu; công việc của anh ta đã trở nên bị áp bức và nhục nhã; hoặc những thay đổi dường như nhỏ trong phương thức làm việc của anh ấy đã làm cho cuộc sống công việc của anh ấy thỏa mãn và sáng tạo hơn. Cấu trúc cuộc sống của một người, chúng tôi đã tìm thấy, nhất thiết phải thay đổi ở một số khía cạnh quan trọng nhất định trong quá trình Chuyển đổi giữa cuộc sống của anh ta.

Cấu trúc cuộc sống xuất hiện vào giữa những năm bốn mươi thay đổi rất nhiều về mức độ thỏa mãn của nó, tức là sự phù hợp với bản thân và khả năng làm việc của nó trên thế giới. Một số người đàn ông đã phải chịu đựng những thất bại không thể sửa chữa như vậy trong thời thơ ấu hoặc giai đoạn đầu trưởng thành, và rất ít khả năng thực hiện các nhiệm vụ của Chuyển đổi giữa cuộc đời của họ, đến nỗi họ thiếu các nguồn lực bên trong và bên ngoài để tạo ra một cấu trúc tương xứng tối thiểu. Họ phải đối mặt với sự co lại và suy giảm ở tuổi trưởng thành. Những người đàn ông khác hình thành một cấu trúc cuộc sống có thể tồn tại một cách hợp lý trên thế giới nhưng lại kém kết nối với bản thân. Mặc dù họ cố gắng hết sức vì bản thân và người khác, nhưng cuộc sống của họ vẫn thiếu sự phấn khích và ý nghĩa bên trong. Vẫn còn những người đàn ông khác đã bắt đầu tuổi trung niên sẽ có những thỏa mãn và thỏa mãn đặc biệt của riêng mình. Đối với những người đàn ông này, tuổi trung niên thường là mùa sung mãn và sáng tạo nhất trong vòng đời. Họ bớt độc tài hơn bởi những tham vọng, đam mê và ảo tưởng của tuổi trẻ. Họ có thể gắn bó sâu sắc hơn với người khác và tách biệt hơn, tập trung hơn vào bản thân. Đối với họ, mùa giải trôi qua trong nhịp điệu tốt nhất và hài lòng nhất.

Các giai đoạn tiếp theo ở tuổi trưởng thành giữa

Vào cuối tuổi bốn mươi, một người đàn ông đã hình thành cấu trúc cuộc sống ban đầu cho tuổi trưởng thành trung niên. Anh ta đi đâu từ đây? Mặc dù chúng tôi không nghiên cứu những người đàn ông ngoài độ tuổi này, nhưng có bằng chứng cho thấy chuỗi các giai đoạn ổn định và chuyển tiếp vẫn tiếp tục trong toàn bộ vòng đời. Quá trình phát triển của sự tăng trưởng, suy giảm và thay đổi vẫn tiếp tục. Dưới đây là một cái nhìn dự kiến ​​về các giai đoạn tiếp theo ở tuổi trưởng thành trung niên.

Có một Sự Chuyển đổi Tuổi 50, thường kéo dài từ khoảng 50 đến 55 tuổi. Các chức năng của giai đoạn này ở tuổi trưởng thành tương tự như của Giai đoạn Chuyển đổi Tuổi Ba mươi ở giai đoạn đầu trưởng thành. Trong đó, một người đàn ông có thể làm việc sâu hơn trong các nhiệm vụ của Chuyển đổi giữa cuộc sống và có thể sửa đổi cấu trúc cuộc sống được hình thành vào giữa những năm bốn mươi. Đó có thể là thời kỳ khủng hoảng đối với những người đàn ông thay đổi quá ít trong Quá trình chuyển đổi giữa cuộc đời của họ và sau đó xây dựng một cấu trúc cuộc sống không thỏa đáng. Theo quan điểm của chúng tôi, không thể vượt qua tuổi trưởng thành trung niên mà không gặp phải ít nhất một cuộc khủng hoảng vừa phải trong Quá trình chuyển đổi giữa cuộc đời hoặc Chuyển đổi tuổi 50.

Từ khoảng 55 đến 60 tuổi, một giai đoạn ổn định được dành để xây dựng cấu trúc người trưởng thành ở tuổi trung niên thứ hai, cung cấp một phương tiện hoàn thiện tuổi trưởng thành giữa. Đối với những người đàn ông có khả năng trẻ hóa bản thân và làm phong phú cuộc sống của mình, thập niên năm mươi có thể là thời điểm viên mãn tuyệt vời. Giai đoạn này tương tự như Giai đoạn định cư ở giai đoạn đầu của tuổi trưởng thành. Cuối cùng, từ khoảng 60 đến 65, Giai đoạn Chuyển đổi Trưởng thành muộn chấm dứt tuổi trưởng thành giữa và tạo cơ sở để bắt đầu tuổi trưởng thành muộn. Nhiệm vụ của quá trình chuyển đổi này là kết thúc những nỗ lực của tuổi trưởng thành giữa và chuẩn bị cho bản thân cho kỷ nguyên sắp tới. Đó là một giai đoạn phát triển đáng kể và thể hiện một bước ngoặt lớn trong vòng đời. Trong mỗi quá trình chuyển đổi giữa các kỷ nguyên, một mùa mới được sinh ra và có hình dạng ban đầu. Những chuyển đổi này có ảnh hưởng lớn đến tương lai, nhưng chúng không bao giờ nói lên toàn bộ câu chuyện. Mỗi giai đoạn mới đều đóng góp thiết yếu cho quá trình sống. Trong mọi thời kỳ, chúng ta đều đau khổ vì quá trình phát triển chưa hoàn thành của các thời kỳ trước – cuối cùng thì những con gà này cũng trở về nhà để gà trống – nhưng chúng ta cũng có cơ hội để làm công việc phát triển hơn nữa và tạo ra một cuộc sống phù hợp hơn với bản thân.

Về tâm lý phát triển tuổi trưởng thành- bài 4 phần 1

Levinson rất thích hình ảnh mà Miller đã vẽ, cá ở trong nước và nước ở trong cá. Trong y học cổ truyền chúng ta cũng hay nói đến khái niệm, trong âm có dương và trong dương có âm. Nhưng bằng việc đã cố gắng hình ảnh hóa khái niệm này, tôi luôn xem xét đến 2 đại lượng tương đối cân bằng nhau về số lượng. Nhưng hình ảnh của Miller thì cho phép tôi cảm nhận nhận về 2 đại lượng có kích cỡ (số lượng)chênh lệch nhau khá lớn, nhưng vẫn đan xen trong nhau. Và đó cũng là những bàn luận cần đặt ra trong tiếp cận can thiệp đa ngành của blog này. Rằng các tranh chấp về kích cỡ mỗi tiếp cận có thể rất kịch liệt do cái tôi, nguồn lực, xu thế xã hội… nhưng mỗi thời kì với dấu ấn của nó sẽ qua đi cho thời kì mới, với dấu ấn mới, và sự thay đổi của vị trí mỗi thành phần. Cấu trúc của một trật tự luôn phát triển một cách biện chứng.

Các Thời kỳ Phát triển: Sự Tiến hóa của Cấu trúc Đời sống Cá nhân

Trình tự các kỷ nguyên, được mô tả trong chương trước, tạo thành khung tổng thể của vòng đời. Trong khuôn khổ này, chúng ta có thể theo đuổi câu hỏi cơ bản của cuộc điều tra này: Liệu có cái gọi là quá trình phát triển bình thường của cá nhân ở tuổi trưởng thành sớm và giữa không? Khi nghiên cứu của chúng tôi tiến triển, những phát hiện của chúng tôi đã đưa chúng tôi từ ý tưởng về một quá trình phát triển ổn định, liên tục đến ý tưởng về các thời kì phát triển khác nhau về chất lượng. Chúng tôi bắt đầu xác định một chuỗi các thời kì, từ cuối tuổi vị thành niên đến giữa những năm bốn mươi, mà qua đó, tất cả các đối tượng của chúng tôi đều vượt qua.

Một số manh mối về bản chất của các thời kỳ đã được ghi nhận trong cuộc thảo luận về các kỷ nguyên. Như tôi đã nói, sự chuyển dịch từ kỷ nguyên này sang kỷ nguyên tiếp theo là một sự thay đổi lớn về mặt phát triển. Nó không xảy ra dễ dàng hoặc nhanh chóng. Đúng hơn, có một sự chuyển đổi giữa các kỷ nguyên, một thời kì phát triển thường kéo dài bốn hoặc năm năm. Trong giai đoạn chuyển tiếp trưởng thành sớm (17 đến 22 tuổi), chúng ta kết thúc giai đoạn tiền trưởng thành và bắt đầu bước vào tuổi trưởng thành sớm. Quá trình chuyển đổi thế giới giữa (từ 40 đến 45 tuổi) cho phép một người đàn ông chấm dứt tuổi trưởng thành sớm và bắt đầu tuổi trưởng thành giữa. Việc khám phá ra những thời kỳ này đã khiến chúng ta đặt câu hỏi rằng liệu có phải có những thời kỳ phát triển bổ sung trong mỗi kỷ nguyên hay không.

Chúng tôi cũng nhận thấy rằng các kỷ nguyên được phân biệt bởi những thay đổi trong đặc điểm chung của cuộc sống. Kỷ nguyên không nhất thiết thể hiện khi người ta tập trung vào một khía cạnh duy nhất của cuộc sống, như hầu hết các nhà điều tra đã làm. Để nắm bắt được bản chất của sự phát triển trưởng thành, chúng ta phải bắt đầu với cuộc sống cá thể theo khuôn mẫu của nó tại một thời điểm nhất định, và theo dõi sự tiến hóa của nó qua nhiều năm. Khi chúng tôi xem xét cuộc đời của mỗi người từ vị trí thuận lợi này, đầu tiên chúng tôi đã quan sát khái quát về các kỷ nguyên và sự chuyển tiếp giữa các kỷ nguyên. Sau đó, xem xét kỹ hơn quá trình sống, chúng tôi nhận thấy trong mỗi kỷ nguyên có một loạt các giai đoạn phát triển, tương tự về bản chất cơ bản của chúng với sự chuyển đổi giữa các kỷ nguyên.

Nhiều khái niệm và kỹ thuật có sẵn để nghiên cứu các khía cạnh cụ thể của cuộc sống. Nhưng làm thế nào để chúng ta nghiên cứu đặc trưng của cuộc đời một người đàn ông và sự tiến hóa của nó trong một khoảng thời gian dài? Nhiều người sẽ nói rằng đây là một nhiệm vụ quá khó, nó bao gồm “quá nhiều biến số” và đưa chúng ta vượt quá giới hạn của một chuyên ngành duy nhất. Câu trả lời của tôi: vâng, nghiên cứu về cuộc sống cá nhân nằm ngoài phạm vi của bất kỳ chuyên ngành nào, và rất khó để làm tốt — nhưng có thể làm được! Trong nghiên cứu hiện tại, tôi tin rằng chúng tôi đã có một bước khởi đầu quan trọng, mặc dù đó mới chỉ là một bước khởi đầu và còn rất nhiều việc phải làm.

Khái niệm chúng tôi đã tạo ra cho mục đích này – và nó là khái niệm then chốt trong toàn bộ công việc của chúng tôi – là cấu trúc cuộc sống cá nhân. Theo “cấu trúc cuộc sống”, chúng tôi định nghĩa là mô hình hoặc thiết kế cơ bản của cuộc sống của một người tại một thời điểm nhất định. Ở đây chúng tôi đang nghiên cứu cuộc sống của đàn ông. Cuộc sống của một người đàn ông có nhiều thành phần: nghề nghiệp của anh ta, các mối quan hệ tình yêu của anh ta, hôn nhân và gia đình của anh ta, mối quan hệ của anh ta với bản thân, việc sử dụng sự cô đơn, vai trò của anh ta trong các bối cảnh xã hội khác nhau— tất cả các mối quan hệ với cá nhân, nhóm và tổ chức có ý nghĩa đối với anh ta . Tính cách của anh ta ảnh hưởng và bị ảnh hưởng bởi sự tham gia của anh ta vào mỗi người trong số họ. Tuy nhiên, chúng ta phải bắt đầu với cấu trúc cuộc sống tổng thể. Khi đã xác định được đặc điểm cuộc sống của mỗi cá nhân, chúng ta có thể nghiên cứu chi tiết hơn những thay đổi xảy ra trong nhân cách, trong hôn nhân và nghề nghiệp, và trong các thành phần khác của cuộc sống.

Chúng tôi nhận thấy rằng, trong những năm qua, cấu trúc sự sống phát triển theo một trình tự tiêu chuẩn của các giai đoạn. Các giai đoạn phát triển mà tôi sẽ mô tả ngay sau đây là các giai đoạn trong quá trình phát triển của cấu trúc sự sống. Tôi muốn nhấn mạnh và nhấn mạnh lại điểm này, vì nó thường bị hiểu nhầm. Tôi không nói về các giai đoạn phát triển bản ngã, phát triển nghề nghiệp hoặc phát triển trong bất kỳ khía cạnh nào của cuộc sống. Tôi đang nói về các giai đoạn trong quá trình tiến hóa, cấu trúc văn học cá nhân. Các giai đoạn và kỷ nguyên mà chúng là một phần, tạo thành một nguồn trật tự cơ bản trong chu kỳ sống. Thứ tự tồn tại ở cấp độ cơ bản. Ở cấp độ hành động, sự kiện và kinh nghiệm cụ thể hàng ngày trực tiếp hơn, cuộc sống của chúng ta thường thay đổi nhanh chóng và bị phân mảnh.

Giờ đây, chúng tôi đã chuẩn bị để duy trì ý tưởng rằng mọi người đều sống qua các giai đoạn phát triển giống nhau khi trưởng thành, cũng như thời thơ ấu, mặc dù mọi người trải qua chúng theo những cách hoàn toàn khác nhau. Mỗi cuộc sống cá nhân có một đặc điểm riêng của nó. Một lý thuyết hợp lệ về sự phát triển không phải là một khuôn mẫu hay bản thiết kế cụ thể cho một khóa học “bình thường” duy nhất mà mọi người phải tuân theo. Thay vào đó, chức năng của nó là chỉ ra các nhiệm vụ phát triển mà mọi người phải thực hiện trong các giai đoạn liên tiếp và các hình thức vô cùng đa dạng mà công việc đó có thể thực hiện ở những cá nhân khác nhau sống trong những điều kiện khác nhau. Một lý thuyết như vậy làm tăng cảm giác của chúng ta về tiềm năng của con người và về sự đa dạng của cuộc sống cá nhân; nó không áp đặt một khuôn mẫu cho sự phù hợp.

Cấu trúc Đời sống Cá nhân

Khái niệm của cấu trúc cuộc sống — khuôn mẫu hoặc thiết kế cơ bản của cuộc sống của một người tại một thời điểm nhất định — cho chúng ta một cách nhìn về sự tham gia của cá nhân trong xã hội. Nó đòi hỏi chúng ta phải xem xét cả bản thân và thế giới, và các mối quan hệ giữa chúng. Nghiên cứu của chúng tôi đã chỉ ra rằng cấu trúc cuộc sống trải qua một quá trình phát triển khi trưởng thành. Đó là trọng tâm chính trong phân tích của chúng tôi. Khi tôi nói về sự phát triển của người trưởng thành, tôi muốn nói đến sự tiến hóa của cấu trúc cuộc sống trong những năm trưởng thành.

Khái niệm cấu trúc cuộc sống cung cấp một công cụ để phân tích những gì đôi khi được gọi là “kết cấu cuộc sống của một người.” Thông qua đó, chúng ta có thể xem xét các mối tương quan giữa bản thân và thế giới – để xem bản thân ở trong thế giới như thế nào và thế giới ở trong bản thân như thế nào. Khi một sự kiện bên ngoài có tác động quyết định, chúng tôi xem xét các quá trình trong bản thân có thể đã giúp tạo ra nó như thế nào và làm trung gian cho các tác động của nó. Khi xung đột nội tâm dẫn đến hành động kịch tính, chúng tôi xem xét các tác động bên ngoài có thể tác động đến xung đột như thế nào và quyết định nó sẽ diễn ra như thế nào. Chúng tôi cố gắng xác định xem các khía cạnh khác nhau của bản thân và thế giới ảnh hưởng như thế nào đến sự hình thành cấu trúc cuộc sống và định hình sự thay đổi của nó theo thời gian.

Cấu trúc cuộc sống có thể được xem xét theo ba khía cạnh:

a. Thế giới văn hóa xã hội của cá nhân khi nó tác động lên anh ta có ý nghĩa và hậu quả đối với anh ta. Do đó, để hiểu cuộc sống của một người đàn ông, chúng ta phải tính đến xã hội mà anh ta đang sống. Chúng ta phải đặt anh ta trong các bối cảnh xã hội khác nhau – giai cấp, tôn giáo, dân tộc, gia đình, hệ thống chính trị, cơ cấu nghề nghiệp – và hiểu được mức độ phù hợp của chúng đối với anh ta. Cuộc sống của anh ta bị thay đổi bởi những thay đổi trong nền văn hóa xung quanh, trong các phong trào và thể chế xã hội, trong nền kinh tế và môi trường chính trị. Anh ta bị ảnh hưởng bởi những sự kiện lớn như chiến tranh và suy thoái, và bởi những điều kiện cụ thể hơn trong công việc, gia đình và cuộc sống cộng đồng của anh ta.

b. Một số khía cạnh tức tối của bản thân của anh ấy được thể hiện ra ngoài; các khía cạnh khác bị ức chế hoặc bị bỏ qua. Cái tôi bao gồm một khuôn mẫu phức tạp về mong muốn, xung đột, lo lắng và cách giải quyết hoặc kiểm soát chúng. Nó bao gồm tưởng tượng, giá trị đạo đức và lý tưởng, tài năng và kỹ năng, đặc điểm tính cách, phương thức cảm nhận, suy nghĩ và hành động. Một phần của cái tôi là có ý thức; nhiều là vô thức; và chúng ta phải xem xét cả hai phần. Những khía cạnh quan trọng của bản thân, được hình thành ban đầu ở thời kỳ trước khi trưởng thành, tiếp tục ảnh hưởng đến cuộc sống của một người đàn ông khi trưởng thành. Chúng ta phải xem cách người đó dựa vào cái tôi, hoặc bỏ qua nó, trong cuộc sống hàng ngày của anh ta. Cái tôi là một yếu tố nội tại của cấu trúc cuộc sống và không phải là một thực thể riêng biệt.

c. Chúng ta cần xem xét sự tham gia của người đàn ông vào thế giới. Thế giới bên ngoài cung cấp cảnh quan, dàn nhân vật, nhiều loại tài nguyên và những ràng buộc mà từ đó một người đàn ông tự trang trí cuộc sống của mình. Một người đàn ông sử dụng có chọn lọc và được thế giới của anh ta sử dụng, thông qua các mối quan hệ và vai trò đang phát triển của anh ta với tư cách là công dân, người yêu, người làm công, ông chủ, bạn bè, chồng, cha, thành viên của các nhóm và doanh nghiệp đa dạng. Sự tham gia liên quan đến các giao dịch giữa bản thân và thế giới. Các giao dịch có những hình thức rõ ràng, nhưng ý nghĩa và cảm giác tinh tế đóng một phần quan trọng trong chúng.

Khi nghiên cứu sự tiến hóa của cấu trúc sự sống, chúng ta đang xem xét tiểu sử theo nghĩa cơ bản nhất: chúng ta bắt đầu với quá trình cuộc sống cụ thể khi nó phát triển theo thời gian. Nhiệm vụ của người viết tiểu sử là trình bày một bức tranh đầy đủ về cuộc sống của đối tượng của mình. Anh ta cố gắng đi đến một cấu trúc diễn giải chính xác về mặt thực tế và “có ý nghĩa” về bản chất và trình tự của cuộc sống này. Anh đặt đối tượng của mình trong bối cảnh xã hội và lịch sử của mình, đồng thời thăm dò bản thân người đó, cố gắng nắm bắt những khát vọng riêng tư nhất, phẩm chất của nhân vật, những dằn vặt và hoàn thành. Anh ta cố gắng thể hiện cách một người vừa là sự phản ánh của xã hội xung quanh anh ta, vừa là tác nhân sáng tạo, đóng góp độc đáo của anh ta, dù lớn hay nhỏ, cho sự liên tục và thay đổi thế giới quanh anh ta. Do đó, thuật ngữ “tiểu sử” dùng để chỉ một doanh nghiệp phức tạp bao gồm nhiệm vụ, phương pháp làm việc, quan niệm lý thuyết và sản phẩm. Người viết tiểu sử, như nó vốn có, là một con lai: anh ta là một nhà sử học-nhà tâm lý học-nhà xã hội học-người viết thư. Trong khi tập hợp các phương pháp tiếp cận lý thuyết và các nguồn thông tin khác nhau, anh ta phải duy trì sự trung thành của mình với cuộc sống độc đáo, mang phong cách riêng của chủ thể của mình. Chúng tôi đang tham gia ở đây trong một dạng tiểu sử.

Chúng ta sẽ mô tả và phân tích cấu trúc cuộc sống như thế nào? Tôi tin rằng điểm khởi đầu hữu ích nhất là cân nhắc những lựa chọn của một người và cách anh ta giải quyết hậu quả của chúng. Những lựa chọn quan trọng trong cuộc sống của người trưởng thành liên quan đến công việc, gia đình, tình bạn và các mối quan hệ yêu đương khác nhau, nơi sống, giải trí, tham gia vào đời sống tôn giáo, chính trị và cộng đồng, các mục tiêu trước mắt và lâu dài.

Đưa ra một lựa chọn quan trọng trong cuộc sống là một vấn đề phức tạp. Chọn tham gia một nghề nghiệp không giống như chọn một món tráng miệng hoặc một nhãn hiệu xà phòng (mặc dù nhiều mô hình ra quyết định xem xét chúng như thể chúng giống nhau). Quyết định kết hôn phát triển từ mối quan hệ trước hôn nhân và là điểm khởi đầu cho một mối quan hệ hôn nhân phát triển. Bản thân và thế giới của một người đàn ông liên quan nhiều đến tính cách của mối quan hệ ban đầu, vào quyết định kết hôn, và vào những thăng trầm hơn nữa của cuộc hôn nhân.

Vì vậy, khi mô tả những lựa chọn quan trọng trong cuộc đời của một người đàn ông tại một thời điểm nhất định, không đủ để giải quyết “sự lựa chọn” một cách cô lập. Nói cách khác, nói đơn giản là anh ta đã kết hôn với một phụ nữ cụ thể là chưa đủ, anh ta là thành viên của nghề nghiệp X và làm việc tại nơi làm việc Y, hoặc anh ta thuộc tôn giáo A, đảng chính trị B và trật tự huynh đệ. C. Nó là cần thiết để vượt ra ngoài một danh sách các mục đơn thuần. Chúng ta phải xem xét ý nghĩa và chức năng của mỗi lựa chọn trong cấu trúc cuộc sống cá nhân. Là một thành phần của cấu trúc cuộc sống, mọi lựa chọn đều bị bão hòa bởi cả bản thân và thế giới. Để chọn một cái gì đó có nghĩa là phải có một mối quan hệ với nó. Mối quan hệ trở thành một phương tiện để sống những khía cạnh nhất định của bản thân và để tham gia vào những phương thức tham gia nhất định vào thế giới.

Các thành phần chính của cấu trúc cuộc sống là những lựa chọn, theo nghĩa mà tôi vừa mô tả. Các thành phần không phải là đặc điểm của bản thân, chẳng hạn như động cơ và khả năng, cũng không phải là đặc điểm của thế giới, chẳng hạn như thể chế, nhóm và đối tượng. Tuy nhiên, khi mô tả đặc điểm của mỗi lựa chọn, cần phải hiểu bản chất của mối quan hệ của người đàn ông với nó, đặt nó trong cấu trúc cuộc sống, và xem nó được kết nối như thế nào với cả bản thân và thế giới.

Các thành phần của cấu trúc sự sống không phải là một tập hợp ngẫu nhiên của các mục, giống như những viên sỏi dạt vào bờ biển. Đúng hơn, giống như những sợi chỉ trong tấm thảm, chúng được dệt thành một thiết kế bao trùm. Các chủ đề lặp lại trong các lĩnh vực khác nhau giúp thống nhất mẫu tổng thể của tấm thảm. Cuộc sống rất khác nhau về bản chất và mô hình của các thành phần.

Một hoặc hai thành phần (hiếm khi nhiều đến ba) có một vị trí trung tâm trong cấu trúc. Những thành phần khác, mặc dù quan trọng, là ngoại vi hơn, và vẫn còn những thành phần khác nữa, khá ngoài lề hoặc tách rời khỏi trung tâm. Các thành phần trung tâm có ý nghĩa lớn nhất đối với bản thân và đối với quá trình phát triển của cuộc sống. Chúng nhận được phần lớn thời gian và năng lượng của một người, và chúng ảnh hưởng mạnh mẽ đến những lựa chọn được thực hiện trong các khía cạnh khác của cuộc sống. Các thành phần ngoại vi dễ tách rời và thay đổi hơn; chúng liên quan đến việc đầu tư ít hơn và ít quan trọng hơn đối với kết cấu cuộc sống của một người.

Cấu trúc cuộc sống có thể thay đổi theo nhiều cách khác nhau. Một thành phần có thể chuyển từ trung tâm sang ngoại vi hoặc ngược lại, khi một người đàn ông đã hoàn thành cam kết với công việc, bắt đầu tách mình ra khỏi nó và liên quan nhiều hơn đến cuộc sống gia đình. Một thành phần quan trọng trước đây có thể bị loại bỏ hoàn toàn. Đặc trưng của các mối quan hệ của một người đàn ông trong một thành phần nhất định có thể thay đổi, vừa phải hoặc mạnh mẽ. Ví dụ, một người đàn ông có thể vẫn trong cuộc hôn nhân hiện tại nhưng làm phong phú và sâu sắc hơn mối quan hệ hôn nhân; anh ta có thể sửa đổi bản chất và ý nghĩa công việc của mình, mà không cần thay đổi nghề nghiệp; hoặc anh ta có thể đưa ra một lựa chọn mới về người vợ hoặc nghề nghiệp dẫn đến sự thay đổi về chất trong tính cách của cuộc đời anh ta.

Các thành phần có thể trở thành trung tâm nhất trong cuộc sống của một người đàn ông là nghề nghiệp, hôn nhân-gia đình, tình bạn và các mối quan hệ đồng đẳng, sắc tộc và tôn giáo. Giải trí cũng có thể có một vị trí trung tâm, khi nó phục vụ các chức năng quan trọng cho bản thân và không chỉ là một hoạt động bình thường. Chơi thể thao sau giờ làm việc, hoặc xem thể thao trên TV, là một vấn đề nghiêm túc đối với nhiều nam giới. Chúng tôi nhận thấy rằng nghề nghiệp và hôn nhân-gia đình thường là những thành phần trung tâm nhất, mặc dù có sự khác biệt đáng kể về tỷ trọng tương đối của chúng và tầm quan trọng của các thành phần khác. Công việc và gia đình là đặc điểm chung của cuộc sống con người. Chúng ta hãy xem xét các thành phần này kỹ hơn.

nghề nghiệp. Trong tất cả các xã hội, công việc là một phần chính của cuộc sống cá nhân và của cấu trúc xã hội. Mỗi người đàn ông phải đóng góp sức lao động của mình trong một số hình thức công việc được coi là hữu ích cho bộ tộc. Nghề nghiệp của một người đàn ông là một trong những yếu tố cơ bản quyết định thu nhập, uy tín và vị trí của anh ta trong xã hội. Về mặt học thuật, công việc được tổ chức thành một số nghề do xã hội xác định, được giảng dạy, có giá trị và phần thưởng khác biệt, và được tích hợp vào các cấu trúc kinh tế đơn giản hoặc phức tạp.

Trong một khoảng thời gian dài, một người đàn ông chọn và hình thành một nghề nghiệp. Tất cả nam giới đều thực hiện một hoặc nhiều thay đổi, một số thay đổi khá rõ ràng, trong nghề nghiệp ban đầu hoặc từ nghề nghiệp này sang nghề nghiệp khác. Nghề nghiệp của một người đàn ông đặt anh ta vào một cấp độ kinh tế xã hội và thế giới làm việc cụ thể. Nó có ảnh hưởng mạnh mẽ đến những lựa chọn có sẵn cho anh ta, những lựa chọn anh ta đưa ra trong số đó, và khả năng thăng tiến và sự hài lòng của anh ta. Thế giới công việc của anh ấy cũng ảnh hưởng đến những lựa chọn mà anh ấy đưa ra trong các lĩnh vực khác của cuộc sống.

Nghề nghiệp có những nguồn gốc quan trọng bên trong bản thân và những hệ quả quan trọng đối với bản thân. Nó thường là phương tiện chính để xác định ước mơ của một người đàn ông trẻ cho tương lai, và phương tiện mà anh ấy sử dụng để theo đuổi những ước mơ đó. Tốt nhất, nghề nghiệp của anh ta cho phép thực hiện các giá trị cơ bản và mục tiêu cuộc sống. Tệ nhất, cuộc sống làm việc của một người đàn ông trong những năm qua là áp bức và hư hỏng, và góp phần vào việc ngày càng xa lánh bản thân, công việc và xã hội. Khi nghiên cứu cuộc sống của một người đàn ông, chúng ta cần hiểu ý nghĩa của công việc và nhiều cách mà nó có thể phục vụ để hoàn thành, để duy trì hay phá hủy bản thân.

hôn nhân và gia đình. Trong tất cả các xã hội, một người đàn ông phải kết hôn và đảm nhận một số trách nhiệm trong hệ thống gia đình. Tất nhiên, có sự khác biệt lớn về vai trò được xác định về mặt văn hóa của người chồng, người cha và trong cấu trúc gia đình. Một người đàn ông thường muốn kết hôn và để gia đình trở thành thành phần trung tâm trong cấu trúc cuộc sống của mình.

Hôn nhân thường tạo ra một ngôi nhà mới cho chàng trai trẻ. Đó là một trung tâm mà anh ấy thiết lập vị trí của mình trong cộng đồng và các mối quan hệ đang thay đổi của anh ấy với bạn bè, cha mẹ và đại gia đình. Nó cung cấp một phương tiện để đi trên một con đường cụ thể trong giai đoạn đầu của tuổi trưởng thành. Lựa chọn hôn nhân của anh ấy phản ánh một số giá trị mới nổi của anh ấy nhưng lại vi phạm những giá trị khác. Nó liên kết anh ta với một số bối cảnh xã hội nhất định trong khi tách anh ta khỏi những người khác.

Nếu anh ta kết hôn với “cô gái bên cạnh”, cuộc hôn nhân có thể tạo ra sự ổn định và liên tục trong cuộc sống của anh ta. Trong trường hợp này, nhiều khả năng anh ta sẽ sống trong cùng một khu phố, có nghề nghiệp và phong cách sống phù hợp với các giá trị của cha mẹ, và hòa nhập cuộc sống của mình với các mô hình dân tộc và tôn giáo của tổ tiên. Mặt khác, việc kết hôn với một người phụ nữ có hoàn cảnh và nguyện vọng khác có thể là một phần của sự thay đổi lớn trong cuộc đời anh ta. Nhiều ý nghĩa và chức năng của hôn nhân là tiềm ẩn hoặc thậm chí là vô thức: chúng tự bộc lộ theo thời gian theo những cách thay đổi và thường không lường trước được.

Cuộc sống gia đình của một người đàn ông thường có ảnh hưởng lớn đến cuộc sống hiện tại của anh ta nói chung. Gia đình trực hệ của anh ta kết nối anh ta với nhiều thành phần khác nhau của cuộc sống, chẳng hạn như gia đình gốc, dân tộc và nghề nghiệp của anh ta. Nó đặt anh ta vào một thế giới rộng lớn hơn và cung cấp một phương tiện được thiết kế tốt cho những hành trình cuộc sống nhất định và thiết kế kém cho những người khác. Nó cho phép anh ta sống theo những phần nhất định của bản thân và để những thành phần khác không hoạt động hoặc bị kìm nén.

Các ngành nghề và lĩnh vực khoa học khác nhau thường tập trung vào một thành phần của cuộc sống với sự loại trừ tương đối của những thành phần khác. Ví dụ, rất nhiều nghiên cứu và tư vấn đã được dành cho nghề nghiệp. Các nhà điều tra thừa nhận rằng sự nghiệp công việc của một người đàn ông bị ảnh hưởng bởi các yếu tố khác, chẳng hạn như tính cách, cuộc sống gia đình và bối cảnh dân tộc. Tuy nhiên, nhìn chung, họ có xu hướng bỏ qua các thành phần không phải nghề nghiệp hoặc chỉ xem xét chúng một cách sơ sài. Họ không có khuôn khổ lý thuyết nào để đan xen các thành phần khác nhau. Tương tự như vậy, rất nhiều nghiên cứu và tư vấn đã được dành cho hôn nhân và gia đình. Tuy nhiên, gia đình và nghề nghiệp hiếm khi được gắn kết với nhau trong sự hiểu biết của chúng ta về cuộc sống trưởng thành.

Trong các lĩnh vực nghiên cứu nhân cách và thực hành lâm sàng, trọng tâm cơ bản thường là vào bản thân, mà bỏ qua thực tế về công việc, hôn nhân, sắc tộc và giai cấp trong cuộc sống của một người đàn ông. Lý thuyết nhân cách và liệu pháp tâm lý sẽ được củng cố khi họ xem xét nhiều hơn đến bản thân người lớn khi nó gắn bó với các thể chế xã hội và với sự phân mảnh, khả năng phá hủy và khả năng sáng tạo vốn là những thứ của cuộc sống người lớn trong xã hội.

Cái tôi ở trong thế giới, thế giới ở trong cái tôi

Trong nghiên cứu khoa học về con người, có khuynh hướng mạnh mẽ trong mỗi chuyên ngành là tập trung vào một vài khía cạnh của cuộc sống con người và bỏ bê những khía cạnh khác. Một trong những phân chia chính là giữa cá nhân và xã hội. Tâm lý học và tâm thần học tập trung chủ yếu vào cá nhân. Khoa học xã hội, chẳng hạn như xã hội học, nhân học xã hội và khoa học chính trị, tập trung chủ yếu vào xã hội và đời sống tập thể. Họ có xu hướng bỏ qua hoàn toàn cá nhân hoặc coi anh ta như một sản phẩm đơn giản của các lực lượng định hình trong xã hội. Mặc dù nghiên cứu về chu kỳ sống của cá nhân nói chung được coi là một lĩnh vực nghiên cứu thích hợp trong khoa học xã hội, tuy nhiên nó hầu như vẫn chưa được chạm đến.

Nó là cần thiết để có một cách tiếp cận rộng hơn. Chúng ta cần bao trùm cả bản thân và xã hội, mà không tạo ra một chính và một phụ hoặc bản sao nào khác. Chúng ta cần nghiêm túc xem xét ý tưởng về sự phát triển của người trưởng thành – rằng có một số trật tự cơ bản trong vòng đời – và ý tưởng về sự xã hội hóa của người trưởng thành – rằng bản thân tồn tại trong một thế giới và sự tiến hóa của nó gắn bó mật thiết với thế giới đó. Khái niệm về cấu trúc cuộc sống cung cấp một điểm khởi đầu cho cách tiếp cận này.

Cấu trúc cuộc sống cá nhân là một khuôn mẫu của bản thân và thế giới. Tuy nhiên, bản thân và thế giới không phải là hai thực thể riêng biệt. Chúng không giống như những quả bóng bi-a va chạm, ảnh hưởng đến đường đi của nhau nhưng không phải là bản chất của nhau. Một đặc điểm thiết yếu của cuộc sống con người là sự đan xen giữa các tương tác của bản thân và thế giới. Mỗi bên trong cái kia. Suy nghĩ của chúng ta về cái này phải tính đến cái kia.

Sự đan xen giữa bản thân và thế giới đã được Arthur Miller khắc họa một cách tuyệt vời trong các vở kịch và tiểu luận của mình. Quan điểm tâm lý – xã hội của anh ấy về kịch tương đồng với quan điểm của chúng ta về sự phát triển của người trưởng thành:

. . . xã hội là bên trong của con người và con người ở bên trong xã hội, và bạn thậm chí không thể tạo ra một thực thể tâm lý được vẽ chân thực trên sân khấu cho đến khi bạn hiểu các mối quan hệ xã hội của anh ta và sức mạnh của chúng để biến anh ta thành con người và ngăn anh ta trở thành cái không phải của anh ta. Cá ở trong nước và nước ở trong cá.

Miller chỉ trích “chủ nghĩa hiện thực xã hội” thịnh hành ở sân khấu Mỹ trong những năm 1930. Các vở kịch thời kỳ này khắc họa những mâu thuẫn, mâu thuẫn trong xã hội nhưng nhân vật thiếu tính cá nhân. Ông cũng chỉ trích nhiều vở kịch của những năm 1950, trong đó miêu tả trải nghiệm chủ quan của vị thành niên nhưng ít nói về bản thân người lớn đối mặt với những trách nhiệm và tiềm năng của cuộc sống trong một xã hội phức tạp. Miller viết:

Theo ý kiến ​​của tôi, nếu giai đoạn của chúng ta không đi qua ảnh hưởng đến việc đánh giá thế giới, nó sẽ chuyển sang một ngành tâm thần học kém hơn và một bệnh lý kém hiệu quả hơn. Chúng ta sẽ bị giới hạn khi viết một “Oedipus” không có dịch bệnh, một “Oedipus” có thảm họa là riêng tư và không liên quan đến sự sống còn của dân tộc anh ta, một “Oedipus” không thể rơi nước mắt vì sẽ không có tiêu chuẩn nào cho anh ta. có thể tự mình đánh giá; “Oedipus”, trong một từ, người khi biết về cuộc hôn nhân loạn luân của mình, thay vì rơi nước mắt, sẽ chỉ lau nước mắt để tuyên bố sự cô đơn của mình.

Miller nói, nếu chúng ta muốn có một nhà hát thực sự dành cho người lớn – và một cơ sở đầy đủ hơn để nghiên cứu sự phát triển của người trưởng thành – thì chúng ta phải nhận ra sự đan xen này giữa bản thân và thế giới. Cái tôi là một phần nội tại của thế giới bên ngoài. Chúng ta không thể nắm bắt đầy đủ bản chất của thế giới của một người đàn ông nếu không nhìn thấy nó được tô màu và định hình như thế nào bởi bản thân anh ta và bản thân của những người khác. Và thế giới bên ngoài là một phần nội tại của bản thân. Chúng ta không thể nắm bắt được bản chất đầy đủ của cái tôi nếu không nhìn thấy các khía cạnh đa dạng của thế giới được phản ánh và chứa đựng bên trong nó như thế nào.

Cấu trúc của xã hội được phản ánh trong bản thân và cấu trúc cuộc sống. Cuộc sống của mỗi người đàn ông cho thấy bằng chứng về sự khôn ngoan và hội nhập của xã hội cũng như những xung đột, áp bức và tàn phá của nó. Xã hội cung cấp cho mỗi thành viên một phạm vi giới hạn về cá nhân, nhóm, nguồn lực vật chất, nghề nghiệp và khả năng tham gia xã hội và tham gia tự do. Nó ảnh hưởng đến sự lựa chọn của anh ta trong số những lựa chọn này, khiến một số lựa chọn hấp dẫn hơn hoặc được thưởng cao hơn những lựa chọn khác. Thông qua cấu trúc của chính nó, xã hội tạo ra một khuôn mẫu trong các lựa chọn của một người đàn ông. Một sự lựa chọn cụ thể đưa một người đàn ông vào một thế giới nhất định, hoặc củng cố vị trí của anh ta trong thế giới đó; đồng thời nó đưa anh ta ra khỏi những thế giới khác mà anh ta đang cân nhắc.

Thế giới bên ngoài cũng góp phần vào bản chất của sự thay đổi gắn bó, khát vọng, lo lắng, nhận dạng, sản phẩm sáng tạo của một người đàn ông. Mọi tổ chức và thế giới xã hội đều có văn hóa, cấu trúc xã hội và điều kiện vật chất ảnh hưởng đến tính cách của các mối quan hệ giữa các thành viên. Thế giới bên ngoài cụ thể của một người thể hiện những ý nghĩa, cảm giác, danh tính và huyền thoại quan trọng mà anh ta sử dụng và nội tâm một cách có chọn lọc. Nó cung cấp lời mời đến chủ nghĩa anh hùng, tử đạo, sự phù hợp mà trống rỗng, cuộc đấu tranh cay đắng hoặc đam mê. Nó khuyến khích sự phát triển của một số bộ phận của bản thân, đồng thời cản trở sự phát triển của những bộ phận khác.

Mặc dù cấu trúc cuộc sống của mỗi người đàn ông phản ánh cấu trúc của xã hội, nhưng ở một số khía cạnh, nó cũng là duy nhất – phản ánh bản thân và hoàn cảnh cụ thể của anh ta. Từ những khả năng và ràng buộc được đưa ra trong môi trường của mình, anh ấy đưa ra lựa chọn của riêng mình và xây dựng thế giới của riêng mình. Cái tôi là nhân tố cốt yếu trong việc hình thành và biến đổi thế giới của mỗi cá nhân.

Để thực sự gắn bó với thế giới của mình, một người đàn ông phải đầu tư những phần quan trọng của bản thân vào nó và, ngang bằng, anh ta phải đưa thế giới vào bản thân của mình và được làm giàu, cạn kiệt và hư hỏng bởi nó. Trong vô số cách, anh ấy đặt mình vào thế giới và đưa thế giới vào chính mình. Sự phát triển của người lớn là câu chuyện về quá trình phát triển đan xen lẫn nhau. Nếu chúng ta muốn hiểu nó, chúng ta phải học cách, trong hình ảnh sống động của Miller, cá ở trong nước và nước ở trong cá.