biên sử nước- chương 10

Mi chỉ cao hứng ghé qua cái xứ cù lao đó thôi, tin tôi đi. Đừng kỳ vọng là Mi sẽ nói nhiều về chuyện này, nếu may anh gặp được cậu ấy. “Thích”, trăm phần trăm Mi sẽ nói vậy. Như cách cậu ta nói về cái áo khoác jean mặc suốt (phải từ trước khi gặp tôi và có thể cả sau khi bọn tôi thôi cặp kè với nhau), nó cũ đến thảm hại: sáp đèn cầy chảy loang lổ trên vai áo, khuy thứ hai từ trên xuống thì rách thành một vệt dài, đôi chỗ sớ vải bục mục bở. Lần đầu đón Mi ở biệt phủ số 2 đường Mỵ Nương, tôi nghĩ cậu ta là con gái người làm vườn hoặc phụ việc trong bếp, nhưng tôi nhanh chóng bẽ bàng với cái ý nghĩ có phần coi thường Mi khi thấy người ta cúi rạp chào cô ở quán rượu Lắc Kêu. Đến giờ nó vẫn là quán rượu sang nhất thành phố. Hơn một nửa rượu trong hầm quán là của Mi, những chai rượu vỏ nặng làm bằng bạch kim hoặc bọc da. Bộ dạng của một người chẳng nói lên được gì hết, trong túi áo cũ là thẻ tín dụng đen quyền lực. Có lần nhìn Mi vắt nước mưa khỏi áo rồi đem phơi trước họng gió của máy điều hòa cho nhanh khô, tôi đã hỏi sao phải là cái áo đó. “Thích!”, cậu ấy nói. Chỉ bằng một từ, Mi giải thích về mọi hành vi của mình. Anh sẽ không thỏa mãn và nếu anh cố gặng hỏi vì sao thích, thì Mi sẽ cười nhạt, nói sao lại bày mê cung của Freud ra đây. 

Tôi gặp Mi trên trang mạng cumocoi.net. Như cái tên cú mồ côi, đó là chỗ bọn chơi đêm tìm bạn đi bão, cắn cỏ, đánh bạc hoặc để say xỉn, làm tình. Một tối Mi nhắn tìm bạn nhảy cầu Sao, tôi nhắn lại gần như tức thì, “Hẹn gặp ở đó”. Mi nói cậu ấy ấn tượng vì tôi chẳng hỏi giờ, “Cảm giác bọn mình sẽ hợp nhau”. Nhưng bọn tôi không nhảy cầu, cậu ấy chào đón tôi bằng những đống lửa huy hoàng. Mi đốt xe hơi đậu trên đường Triệu Thị Trinh, gặp chiếc nào đốt chiếc ấy. Nhìn biểu cảm của anh kìa, chắc là thấy khó tin. Tôi cũng không biết niềm vui đơn giản vậy: Ném cái giẻ bắt lửa vào gầm xe và chờ lửa bùng lên khiến mọi thứ rúm lại méo mó trong họng nó. Tôi ngắm lửa mà không nghĩ gì khác, tập trung vào toàn bộ vẻ đẹp của nó từ khi bùng lên đến lúc lụi tàn. Lửa khử sạch cảm giác ngật ngừ của tôi bởi chứng lệch múi sau giờ sau chuyến bay dài từ Mỹ, bắt đầu cho kỳ nghỉ hè dài vô tận. 

Mười năm rồi. Có thể Mi giờ mang tên khác, giống như tôi. Không sao, anh cứ hút thuốc như thường, chồng sau của tôi cũng phì phèo như anh đã thấy khi ở cổng. Người đàn ông đơn thuần, hay hỏi mấy câu đơn thuần, em yêu anh không, yêu ở chỗ nào, gần đây hay gặp người cũ không. Anh ấy không hỏi tôi đã từng có bao nhiêu cái tên. Mi thì mỗi lần tôi tới đón cô, đều hỏi “Tôi có thể gọi cậu là gì?”. Madonna, Gamma, Lá Khát, Đớp, Xù, Gai. Mang cái tên mới luôn kích thích chúng tôi, như là sống với một phiên bản khác. Người chồng cũ gốc Nhật của tôi hay gặp rắc rối ở sân bay bởi sau mỗi kỳ nghỉ anh ta lại phẫu thuật thay đổi gương mặt. Cuộc chuyển mình đau đớn và tốn kém, nhưng như anh nói, “Sau cùng thì vẫn tuyệt khi làm người mới”. Mi thì khác, cậu ấy nói đừng nghiêm trọng quá, chơi thôi mà sao phải căng. Sói, Mưa, Anne Frank, Lolita. Nhưng tôi thích gọi Mi là Mi. Đó là cái tên mà cô ấy tự xưng, khi bước vào đồn cảnh sát, vào ngày cuối cùng chúng tôi đi cùng nhau. 

Chuyện cũng đã lâu, hồi đó thấy ghê gớm lắm, giờ có một khoảng lùi thì nó khá trẻ con. Giống như con sông trước nhà luôn nhỏ lại khi con người ta lớn lên. Chúng tôi kéo đổ tượng đài trung tâm ở quảng trường. Phải, giờ nó vẫn đứng chỗ ấy. Dĩ nhiên là họ phục dựng lại ngay sau đó và nếu để ý anh sẽ thấy có vết gợn ở gối tượng. Truyền thông không được nhắc tới vụ này, anh chẳng cần tra cứu mất công. Họ chẳng muốn phơi ra sự thật rằng khối tượng đắt đỏ đó bị hai đứa con gái trèo lên xe ben quàng xích kéo đổ gọn ơ, bởi ngoài mấy que tre thì bên trong chẳng có chút cốt sắt nào. Như con người ta không có bộ xương, anh biết mà, họ làm những con đường cây cầu tòa nhà theo cách đó và chúng ta không biết mình đang sống trên những mục rã nào. Bọn tôi kéo nó đi một đoạn rồi bỏ cả tượng và xe lại, lấy một phòng ở Milky Way vuốt ve nhau. Da Mi mịn xốp, tôi luôn nghĩ về bông gòn khi chạm vào. Tôi định ngủ sau khi làm tình như Mi nói phải tới đồn cảnh sát trước khi bị bắt. 

Bọn tôi chưa bao giờ bị bắt, luôn là bọn tôi tự tìm cảnh sát. Anh có thể hỏi cảnh sát trưởng ở đồn Trung Tâm. Ông ta chắc vẫn chưa nghỉ hưu, bữa rồi tôi vẫn thấy ông mặc cảnh phục đi dẹp chợ. Vẫn phì lũ như mười năm trước, lần đầu gặp tôi đã thắc mắc người bọc mỡ vậy thì bắt tội phạm kiểu gì. Hồi hỏi cung tôi ông mới đau hàm thiếu tá, hút thuốc lá vị bạc hà. Tôi nhớ chi tiết đó vì ổng cứ phà khói vào mặt tôi, phòng kín khiến đám khói thuốc uất không siêu thoát. Giữa chúng tôi là cái bàn sắt bị móp vài chỗ, khiến tôi liên tưởng tới những cái trán rách bươm. Nhục hình có thể xảy ra với ai đó, không phải với tôi, và Mi. Anh biết đó, gia thế bọc bọn tôi trong những áo giáp vô hình. 

“Chắc phải có tổ chức nào đứng sau lưng các cô chớ?, ông cảnh sát phì lũ hỏi tôi khi đó. Một câu hỏi khiến tôi phì cười. Vì tượng đài ở vị trí như vậy nên đốn hạ nó chắc phải có chút ý nghĩa mang tính chính trị, họ nghĩ vậy. Tôi nói xứ sở này tượng nào mặt mũi cũng như nhau, tượng cầm sách hay ôm bó lúa hay vung kiếm thì vẫn cái vẻ vô hồn đanh lạnh, không để ý khó mà phân biệt. Vài đêm trước, khi đứng hút thuốc ở đó, Mi chỉ vào cái bóng của thanh kiếm đâm vào đùi tôi, nói ở đây nên trồng một cái cây. “Bóng của cây không bao giờ làm bị thương ai hết”, Mi nói, “Mình thích cây”. Chuyện chỉ đơn giản vậy. 

Tôi nhớ mình ngáp dắn dài trong cuộc thẩm vấn. Ông cảnh sát vẻ chán chường từ đầu đến cuối buổi, kiểu như hỏi cho có, cho đầy mấy trang giấy lấy cung thôi. “Chuyện cũng không đi tới đâu”, biểu cảm ông nói vậy. Như ông biết chỉ vài phút sau người nhà Mi xộc vào, ân cần đưa cô đi. Họ mang theo tấm khăn bự choàng lên người cậu ấy, cùng với bình nước và ít bánh ngọt, anh phải chứng kiến ở đó thì cũng phì cười, bởi cảnh ấy hơi phô trương giống như phần kết của mấy phim thảm họa, những người sống sót được đưa ra từ đống đổ nát. Lúc ngang qua tôi, Mi mỉm cười ra dấu như hỏi có muốn làm một điếu không. Người có vẻ là bà mẹ đang sờ vào trán Mi bằng mu bàn tay, như thể dùng lòng tay thì da dày sẽ làm xây xước cậu ấy. 

Ông cảnh sát béo phì thì không có vẻ mắc cười, kéo dây nịt quần lên (nó lúc nào cũng trực tuột khỏi cái vòng bụng quá cỡ), hỏi viên cảnh sát buồn ngủ, “Lại mộng du sao? Họ chưa nghĩ được cớ gì mới hả?”. 

Anh hiểu không? Mi không bao giờ bị giữ lại bởi cậu ấy luôn luôn vô tội, cậu ấy ném đá vào đèn ở quảng trường, mở tung những trụ nước cứu hỏa, hay cài thuốc nổ đánh sập một chân cầu thì đều làm trong cơn mộng du hết thảy. Anh hỏi có thật không à? Luật sư bảo thật, cảnh sát nói không. Ở một cái tuổi nào đó, ta nên quan tâm sự thật là sự thật nào, đừng hỏi không hay có. Nhưng cái lý do nọ, anh không thấy nó quá đẹp sao? Rằng có ai đó thoát khỏi ta khi đêm xuống, khoác chiếc áo jean rõ là cũ nát, ra ngoài từ lối cổng chính của tư dinh ở cuối đường Mỵ Nương, hoặc cổng sau của vườn Mimosa và đôi khi từ biệt phủ số 14 Trưng Vương. Cùng với bạn, họ lên tận bến xe phía bắc, lúc này vắng ngắt, nhưng vẫn còn một quầy bán cháo trắng trứng muối, và món dưa chuột ngâm nước tương được dọn ăn kèm ở đó rất giòn. Đôi khi họ ghé quán bánh canh Âm Phủ khi chưa mở cửa, lúc nằm đợi trên mấy cái mả cổ ngủ thiếp đi, lúc dậy sương nặng trên mắt. Khi đi qua quảng trường Mê Linh, chỗ người ta hay làm hội chợ bán hàng giảm giá và là nơi chạy chơi của đám trẻ mùa hè, một hoặc nhiều cơn gió tụ tập ở đó bất ngờ ném một cái xác diều vào chiếc ô tô mui trần đang ngang qua. Xác diều đã lạnh, nhưng còn phảng phất mùi nắng mà nó đã uống no căng cuối chiều. Tháng Bảy hay mưa đêm, họ đứng mãi ở mái hiên một quán cà phê đã đóng cửa, mắt uống mưa vàng xiên xiêu dưới đèn vàng, thứ mưa óng ả mạnh dẻ mà ban ngày không có cách chi thấy được. Hơi lạnh khiến cô gái cài nút cổ, xóa phần tay áo vốn được xắn cao, trong túi áo luôn có những viên sỏi trắng láng mịn (hệt như da cô), loại sỏi người làm vườn hay rải trên những chậu cây vạn niên thanh, cô dùng chúng để ném vào một vài căn nhà ngủ lịm bên đường. Bạn đồng hành đoán cô muốn báo với người trong đó rằng mình có ngang qua, dù cô chỉ nói “Thích”. Thỉnh thoảng cô dừng xe đột ngột, nhảy qua cửa biến mất trong một con ngõ tối rồi nhanh chóng quay lại với vẻ thất vọng và bối rối thường thấy, lẩm bẩm “Không có ở đây”. Người bạn không biết cô tìm gì, nhưng quen với việc cô bỗng dưng nói một mình “Nó phải trong cái gì đó màu đỏ”, quen chuyện mỗi tối gặp nhau lại chào như mới gặp lần đầu. Tôi là Dơi, còn cậu? Mi! 

Cho tới cuối, tôi cũng không biết Mi có phải tên thật không. Lúc Mi vào xe trong vòng tay người nhà, tôi nghĩ lần sau gặp nhau không biết cậu ấy tên gì. Nhưng không có cái gọi là lần sau, rạng sáng đó trên đường đến đồn bảo lãnh tôi, xe ba mẹ tôi đã bị một chiếc công-ten-nơ đâm vào. Vụ tai nạn ba người chết ở ngã ba Sương ấy, nhiều báo đưa tin. Nhà tôi khánh kiệt sau đó. Cho đến giờ, tôi vẫn nuôi hy vọng sẽ tỉnh lại trên chiếc giường quen thuộc của mình với cái bụng đói meo, và dưới nhà ba mẹ đang cãi nhau.

biên sử nước- chương 9

Chỉ còn 26 ngày nữa là hết năm Ruồi thứ nhất, Cẩm ôm con bỏ tôi đi. Bữa trước đó lúc xé lịch tôi đã đếm còn bao nhiêu tờ hết thảy, nói năm sau chắc mù mịt tháng ngày khi đám ruồi lạ vẫn tụ tập ngoài kia. Thế giới rã rời từ tụi nó phát điên, một cuốn lịch cho năm mới thật xa vời. Cẩm không nói gì, nhìn ra cửa sổ. Sao khi ấy tôi chẳng nhận ra cổ ngày càng hay ngó ra cửa sổ. Không có gì ngoài đó, thế giới chỉ ruồi và cứt ruồi. Những cây chuông vàng hôm Cẩm tới vẫn còn chút cành (cổ nói cái cây này số cực, mùa nào cũng phải ra bông) giờ bị ruồi ăn trụi tới rễ. Cả mỡ vỏ nhựa bọc bó dây điện thoại rối nùi kia bọn ruồi đói còn gặm trơ lõi đồng. 

Tôi ân hận, sao không nhận thấy ý định ra đi của Cẩm trong suốt ngày hôm đó. Cô ăn nhiều hơn, gần một phần ba cuốn Nắng tháng 8, cũng phải gần hai trăm trang đặc chữ. Cổ không lựa mấy chữ đẹp để riêng ra như mọi bữa. Đầu vú cô lạnh. Lúc tôi ngủ quên bên thằng Nấm, Cẩm biến mất trong mấy phòng kho. Cổ đi tìm cái mặt nạ đồ chơi cùng mớ bao tải, hết thảy chúng và cả thùng rác vẫn còn úp ngược nơi cửa sau giúp cô biến mất. Những anh chồng trần gian đều mắc chung một sai lầm, là không chịu đốt cha cánh tiên đi. Đốt thành tro thì kiểu gì vợ cũng không thể bay về trời. 

Tôi không chút phòng hờ, bởi tụi tôi đang sống quá tốt trong cái thư viện bị ruồng bỏ này. Không phải làm lụng kiếm miếng ăn, không bị gò bó bởi những giới luật, không nơm nớp nhìn trời đất. Ngoài kia loạn lạc, với bọn ruồi mê máu, thức ăn cạn kiệt, mùng lưới, Paracetamol đắt hơn vàng. Nhưng tụi tôi cách chỗ đó phải tới một ngàn năm ánh sáng chớ không phải chỉ một bức vách thôi, trong cái thiên đường này mùa vàng son thứ nhất. Chừng nào còn không khí thấm qua những khe cửa hẹp, còn nước sạch trong vòi thì tụi tôi còn sống khỏe. Khối sách báo trong thư viện với số chữ không đếm nổi sẽ nuôi sống tụi tôi ngoài chục năm nữa. 

Tụi tôi ăn chữ. Xin bạn đừng có tầm thường như những người tôi từng biết, họ hoặc nhìn tôi như kẻ điên hoặc dán vào tôi cái nhìn ngờ vực, nghĩ ăn chữ chắc có ám chỉ gì. Nhưng ăn chữ chẳng mang tầng nghĩa ngầm nào khác. Nó đơn thuần như bạn ăn cơm. Nghĩa là nhai nuốt bằng răng, tận hưởng hương vị qua gai lưỡi, và tiêu hóa chúng trong dạ dày, thấm hút chất dưỡng vào thành ruột. Ở ngoài kia có nhiều người ăn chữ kiểu như tôi, chỉ là chúng ta không biết đó thôi. 

Tôi cũng tưởng mình dị biệt cho tới khi Cẩm giạt tới đây. Lúc đó ruồi lạ đã chiếm đóng vũ trụ hơn nửa năm, và tôi đôi khi nhớ con người. Những lúc ấy tôi đứng ở cửa sổ phòng đọc sau tấm kính chi chít cứt ruồi, ngóng ra đường tìm một vài chiếc xe hơi ngang qua, nhìn nửa bên mặt của ai đó. Nửa trái hay nửa phải tùy theo chiếc xe đang đi về phía nào. Người giàu luôn ổn trong mọi hoàn cảnh, họ vẫn có thể đi lại trong thành phố vào ban ngày mà đám ruồi không thể tấn công. Thỉnh thoảng có đôi ba chiếc xe vào sân thư viện để quay đầu, tôi được nhìn trọn một vài gương mặt. Việc điều khiển chiếc xe kềnh càng khiến họ căng thẳng, và một ông trung niên cau có là gương mặt cuối cùng tôi nhìn thấy, trước khi Cẩm chui ra khỏi cái thùng rác úp ngược ngay bên cửa sổ, ngước nhìn tôi. Bồng trên tay một tiếng khóc xanh yếu, cổ mệt lả vì đội thùng di chuyển suốt đêm. Chỉ buổi đêm vòng vây của đám ruồi độc địa mới nới lỏng. 

Cẩm không có xe hơi, cô trôi tới chỗ tôi bằng thùng rác. Cũng không dễ dàng, chẳng may bị giặc ruồi phát hiện, cổ sẽ thụp cái thùng xuống trốn biệt trong đó, chờ chúng sơ hở lại lần đi. Đứa con cô được gói trong nhiều lớp khăn, và khóc hết ra hơi sau chiếc mặt nạ Hanuman. Tiếng khóc làm tôi có chút dao động, ngó cái cửa. Tôi từng mở nó một lần vào đầu mùa dịch cho cặp tình nhân nghiện ngập và chúng thiếu chút nữa mần thịt tôi vì đói thuốc. Chuyện đó xảy ra lúc người ta còn bối rối khi thế giới của họ bỗng chốc đổi ngôi nhưng giờ mọi người đã biết cách sống với đám ruồi. Như Cẩm. Khoét một cái khung nhỏ để nhìn đường, bó chân mình trong nhiều lớp vải bố dày, ruồi khó hút máu cô lúc đưa chân bước. 

Sau này Cẩm kể cô không mục đích nào, chỉ đi vậy thôi, “hơn ngồi một chỗ chờ chết”. Cô nói chỉ khi phát hiện tôi đánh răng bên kia vách kính mới nhìn thấy hy vọng. 

“Trong này không có gì ăn đâu”, tôi khoát tay làm một cử chỉ xua đuổi, cố kháng cự lại tiếng khóc đứa nhỏ đuối dần. 

“Vậy anh sống bằng không khí chắc?” 

“Tôi ăn chữ.” 

“Tôi cũng vậy.” 

Cô nói như không, tôi chẳng thấy vẻ dối trá, hay sửng sốt trong giọng nói trong đôi mắt chớp mở. Cách người đàn bà bảo mình ăn chữ quá sức tự nhiên, chừng như không phải nghĩ gì. Và tôi lay cái chốt cửa gỉ sét ra hoàn toàn bởi tò mò, người này cũng ăn chữ như tôi sao, là thật sao? Lúc đó tôi không nghĩ cô là đàn bà với vòm háng ấm, đôi đầu vú nhỏ, búi mông cứng. 

Tòa nhà có thêm người vẫn rộng. Cẩm dẫn dắt tôi ngay khi mới bước vào, như thể cổ mới là chủ nhà. Cổ không bao giờ hỏi “Bữa nay ăn gì?” như vợ tôi hỏi mỗi đầu ngày hồi còn sống chung. Tôi nhớ câu kinh điển của mình là “Gì cũng được”, và vợ nổi điên, nói nghĩ chút về miếng ăn cũng làm biếng. Giả vờ háo hức với cơm canh mãi cũng có lúc quên, tôi cứ ừ hữ cho qua bữa. Nửa đêm tôi thường đói. Nửa đêm tôi lẻn ra ngoài, lấy một cuốn sách đãi mình bằng bữa tiệc chữ huy hoàng. Không thể nhận mặt chúng trong bóng tối, tôi cứ âm thầm đoán chữ qua mùi vị. Một bữa vợ bắt gặp tôi ngồi trong xó tối nhai nửa trang của cuốn Bạch Lộc Nguyên

“Tôi sao sống được với người ăn giấy”, vợ tôi nói, bứt quần áo treo trên sào vào va li. 

“Thì thiên hạ cũng ăn kiến ăn trùn, đằng này chỉ chữ thôi mà”, tôi tuyệt vọng níu kéo, dẫu biết đã kết thúc rồi khi nhìn thấy cổ ói thốc tháo trong buồng. 

Năm tôi mười bảy tuổi, khi phát hiện ra mình có thể ăn sách báo thay cơm tôi cũng nghi biết đâu cơ thể mình chỉ cần bột giấy. Hoặc dầu khoáng trong mực in. Nhưng mấy tờ giấy trống trơn tôi ăn sau đó nó nhạt nhẽo không ra hương vị nào, còn mực thì phải nói không nuốt nổi. Không phải là tôi chưa từng trộn hai thứ đó nếm thử trước khi tin chắc mình chỉ khoái khẩu chữ trên giấy thôi. Nhưng với vợ tôi, thứ nào cũng mông muội như nhau. 

Tôi nói, “Nếu phải đi thì để anh”. Cuộc chia tay chóng vánh, tôi không có nhiều thứ để dọn theo mình. Tiếng móc khóa tra vào ổ gọn đanh- một cái ổ khóa mới tinh và vợ tôi giữ tất cả chìa- thay cho lời từ biệt. 

Cẩm nghe chuyện hôn nhân đổ vỡ của tôi, cười, “Giờ có nên chừa chữ “vợ cũ” ra không, cắn mẻ răng là cái chắc”. Cô không hé chút gì về mình, về cha của thằng Nấm. Căn cước, quá khứ cô dấu trong cái trán dồ quá cỡ khiến cho gương mặt gãy cụp ngay chỗ mắt. Một gương mặt kín bưng, cả khi cơ thể cô mở ra trước tôi. Không sao cả, còn cả ngày rộng tháng dài phía trước cho tôi đi vào tận cùng cổ, bên trong cái thế giới mà bọn ruồi lạ không gây được một chút ảnh hưởng nào. 

Bữa công ty giải tán tôi quảy ba lô tới thẳng tòa nhà này dưới một bầu trời âm u đầy ruồi. Lần nào đó ống nước của thư viện vỡ, đội tôi từng đến sửa. Có một cánh cửa khá lỏng lẻo dẫn ra phía sau nhà cạnh máy bơm. Quá dễ để phá nó với xà beng và búa, tôi chiếm tòa nhà không chút tối mồ hôi. Chẳng còn ai ở đó, y như tôi đoán, họ đã bỏ sách vở lại thoát thân. Một nơi chốn như vầy luôn bị bỏ rơi khi loạn lạc. Ai cần sách vở trong buổi này. Trong văn phòng, tôi đọc bảng lương, cố nhớ tên chị thủ thư không bao giờ cười mà tôi từng gặp. Có thể chị phát hiện ra một số chữ trong mớ sách tôi trả bị mất hoặc do tôi hỏi, hoặc không cười là phong cách chung của những thủ thư. Giờ ngó vào sổ tiền lương ít ỏi các chị nhận được, tôi nhẹ người nghĩ biết đâu mình chẳng phải là nguyên cớ. 

Có mười sáu phòng cả thảy, ở ba tầng. Cảm giác độc chiếm tòa nhà khiến tôi ngây ngất. Tôi ngồi lên ghế da của giám đốc và phởn phơ xoay đến tưởng vách đảo tròn. Tôi đóng dấu đỏ lên mọi giấy tờ sách vở trong tầm tay. Tôi ký loạn xạ những chữ ký không giống nhau. Tôi mở toang mọi cánh cửa mà mình nhìn thấy. Nghĩ chữ ở đây đủ cho mình ăn phải hai mươi năm, sau khi lục lọi đã đời. Ngoài kia loa phóng thanh ra rả nhắc người dân hãy ở trong nhà đóng kín cửa, nghe như gần như xa như ở một thế giới tôi không còn thuộc về. Văn phòng có tivi, tôi thường mở coi tin tức, cảm giác mình đang hóng chuyện sao Hỏa. Rồi cáp đứt, cơn mưa dày không dứt trên màn hình cắt lìa tôi với cuộc tận thế ngoài kia. Bản tin cuối cùng tôi coi, lãnh đạo trút lỗi cho nhau về nguồn gốc đám ruồi, một vị tiến sĩ cho hay “đây là một cơ hội cho con người” trước hiện tượng ruồi quay ra cắn xé nhau vì kiệt thức ăn, cảnh sát loan báo khi mổ xẻ một số ruồi phát hiện có chip điện tử, và cuộc tháo chạy về dãy núi Trời vẫn chưa chịu ngừng dù các nhà khoa học cảnh báo tin đồn ruồi lạ không thể sống trên cao là vô căn cứ. Trong cảnh quay thoáng chốc, tôi thấy một đồng nghiệp trong đội sửa ống nước của tôi, chính nó, ghì thiết bị nghe nước rò rỉ vào vai, ngửa cổ lên trời lấy khí thở, lún trong đám đông xô đẩy. Máy quay từ trên cao, hình ảnh bị đường bay của ruồi xước nát. Không biết thằng bạn nghĩ gì khi vẫn mang đồ nghề theo, chắc nó hy vọng lên núi Trời tiếp tục sống bằng nghề nghe nước. Bữa nhậu chia tay nó bắt một con ruồi nhai sống, nói dù sao đây cũng ruồi, và chúng ta là người. Nó không chịu nhận thua khi mất việc, trốn chui nhủi trong nhà nghe con khóc trong tiếng cạo cơm cháy. Không biết bây giờ nó đã chịu chưa, tôi tự hỏi trong lúc ăn tới những trang cuối cùng của cuốn Mười ngày

Hồi đó tôi ăn đơn giản. Từ Cẩm tới, tôi đắm chìm vào tiệc tùng. Cẩm sành ăn, nên những bữa ăn luôn dài, cô không chịu kiểu cứ lấy một cuốn sách nào đó rồi nhấm hết trang này đến trang khác. Giao thằng Nấm cho tôi bồng, Cẩm lượn vòng quanh mấy kệ sách, trừ kệ chính trị. Mỗi chỗ Cẩm chỉ lấy một ít chữ. Nếu mấy câu thơ tình hơi nát nhão, thì mới chữ bóc trong tập tiểu luận giúp tụi tôi vừa miệng. Cuối buổi luôn có năm ba chữ Cẩm nắn nót cắt từ những trang sách chỉ in một mặt. Chúng hiếm, thuần chất, nguyên vị. Bạn biết đó, một trang sách in thường là hai mặt, chữ của hai mặt giấy buộc trộn lẫn nhau. Ăn chữ nắng non thơm mùi rau kinh giới vừa ráo sương mai của trang 23, nhưng biết đâu, dính ngay phía sau nó, ở trang 24 là chữ cứt, không chừng. Mặc dù người ta chẳng dụng chữ đó nhiều, chắc vì mỹ cảm, nhưng không phải là không có. 

Chữ quá đẹp. Cẩm kêu không nỡ ăn, tỉ mỉ rọc ra, để vào một ngăn tủ. Những thứ kiểu như ánh trăng loang chầm chậm và êm ái trên cánh đồng còn vướng vất những đợt ánh sáng mơ hồ của ngày hay những quả táo lịm trong bóng tối khiến gương mặt gãy bởi cái trán dồ của Cẩm chừng như phẳng lại. Mấy lúc như vậy tôi thèm cổ đến cứng mình. 

“Người viết ra cái thênh thả này, chắc bàn tay đẹp lắm”, Cẩm nói, mặt phủ vẻ đơn thuần, thơ ngây như một bé gái mười ba tin rằng hết thảy hoàng tử trên đời đều ở tuổi đôi mươi và luôn đi ngựa trắng. 

Tôi nhớ trong những bạn nhậu của ông già, có một nhà thơ tỉnh lẻ, ông khô và vàng khè. Tò mò không biết chữ ông có vàng không, như máu rỉ ra từ miệng ông cũng vàng bởi khối u gan vào những ngày cuối đời, tôi đã tìm sách ông trong những ngày đầu vào thư viện. Nhưng không có cuốn sách nào mang tên nhà thơ quá cố. Tôi thấy tiếc, phải sinh thời ông bớt bầy bạn chút, chỉ viết thôi, viết ra mọi ý nghĩ mà ông bắt được thì sẽ có chút chữ để lại đời. 

Cẩm nghe tôi nói vậy, lại cười, “Chữ cũng có năm ba đường chữ, vô vị quá khỏi viết ra cũng được”. Có lần cổ lấy một cuốn sách, bảo mình cứ chọn ăn những chữ thừa không quan trọng thử coi. Nghĩa là nếu chúng mất đi, cũng chẳng ảnh hưởng gì tới câu chuyện. Rốt cuộc cuốn sách chỉ còn lại không tới một trăm chữ, Cẩm nói mình đã bỏ bụng một đống thứ chẳng bổ béo gì. Nhưng vớ cuốn Ông thị trưởng ở Furnes thì đúng là chẳng ăn được chữ nào, hình dung ông tác giả chắc giằng co cân nhắc từng dấu chấm. 

Mặc kệ ngoài kia vẫn đang tổn thương, không chấp nhận chuyện thế giới sụp đổ bởi một sinh vật cấp thấp, mặc kệ những cuộc tranh giành gạo và thuốc ho, tôi với Cẩm ăn và yêu giữa những kệ sách trong phòng đọc. Thằng Nấm mới biết bò, tụi tôi không phải ngại ánh nhìn của nó. Những ngày vô lo đó, nếu có thứ gì làm tụi tôi bận lòng, thì là tiếng móng tay gãi miết vào da bật máu. 

Có phải mụt ghẻ bất trị mọc trên người thằng Nấm. “Phải em đậy kỹ con, thì đám ruồi quỷ kia đã không cắn nó ra nông nỗi vầy”, Cẩm hay giận mình. Tôi nói có sao đâu, chỉ chút ghẻ thôi, tin anh đi, đứa con nít nào cũng bị mấy trứng bịnh vặt vãnh kiểu vậy. Chúng chảy nước mũi xanh, bụng ỏng oặt vì nuôi lãi, bẹn nổi mấy cái hạch nóng ran. Chúng chảy máu cam, rôm sảy khắp người, thỉnh thoảng trật tay nứt xương. “Chẳng có đứa nào chết vì mấy bịnh sơ sài đó”, tôi dỗ Cẩm, “ghẻ  cũng vậy”. 

Cẩm không vì mấy lời nọ mà yên lòng. Cổ hay mất tập trung, neo vào tôi mà tâm trí quẩn quanh những mụt ghẻ. “Giống miệng núi lửa”, Cẩm nói, mân mê bờ cao bao quanh miệng vực sâu. Mài kim kẹp giấy cho sắc nhọn, tụi tôi bắt được mớ cái ghẻ lẩn lút trong đám mụn nước, nhưng không ăn thua. Ban đêm, lẫn trong tiếng gãi trằn trọc cảm giác như nghe được đám cái ghẻ đang đào luống đào hầm trên thịt ra thằng nhỏ. Có trời biết lũ ruồi đã để lại trên cơ thể thằng Nấm thứ nọc độc gì, ghẻ đây đâu phải thứ ghẻ mà ta từng biết. 

Tôi nhớ nắng cũng có ích, đợi đêm đến lẻn ra ngoài cạo cứt ruồi bám trên những tấm kính chắn cửa sổ, cho nắng chiếu xiên vào, đem thằng nhỏ và quần áo nó hong phơi. Ngặt cái trên giữa mặt trời và tụi tôi còn có đám ruồi, chúng có thể bóp nghẹt nắng bất cứ lúc nào. 

“Phải chạy thuốc con mình mới yên được”, Cẩm thì thầm, nửa mặt dưới tối đi dưới bóng của cái trán dô. Những bà mẹ cứ làm quá lên, tôi nghĩ bụng, lẽ ra lúc đó tôi phải nhận ra cuộc đi đang âm thầm vẽ con đường chằng chịt bên trong Cẩm. 

Có lần Cẩm neo vào tôi mà vẫn vói tay xoa mấy mụt ghẻ cho thằng Nấm, tôi nổi khùng. “Cô đâu chỉ thương mình con, cô thương luôn phần của cha nó”, tôi nói, bỏ lên lầu, ngủ ba đêm trong phòng trữ báo. Ăn mớ chữ ở đó, tôi mới hiểu sao Cẩm có lần bảo, “Chừng túng quá hãy ăn”. Ngày thứ tư Cẩm kết thúc chiến tranh, bồng con lên lầu, đứng ở cửa cười, “Dưới nhà dọn được mấy chữ cũng được lắm”. Bữa đó, lần đầu tiên Cẩm nói sẽ sinh con cho tôi, khi hai đứa neo vào nhau lần thứ tư trong ngày. 

“Con tụi mình sẽ ăn chữ”, tôi nói, vuốt đôi đầu vú tróc lở của Cẩm. Thằng Nấm vẫn chưa chịu ăn, nó hay lè mấy chữ được xé nhỏ ra, ép buộc lắm thì nhai, nhưng lại nghẹn. Không ăn được, nó sẽ bú mẹ đến kiệt cùng. Cẩm có ăn bao nhiêu chữ cũng không đủ sữa cho một đứa nhỏ đang tuổi lớn. “Nó không ăn chữ, vì nó không phải con mình”, tôi cố không lộ ý nghĩ ra mặt. Ý nghĩ ấy mà, thỉnh thoảng chúng lại độc địa hay đen tối, nói cho cùng thì tôi đâu phải thánh thần gì. 

Cho tới lúc đó tôi vẫn tin thật dễ khi dành tình cảm cho đứa trẻ không phải con mình. Ta chỉ cần đinh ninh đây là một phần của người ta yêu. Mình phải chiều chuộng thằng nhỏ, tôi dặn mình vậy. Quả thật tôi yêu chiều thằng con Cẩm như khách. Nhưng thỉnh thoảng có mấy tranh chấp lặt vặt khiến một ý nghĩ sểnh ra rằng phải chi không có thằng nhỏ Nấm thì thiên đường này trọn vẹn hơn. Nhất là mấy lúc đôi đầu vú Cẩm tróc lở vì bị thằng Nấm mút quá nhiều. Cơ thể Cẩm tôi ưng đôi đầu vú nhất, chúng thuôn dài, nhỏ bằng đầu đũa, thường không khi nào rũ xuống. Chúng thẳng thớm kiêu hãnh. Tôi chỉ được ăn chúng sau khi thằng Nấm đã mút cạn sữa rồi nhưng vị cam thảo còn đượm mãi trong vòm họng. 

Cẩm đi rồi, tôi ăn bao nhiêu chữ cả cái mớ Cẩm không nỡ cắn đôi vì đẹp, cũng không tìm được chữ nào có vị cam thảo của đôi đầu vú nhỏ. Buồn không rượu để tan, tôi lộn ngược thùng rác cố tự sát bằng đống chữ Cẩm vứt bỏ trước đây. Cổ nói “Mũi không chịu được”. Những hoang hoải, cô đơn, thổn thức, tôi nhai nuốt để chết đi cho rồi. Nhưng con người ta đâu chết dễ vậy, và cơn dị ứng sưng phồng mày mặt cũng vài ba bữa là xuống cơn. 

Chừng tìm được thuốc trị ghẻ cho thằng Nấm, Cẩm sẽ về. Tôi tin vậy. Nhưng tôi không thể ở lại tòa thư viện đó mà chờ đợi được nữa. Họ đã dẹp được bọn ruồi hoặc chúng chỉ tạm lánh đi trong những hang ổ kín đáo của mình chờ dịp quay lại. Có trời mà biết cái bọn thâm độc đó mưu tính gì. Mưa đã thôi đổ hột trên màn hình tivi, cảnh ngài Ta Đa đi chơi gôn như là một tín hiệu phục hồi của thế giới. Trước khi người của thư viện quay lại, tôi kịp rọc lấy những chữ đẹp rụng rời bỏ vào một thùng riêng, dành cho Cẩm. Tôi hình dung được những cạnh góc bén ngót của cổ mềm đi, khi mân mê chiều xuống thấp mãi gần mặt nước, những cú vỗ của mưa. Cẩm sẽ quay lại, tôi tin vậy. Một bữa tờ giấy Cẩm viết tay kẹp trong cuốn Bảo tàng ngây thơ rơi ra, chém ngọt tôi bằng hai mươi chữ, “Phải không, bởi mấy mụt ghẻ mà từ tụi em giạt tới, anh chưa một lần hôn hít con mình?”, Tôi vẫn tin Cẩm sẽ quay lại tìm tôi. Hoặc không. 

Bữa đài loan có tin người đàn bà ôm con đi lấy tim người làm thuốc, tôi biết là Cẩm. Giờ tôi không biết nên xin một chân bảo vệ để nán lại thư viện chờ Cẩm về hay khăn gói đi tìm cổ ở xứ vạn cù lao.

biên sử nước- chương 8

“Còn lâu mới xong đống củi đó, cá với mấy chị.” 

Tôi nói, mắt ngó phía vợ chồng anh Xây cưa củi bên kia, cách một con đường với bức tường nắng dựng không thấy ngọn. Cảm giác mình thành bản sao của những người đàn bà ngồi quanh đây. Giống cả cái thở dài chát ngầm sau câu nói, cả biểu cảm tức giận pha lẫn mỉa mai. 

“Phải chị ta qua giữ đầu cưa bên kia, chuyện đã xong đời thuở nào rồi”, ai đó phụ với tôi mấy lời. Như mọi khi, cứ hướng về vợ anh Xây thì những cái lưỡi bén nhọn của những người đàn bà chợ Ga lại khua, tôi lại có cảm giác được bầy đàn đón nhận. 

Bọn tôi hay giày vò vợ anh tuần đường, những trưa bưng thùng thuốc lá kẹo thơm ra đợi tàu ghé qua. Mấy chị đàn bà vừa đưa chuyện vừa thiu thỉu ngủ, tai để mãi ở bên kia sông Cạn, nơi đoàn tàu bắt đầu chậm lại. Đó là đoàn tàu duy nhất trong ngày ghé Xép. Giữa mấy cơn ngáp dài, ngay tầm mắt bọn tôi là dãy nhà tập thể đội tuần đường, nơi vợ chồng anh Xây ẩn hiện trong cái hoạt cảnh mang tên hạnh phúc. Cặp đôi dính sít, cùng đứng cùng ngồi, cùng trét lại vết nứt vách trước, căng dây cái sào phơi, khâu lại tấm thảm chùi chân đứt chỉ. Họ trở thành món chính của những cái lưỡi buồn trưa, ưa nhấm chuyện thiên hạ. Ngó anh chị luôn tay lắt nhắt, những người đàn bà tức giận: 

“Nhìn kiểu gì cũng thấy thằng chả chỉ một mình.” 

“Đúng là không nên chờ đợi gì ở cái bóng.” 

Sớm biết sự xuất hiện của mình ở Xép cũng là món đưa chuyện thơm ngon, trưa nào tôi cũng nhập bầy, nán cho tàn buổi. Ngồi lì ở đó, tôi trở thành một trong số họ. Chỉ cần đồng lõa vào mọi xéo xắt chợ trưa, tôi sẽ an toàn trong lúc kẹt lại nơi chốn xa lạ này. 

Viễn đưa tôi về Xép, nói “ở đây chờ ít bữa” rồi nhảy tàu đi mất. Cho tới khi đó, tôi không chắc Viễn là tên thật của anh. Trong nhà không có gì cho thấy anh từng là chủ nhân của nó. Tôi bấm khóa và mở vài lần, để xác nhận lần nữa, với chùm chìa khóa gỉ sét Viễn đưa, mình toàn quyền ra vào căn phòng. Món tiền anh để lại hết veo chỉ nửa tháng sau, một trưa tàu ghé có thằng nhỏ mặt mũi nhọn hoắt tới tìm đưa cho mớ khác. Hỏi Viễn đâu thằng nhỏ quạu quọ, “Chưa về là chưa về, hỏi chi cho mệt máu”. Rồi nó kịp biến mất sau cánh cửa tàu vừa khép chặt. Tôi nhìn theo, nghĩ Viễn ở trên đó, biết đâu, nhưng sao không có dấu hiệu nào, giống như anh bị con tàu tiêu hóa sạch. 

Về căn phòng bìa dãy nhà tập thể, tôi dòm vào mọi gầm giường hốc tủ, đảm bảo không có bộ xương nào nhảy xổ ra. Nhưng cái mùi mà tôi ngờ mùi xương, thật ra là mùi bụi. Cửa sau cài bằng một cái chổi, tôi không thèm mở, khỏa bụi không hơn một chỗ nằm, hy vọng bằng cách đó mình sẽ sớm rời đi. 

“Đầu bên kia dãy nhà cô, thằng cha đó cưới bóng làm vợ”, một chị đàn bà nói, giọng thuần dè bỉu, ngay ngày đầu tôi tới. 

Cũng không có chuyện chi làm, tôi te te theo mấy chị về lại cái đám cưới bốn năm trước. Anh Xây cứng đờ trong bộ com-lê đen, điệu bộ hơi căng thẳng, nhưng vui thì không giữ được trong mắt, tràn lên mặt anh thứ sương hân hoan. Giữa tiệc mấy con bò xổng chuồng ghé qua ăn mớ hoa lá dắt ngay cổng cưới. Một vụ cãi vã ngớ ngẩn không tới đâu, rốt cuộc ma thì có cắn móng tay không. 

Cả bầu trời đen chừng như vô hình của tối đó, tôi cũng như tận thấy. Tiệc đãi tố,i sân treo hai hàng đèn, cô dâu lúc đổ dài bài cuối sân, thoắt lại cúi xuống ân cần với một vài bà già ngồi riêng mâm chay. Chừng như cô ta không muốn bỏ quên người khách nào. Má anh Xây uống hơi quá trớn, hát nghêu ngao những lời vón cục. Thất vọng làm bà già buông xuôi, mặc cho men rượu đánh gục mình, thẳng cẳng nằm ngủ luôn bên rào xương cá. 

Nghe kể má anh Xây bỏ ăn luôn vào cái lần anh nói, hết sức nghiêm túc, rằng sẽ cưới bóng mình làm vợ. 

“Đàn bà con gái xứ này chết hết rồi chắc?”

“Con thương cổ.” 

“Thà lấy con Lê mù đằng xóm, nó còn ra hình người.” 

“Tụi con sẽ cưới vào hai chín tới.” 

Đàn bà xóm Xép không ưa vợ anh Xây. “Tới cười cũng không thể tự cười”, họ nói. Chị quá xa cách, nhìn thấy đó mà như không có, làm thứ chi cũng nhẹ bẫng. Tách biệt với thế giới đàn bà thị trấn, đeo dính ông chồng tuyệt chẳng rời nửa bước. Hồi đầu chị còn nhận được chút trầm trồ tán thưởng, lâu dần cái sự bám chặt khiến người ta ngứa mắt, “Xa đàn ông một chút, chắc trào đờm mà chết?”. 

“Cổ có làm gì đâu”, có lần anh Xây nói, gần như khóc. Anh cảm thấy bất công cho vợ mình. Đúng là chị vợ chẳng làm gì hết. Chị chỉ hạnh phúc. Thứ hạnh phúc khiến người ta điên tiết. Chẳng người đàn bà nào thích ai đó hạnh phúc hơn mình. Họ cứ hắt vô mặt chị những lời đầy nọc độc. Chẳng tỏ thái độ gì, chị bày tỏ mình bằng im lặng. Sự im lặng chắc nịch bọc lấy chị. Khiến chị vô nhiễm với mọi sự thù nghịch. Thật ra chị có nói, nhưng chỉ anh chồng tuần đường nghe. Người ta nhiều lần tự hỏi, chị trêu ghẹo chi mà anh tự dưng cười xòa. Lúc khác, anh tủm tỉm. Cái kiểu giao tiếp cực kỳ riêng tư của họ luôn khiến thế giới bị bỏ rơi. Như thể không khí họ thở là thứ không khí khác. 

Bà mẹ bị gạt ra rìa, kêu ca con dâu cùng khắp. Nói chị ta về đèn lúc nào cũng thắp, gọi không ơi, không lẩn gãi lưng cho mẹ. Nói chị ta dai hơn đỉa, có phun nước miếng vào mặt cũng không nhả đàn ông. Một bữa gió Bắc, say rượu ngủ ngoài ga, bà già trúng gió qua đời. Trong đám tang ai đó kể hồi đó tàu còn ghé Xép mười lăm phút, bà già (thủa chưa già) bắt được khách là gửi thùng thuốc lá cho đồng bạn rồi đưa đàn ông vào buồng kho. Anh Xây là quà tặng kèm theo trong lúc gã nào đó vào ra hớt hải, khi còi tàu đổ dài báo sắp rời đi. 

Không có Viễn trong những chuyện xóm làng của mấy chị đàn bà. Tôi quyết định không chờ nữa, mua sẵn một vé tàu, thằng nhỏ mặt nhọn bỗng xuất hiện, cầm theo món tiền không dày chẳng mỏng, nhưng lem luốc như mọi khi, quạu quọ nói Viễn nhắn đợi anh ta quay lại đón. “Trễ lâu. Chắc dính bầu”, tôi nghe tiếng mình được mất trong tiếng còi tàu bải hoải. Thằng nhỏ thở hắt ra, mặt càng nhọn hơn, “Lại thêm một miệng ăn”. Tối đó tôi nằm chiêm bao, thấy một đứa trẻ nhọn hoắt chọc xuyên bụng mình chui ra, tiếng khóc của nó như những mũi tên bắn khắp chung quanh, những tường vách đều thủng lỗ chỗ. 

Không biết làm gì cho hết ngày, tôi ngồi suốt chợ Ga, tự làm nhiễm độc mình bằng dè bỉu chuyện thiên hạ, đợi cho đến chị đàn bà cuối cùng đội thùng thuốc trở về nhà. Bên kia vợ chồng anh Xây cũng đóng cửa quảy túi đi tuần đường, hết chuyện coi. Tôi hẫng đi một lúc. 

Không quay về căn phòng bụi, tôi đi bộ dài theo cái thị trấn Xép mặc cảm, chơi trò nhìn sào đoán cảnh. Những sào quần áo cong lại sau một ngày cháy nắng, phơi bày hết nếp sống của mỗi nhà. Áo đàn ông dính đầy mủ cao su, áo đàn bà chảy xệ, những sào đồ trẻ con chật cứng, tương ứng với tiếng tụi nhỏ khóc la gấu ó nhau. Mấy chị đàn bà có thể gọi là thân thiết với tôi, giờ chấp chới trong những căn nhà mái tôn, vách chắp vá bằng nhiều tấm ván xẻ từ những cây cao su kiệt nhựa. Không ai ngoắt tôi ghé chơi. Vừa mới tụ tập ở ga, giờ mấy chị coi tôi là kẻ lạ. Họ kẹt trong thế giới của mình, bận cơm chiều, làm đồ nhắm hoặc dọn bãi mửa của chồng, tét đít mấy đứa con. 

Nhận ra sự rảnh rang cuối chiều của mình có thể chuốc lấy những cái nhìn thù nghịch, tôi đi ngoài rìa xóm. Vượt khỏi cái cổng chào gãy cánh là con đường nhỏ đâm ra cao tốc, và các rào chắn chắc nụi không cho phép một sự thông đồng nào. Chẳng được cao tốc mở ra chào đón, con đường như một cái cuống mỏng manh khô nhựa, vô phương gá vô cành. Đứng đó tôi không định vị được phương hướng nữa, phía nào là nhà, ý tôi là nhà mà tôi đã quên không khóa vòi nước đang chảy xuống chậu quần áo, bỏ trốn theo Viễn. Chỉ một chuyện tôi chắc chắn, đã trễ để quay về, nước từ cái vòi mở toang đó giờ đã ngập lụt xóm làng. 

Tôi mở cửa sau. Vài cái toa tàu bị bỏ rơi, bị đám bìm bịp lợp kín, chúng nằm quây lại thành cái sân kín đáo. Vợ chồng anh Xây có một thế giới riêng ở đó. 

“Họ trồng mấy thứ rau, kê cả bộ ván dành đêm ra hóng gió”, tôi tả lại với đám đàn bà chợ Ga, “chạng vạng là họ ra nằm chồng lên nhau, khít rịt”. 

“Vậy luôn?!” 

“Thì đó, không mặc chi hết, giữa trời.” 

Chuyện thường ngày bên nhà họ lặp đi lặp lại, tôi bịa thêm cho đỡ tẻ nhạt. Chỉ tôi mới sở hữu cái cửa sau nhìn ra thế giới kín đáo của vợ chồng anh hàng xóm. Như một kỳ tích, từ kẻ lạ tôi trở thành một người không thể thiếu ở chợ Ga. Nhưng rồi xế bóng, tàu ghé xong vội rời đi, và những thùng thuốc lá gần như không vơi trên tay mấy chị đàn bà trên đường về nhà sau buổi chợ. Tôi lại trơ trụi. 

Một bữa nghĩ cứ lang thang dọc đường ray, biết đâu may sẽ gặp đoàn tàu nào bất thần lao tới, tôi đi một hơi, giữa hai hàng rào trúc đào độc địa, xa hơn là rừng cao su bạt ngàn ngày ngày nuốt chửng đám đàn ông của Xép, cây cầu cạn Bắc qua con sông Mã Đề đã cạn trơ lòng, tới gò Ba Khúc. Ngồi bóp cặp giò mỏi rã, gặp vợ chồng anh Xây tuần đường trờ tới. 

“Phải ở nhà lo cơm nước, đỡ cho thằng chồng quá”, tôi nghĩ bụng, liếc chị vợ chập chờn phụ tay chồng đắp một cục đá lên gò. Mỗi ngày một vài cục đá, lụi hụi mà cao, anh nói. Bên dưới đống đá, là cô gái đã nằm vắt ngang đường tàu, chu đáo chuẩn bị cho cuộc đi của mình, kê cái cổ mỏng manh lên thanh ray, bảo đảm không xảy ra sơ sót gì. 

“Cổ có cái đầu nhẹ hều”, anh Xây kể. Bữa đó cũng là ngày đầu tiên anh quảy túi đồ nghề đi tuần đường. Sự cố cách anh nửa cây số. 

“Khi đó mắt cổ còn giựt lia lịa, hỏi tên chắc kịp, nhưng tụi tui quýnh quá nên quên.” 

Tôi nhìn vào chị vợ gãy khúc trên thanh tà vẹt. Hình như chị cười, hoặc không, nhại khẩu hình trùng khớp lời của chồng, như đã thuộc lòng câu chuyện. 

Lúc xảy ra tai nạn nọ, chị cũng ở đó. Nghe kể mười lăm tuổi anh Xây bị chị bỏ bùa, bằng những biến ảo theo phong cảnh chung quanh, theo mặt trời và những ngọn đèn, chị còn có thể phân thân, và thay đổi hình dáng trong phút chốc. Lúc đó anh bắt đầu rù rì nói chuyện một mình, lâu lâu lấy tay khum che nắng cho kẻ vô hình nào đó, hoặc hứng chí nhảy qua vũng nước và reo lên tui thắng rồi. Nếu bị níu lại hỏi chuyện, thằng nhỏ đó toàn ngó đâu đâu, không nhìn vào đồng loại. 

Anh đâu có một mình. Sau này người ta mới biết sao suốt ba tháng thử việc tuần đường, ngày hai lượt đi về hai mươi hai cây số tẻ nhạt, không kể nắng mưa, anh không một lần kêu công việc buồn chán. Cả chuyện cô gái nhờ con tàu cắt mình ra, vào ngày đầu tiên anh đi làm, cũng chẳng làm anh hoảng loạn. 

“Con người ta bị chia làm ba khúc, lúc ráp lại thấy cũng giống con tàu”, anh Xây nói, trút ngược bình ghi-đông nước vào miệng. Và chị vợ, lẽ dĩ nhiên cũng há mỏ chờ. Tối thẫm như chị uống bao nhiêu nước mới đã cơn khát, tôi tự hỏi. 

Một đoàn tàu sầm mặt đi qua. Tàu Bội Bạc, như cách gọi những đoàn tàu không ghé Xép của mấy chị chợ Ga. Anh chị kéo tôi lùi lại. Cánh tay cầm cờ hiệu nửa như ngăn tôi nhao ra đường ray, nửa chào con rít khổng lồ. Tôi nhìn theo đoàn tàu dấy bụi bên kia cầu Cạn, nghĩ Viễn ở trên đó, hoặc không. Rồi tàu biến mất, để lại một dấu vết còn tươi ngay trước mắt tôi. Một dải phân nhão rê giắt suốt qua vài ba thanh tà vẹt. Tôi ói tới mật xanh. 

Những ngày sau, tôi cứ ói mửa chẳng vì lý do gì. Hoặc tôi đã biết lý do lại vờ như không phải. Nhưng mấy chị chợ Ga gọi đúng tên cơn nôn nao, “Nghén rồi, nặng à nghen, kiểu này nghén oặt cho coi”. Họ đoán đúng. Uống nước mửa dãi nhớt, uống không khí mửa khan, tôi thấy mình mòn dẹt sau những cơn dạ dày lộn ngược. Như thể dạ dày được treo phía trên đầu, trút sạch. Nhưng tôi vẫn cố di cái thân tiều tụy qua ga, hòa vào đám đàn bà, cố căm ghét ai đó. Phải cảm xúc mạnh mới đủ liều giúp tôi chống lại sự phân rã đâu đó từ bên trong chính mình. 

Mớ dãi nhớt gần như vô hạn của tôi thu hút được con chó hoang. Nó lẽo đẽo một bên, chực chờ liếm láp. Giữa những cơn nôn mửa tôi thèm lá mục, loại lá lợp nhà đẫm mùi trứng kiến, mùi mưa và nước đái thằn lằn. Không hình dung được vợ chồng anh Xây cũng bị cuộc nghén của tôi mê dụ. Chừng như đàn bà ở Xép cấn bầu và sinh nở dễ như thở, chưa ai qua cuộc nghén vĩ đại như tôi. 

Anh chị hay tần ngần ngoài cửa, tê mê ngó tôi ngồi nhấm mớ lá mục vừa kiếm được đâu đó, như nhìn ngắm một tạo vật phi thường. Tôi mửa thì hai người lại kêu lên đầy thán phục “Nữa, nữa rồi”. Thấy mình như một con khỉ cháy lông khi nhảy qua vòng lửa, dưới kia thiên hạ hớn hở đứng coi, nhưng tôi không hơi sức đâu tức giận. Kệ họ, tôi cứ mửa, cứ nhằn lá mục, nghe vị ngọt chúng ngấm đến tủy xương. 

“Kỳ thiệt, ăn thứ chi kỳ”, anh nói, hoặc chị mượn cái máy môi của chồng đưa chuyện. 

“Cứ nghén như tui đi, rồi biết”, tôi bực bội khẩy chân vô sườn con chó. 

Sau này tôi nhớ câu nói đó của mình, khi vợ chồng anh Xây gửi chìa khóa nhà, nói sẽ đi không biết chừng về. 

“Nghe nói ở núi Côi có ông già bốc thuốc nam hay lắm”, nhìn chị đang nghiêng dài trên đất, anh cười, “Cổ kêu thèm con”. 

Sẽ rất lâu, hoặc không bao giờ mình còn gặp vợ chồng người tuần đường này nữa, viễn ảnh đó rõ ràng như chuyện Viễn không bao giờ trở lại, làm đầu tôi mụ đi, chẳng nảy ra được lời tử tế “Kêu thầy cho thuốc vừa thôi, chị đẻ một hơi cả chục sao nuôi nổi”. Nhưng độc địa thì không cần nghĩ, chúng đã sẵn trên môi tôi tự hồi nào, “Bóng thì đẻ bóng. Có mà ăn tim người mới thành người”. 

Phải không, vì câu nói của tôi, mà chị đã đi tới miền cù lao Vạn Thủy.

biên sử nước- chương 1 và 2

Ngày hai ngàn không trăm bốn mươi sáu, Đức Ngài chỉ còn mỗi trái tim. Người đàn bà sẽ lấy nó đã tới bên kia sông, tay bồng đứa nhỏ. 

Không còn gì ở đó. Chiếm đóng sân lễ là nước, và bóng tối. Thứ bóng tối đặc, ăn nhập vào sình nhão bên dưới mặt nước. Lớp đất cứng đã bị lấy đi. Họ giữ một cái bờ ngăn không cho tông tràn vào những bãi đất đang đào dở, nhưng giờ nước đã ở mọi nơi. Đó là sau khi họ bới từng viên gạch, vét cả vụn bụi của đôi rồng đúc xi măng, lư hương đá, cột đèn thờ. Cái sân lễ họ đã từng quỳ mọp, và rồi họ bới mọi thứ lên, rưng rức hôn lên chúng, lạy tạ, bảo sẽ thỉnh về phụng cúng như linh vật. Ai đó đã gãy xương đòn vì cố giành giựt chút rễ của cây sứ trắng. Không biết trên ban thờ đoạn rễ đó một ngày họ dâng mấy lượt khói nhang? Không biết hôm mình lên Trời có bao nhiêu ban thờ đồng loạt phát sáng?

Vẫn nhớ lần hoa cuối. Trắng rộ trên những cành nhánh cùi hủi, trơn trụi không chiếc lá nào. Cũng không phải vì thích mà ngắm chúng, nhưng ngồi trên ngai ngó ra sân lễ chỉ cây sứ trăm tuổi trong tầm mắt. Nó phải ở đó từ trước khi cù lao có người ở. Cánh dày, cỡ hoa đều y như chế tác từ một khuôn ra. Rụng là cách duy nhất phân biệt với hoa giả. Hương thơm cũng có thể làm giả như thường. Nhớ những người đàn bà lần đầu đến hầu buồng Thượng hay dáo dác tìm cây nguyệt quế. “Mùi của nó ngay đâu đây”, các cô nói. Rồi các cô bẽ bàng nhận ra mùi hương thật thà kia ở đôi đèn xông tinh dầu đặt trong góc buồng.

Trắng. Hệt như cánh sứ. Và đục, da thịt những người đàn bà đó. Da thịt ngậm nước cơm vo. Bật lên trên chiếc giường trải lụa đỏ. Có biết cách mấy thì những da thịt không thể trong được chút nào. Nhiều lần nhễ nhại, tưởng họ sắp tan thành nước, nhưng gạt lớp mồ hôi gai mặn đó ra, da thịt chừng như đục hơn. Và trắng. Như bông sứ. 

Giờ thi thoảng nghe họ xối nước. Báo nói ảo giác. Như tiếng chó sủa, bước chân loẹt xoẹt ngoài hành lang, tiếng ho đêm của đội tuần tra, đám người nửa đêm giành vị trí hàng đầu ở sân lễ. Ở đó thì họ mới thấy mình thật rõ. “Là gió”, Báo nói. Nhưng lạ là không nghe được gió. Ở cái cù lao trống hoác, khó mà nhận biết có thứ như gió tồn tại. Không có tấm tôn sút đinh để giật giũ từng chặp, không có quần áo phơi trên sào cho gió thao túng, không ngọn cỏ nào ngã rạp. Họ mang mọi thứ đi, không chừa gì. Gió, nếu như lời Báo nói, có thật, thì là thứ gió vô hình không tăm tích. 

Không tin được Báo. Nó gạt phắt chuyện những thở dài quãng gần đây kéo về ngày một đông, dậy động. “Ma còn không có, kiếm đâu thở dắn dài”, nó nói, cằm hất ra bóng tối ngập đến tận ngoài sông. Những thứ âm thanh đó tra tấn ta mỗi đêm. Một rừng thở dài. Một biển thở dài. Khô rát. Cộc cằn. Thèm nghe nói chuyện. Lời gì cũng được, tục tĩu, vô vị, hay chỉ là những chào hỏi vẩn vơ. Hay tiếng thét đau đớn của đám người trộm cướp bị đánh roi ngoài sân trước. Cắt vào chuỗi chửi rủa phun ra từ những cái miệng tội nhân mặn máu, là tiếng roi đuôi cá đuối rách gió, và giọng Báo, một chất giọng điềm đạm đến rợn người, “Một cục đất của cái cù lao Lẻ này cũng là của Đức Ngài, sao tụi mày dám?”.

Những lúc ấy ta ngủ lơ tơ mơ trong ngai, hoặc trầm luân cùng những thịt da ngậm sữa. Vàng đã được Báo tẩn mẩn coi chừng. Đèn từ ngoài sân vói qua cửa phòng, khảm ánh sáng lên những hõm lưng. Không có đèn thì đất cù lao vẫn sáng. Vàng khiến nó sáng. Thứ ánh sáng khiến chúng ta không thể ngủ được chút nào vào những đêm đầu tiên khi vàng phát lộ ngoài rẫy. Nhắm mắt, vàng vẫn chong rờ rỡ.

Họ đem ánh sáng đi. Vàng cũng vậy. Cù lao bị bóng tối hực vào khoảng bụng vô tận của nó. Kể cả những thở dài (ngày càng cộc cằn), cũng tối. Lâu rồi không còn thấy mưa. Tiếng mưa chắc dễ chịu hơn tiếng thở dài. Sấm chớp giật giũ dễ chịu hơn tiếng thở dài.

“Cô Long sắp về”, Báo nói, tay khẩy một tàn thuốc tưởng tượng. Thuốc trong túi nó đã cạn sạch từ lâu. Có thể nhận thấy Báo đang phấn khích. Nó không thường vậy. Không nhớ Cô Long là ai. Nhưng cái tên man mác vị muối trong lỗ rún. Vị muối mới quen thuộc làm sao. Những cái rún cũng vậy. Nhớ được hương vị đó, nhưng không thể nhớ được một cái tên nào, nhịu lẫn hết rồi, càng nghĩ những thở dài càng thấm hút hết không khí chung quanh. 

Chẳng hiểu sao vẫn muốn không khí. Sự sống không hít thở mới có thể dài tới ngàn năm. Một ngàn năm, họ vẫn quỳ trước mình? Không nhớ gương mặt của người đem buồng phổi đi. Nhưng ông già đã thỉnh đôi mắt ta thì khó quên. Khóc nức nở, ông già dập đầu vào cái chân giả của chính ông, mếu máo nói ơn này ba kiếp không tạ nổi. Lúc Báo gói đôi tròng mắt đem đến ông, lão ta đái ra quần, chết ngất. Co rúm nằm đó, gió lật vạt áo ông lất phất, để lộ một vết cháy bằng bàn tay. 

Ông già tới trễ quá. Chẳng còn gì để ban cho. Vàng đã cạn kiệt từ đời thuở nào rồi. Những người tới trễ chẳng kiếm được dù là rễ của cỏ cây, hay một nắm đất. Rồi một người mọp đầu hỏi xin một vài móng tay, lúc này được nuôi dài, uốn cong lại. Kẻ đó nhắc ta rằng nhục thân cũng là món quà, nó đáng được thờ phụng hơn cả.  “Nghe nói không có xác Chúa trong mả Chúa”, Báo nói. Những khi nói ra những gì ta đang nghĩ, mắt nó rợ lên. Ngờ là có con dao trong đó. Nó định làm gì với đôi dao giấu trong mắt? Sau bao lâu rồi, ánh dao không rỉ sét chút nào? Một ngàn năm nữa, Báo vẫn quỳ trước mình, với con dao đó?

Thành phố miền đất đỏ

Nam đã đi khắp thành phố. Anh thả bộ trên đại lộ Hoàng Hôn. Bên trái là đường Lý Thường Kiệt, rồi đến đường Trưng Vương. Phía trước, đại lộ kết thúc trước khuôn viên nhà thờ Bình Long ở xa xa. Tượng Chúa ki tô Vua cao lừng lững, cô đơn giữa bãi đất trống. Cỏ dại che phủ nền chợ cũ bên trái. 

Nam quay nhìn lại, cứ như Em đang lẽo đẽo đi theo. Nhưng con đường mờ mịt, trống vắng. Sau lưng Nam, không có người hay xe. Chỉ có đường đất đỏ âm thầm lên dốc chạy về hướng Quản Lợi. 

Màn đêm buông xuống, nhưng Nam vẫn đi tìm. Nếu Em thực sự đang đi sau lưng, chắc chắn Nam sẽ tìm ra địa điểm đó sớm thôi. 

Nam tiếp bước về phía trước. Bên phải Nam là trường tiểu học người Hoa. Ngôi trường mới xây, cao nhất thị xã. Nam đến chỗ bồn phun nước. Bên trái là dãy nhà mái tôn của trường tiểu học người Thượng. Bên phải là cây xăng Shell lọt thỏm dưới tán lá rộng của hai cây lớn. Đó chính là điểm trung tâm. Từ đây người ta có thể theo đường Nguyễn Huệ chạy hướng nam, về Sài Gòn. 

Giữa đêm nhá nhem, Nam thấy mình như kẻ mộng du. Vô thức dẫn dắt bước chân Nam. 

Nếu thành phố có một cái hố, anh sẽ rơi tọt xuống đó. 

Thành phố mà Nam tái tạo. Mỗi ngày anh đều âm thầm vẽ lại, xây lên trong đầu. Nếu không làm thế, anh sẽ phát điên. Nam phải tìm cho ra! 

Khi hoàng hôn, anh bỏ thành phố có thật và rảo bước khắp thành phố tái tạo. Thực tế, nó chưa bao giờ là thành phố. Cùng lắm đó chỉ là một thị xã, một tỉnh lỵ Nhưng kẻ thực dụng nhất thì biết rõ, đó chỉ là một cái tên. 

Tất cả đều đã quên cái tên này. Chỉ có Nam vẫn nhớ tên thành phố. Nhưng anh sẽ không bao giờ nói ra. 

Nam cũng không thể quên Em. Em có một cái tên. Đối với Nam, Em là một ám ảnh còn lớn hơn ám ảnh với thành phố. Em đã bên Nam từ trước khi thành phố bị bao vây. Em đã lớn lên ở thành phố đó. Em từng dạy học ở ngôi trường tiểu học người Hoa. Những vết đạn lỗ chỗ trên tháp cầu thang khiến ngôi trường kiến trúc hiện đại chủ nghĩa nhìn tả tơi.  Ký ức của Nam về Em cũng thế. 

[Đã có lúc Nam từng quên hẳn thành phố và cả Em nữa.] 

Sau nhiều năm trời tự huấn luyện đầy khắc khổ, anh ngỡ đã thành công. Như anh từng thành công khi xóa sổ tên thành phố. Đã không còn ai nhắc đến cái tên từ dạo đó. 

Sau đó Nam buồn đã nhận ra, khi anh cố gắng quên Em, thành phố đã âm thầm xâm nhập anh. Hệ thống phòng thủ của anh đã hoàn toàn bỏ ngõ. Một ngày kia, áp lực của thành phố lên anh tăng vọt. Pháo đồng loạt khai hỏa vào các tiền đồn. Rồi thành phố xung phong tấn công tràn ngập anh. 

Nam đã bị tái chiếm. Bên trong anh giờ đây là những con đường và dãy nhà, cả những hàng cây xanh um khi nhìn từ không ảnh. Ai đó nhìn anh từ xa và thấy ngay tấm bản đồ thành phố hiện ra. Đường sá và khu phố hiện lên như khung xương của anh trên nền phim X-quang. Trán anh chạy dòng chữ “Tổng Nha Điền Địa”. Dưới cằm anh in nhỏ hơn “Bản đồ- Tỉ lệ 1/ 10.000- Tỉnh Bình Long”. 

Thành phố đã ăn nhập vào anh sâu và nặng nề đến thế. 

Năm nhận ra anh chỉ có một lựa chọn. Do chỉ có một, đó không còn là lựa chọn nữa. Nam phải sống và chấp nhận thành phố. Cho dù chính Nam đã tái tạo thành phố. 

Giờ đây nghĩ lại, có lúc Nam vẫn phải đắn đo giữa thành phố và Em. Có cách nào trốn thoát khỏi Em? Hoặc nói cách khác, có cách nào dẫn Em thoát khỏi thành phố? 

Vì thế, đã có lúc Nam và Em trốn thoát và đi qua nhiều thành phố khác nhau. 

Ở mỗi thành phố, Em có một tên mới. Bề ngoài Em cũng khác. Nhưng điều đó không quan trọng. 

Cuộc sống thị dân, khi người ta còn rất trẻ, đã biến Nam và Em trở thành những chuyên gia về thành phố. Giờ đây chẳng cần cố gắng, Nam vẫn nhớ lại mọi ngõ ngách mà Em và anh từng đi qua. Mỗi thành phố đều có những lối đi riêng. Chỉ cần tìm một ngõ nhỏ, rồi đi vào đó, thoát ra từ nơi khác, như vậy là đủ để bất cứ ai trở thành chuyên gia về thành phố. Em đã nói với Nam như vậy. Nam tin Em, cũng như tin thành phố. 

Thành phố đúng nghĩa là nơi khi bịt mắt lại đến một nơi, chỉ cần nghe cư dân ở đó nói chuyện, bạn có thể nhận ra khu nào. Một tác giả đã viết như thế. Tất nhiên Nam không rành rẽ thành phố đến mức đó. Ngoài ra, với anh điều này thật phi lý. Vì thành phố của anh cho dù có mở to mắt vẫn không nhận ra nổi đâu là đâu. Chưa kể ở đó không thể tìm ra ai khác. Vì đơn giản tất cả là một bãi hoang địa. Ngay cả những đống gạch vụn cũng đã bị san phẳng. 

Trận Chiến đã đưa thành phố của Nam về lại bản vẽ. Đó là trước khi Nam bắt đầu tái tạo tất cả. 

Nhưng nếu không có Em, Nam đã không cần làm thế. 

***

Một ngày kia, Nam gặp kẻ cũng ám ảnh về thành phố như anh. Mel, kỹ sư xây dựng, từng có mặt ở thành phố trước khi Trận Chiến nổ ra. Đương nhiên, lúc đó thành phố vẫn còn là một tỉnh lị. Cư dân địa phương lưa thưa như số nhà gạch trong vùng. Nhìn từ trên cao, khó ai nhận ra ranh giới của các đồn điền cao su bạt ngàn chung quanh 

Mel là nhân viên hợp đồng làm việc cho quân đội Mỹ. Công trình xây hoàn tất, ông rời tỉnh lị. Khi Mel quay lại, sau Trận Chiến, công trình đã bị san bằng. Tất cả còn lại là nền gạch và khung tường hình chữ nhật, vuông vức đến mức sòng phẳng như số phận của thành phố bị bao vây và pháo kích. 

Mel đã kể với Nam về thành phố. Mel đã nghe Nam kể về thành phố. 

Nam hiểu đó là thành phố mà Mel tự tái tạo. Sau Trận Chiến, thành phố của cả Nam và Mel chỉ còn là bãi xà bần. Nhưng lý do mà Mel quay lại đây là gì, Nam vẫn chưa hiểu rõ lắm. Ban đầu, Nam cho là Mel đã bị Trận Chiến ăn vào người, như cách thành phố ăn vào người Nam. Nhưng sau đó, càng nghe Mel kể, Nam hiểu thành phố chỉ là một cái cớ. Cũng như Nam, Mel đã mất tất cả. 

  • Chính xác vị trí công trình nằm ở đâu? Nam hỏi. 
  • Tôi có chụp vài hình ảnh. Đây, anh xem. 

Mel cho Nam xem hình. Những ngôi nhà giống nhau, mái lợp tôn, xếp thành hàng. Nhiều công nhân đội nón lá đứng lúp xúp. Công trình chính là Trung tâm tiếp liệu tỉnh lị, Mel nói. 

Trong một bức ảnh, người chụp đang nhìn xuống dốc. Hậu cảnh là một vùng rộng lớn, mờ ảo ở xa xa. Bên phải hình là dãy nhà, tọa lạc trên nền đất cao hơn con đường. Nền đất thoải xuống, lộ ra màu nâu đỏ đặc trưng của đất chứa oxit sắt nhôm. Dưới chân nền đất là rãnh thoát nước. Nhưng khi thành phố bị bao vây, ngay cả nước cũng không thoát ra nổi. 

  • Hình này nhìn xuống dốc. Tôi nghĩ phía xa là khu đồng trống gần suối Quản Lợi. Như vậy ở đây gần phi đạo, đúng không Mel? 
  • Gần phi đạo? Không phải đâu. 

Mel kể cho Nam, đó là thời gian chiến sự căng thẳng. Quốc lộ 13 không an toàn. Ông bay từ Sài Gòn đến tỉnh lị bằng máy bay hai động cơ Dornier. Từ phi đạo đến công trình phải đi một đoạn xa. Cho nên, phi đạo không thể ở hướng đó trong hình.

  • Tôi sẽ xem lại không ảnh, phải tìm ra chính xác địa điểm. 
  • Cảm ơn Nam. 

Mel không thể nhớ nổi vị trí của công trình giữa thành phố. Nhìn dáng vẻ ông già đã hơn 70 tuổi, tóc bạc và thưa, Nam nghĩ đến Em. Nếu còn sống Em cũng trạc tuổi Mel. 

Nhưng với Nam, Em luôn là một thiếu nữ, thướt tha trong tà áo dài. Cũng không hẳn Em là nữ sinh, nhưng Em luôn mặc áo dài trắng. Tà áo Em không trắng cả con đường. Chỉ khi ở một thành phố thực sự, Em mới tỏa sáng như thế. Còn ở nơi thành phố- tỉnh lị vắng vẻ chính giữa nơi không- có- gì này, tà áo dài như bị màu đất đỏ nhuốm vào. 

Nam tưởng tượng anh đang đi bộ bám theo tà áo của Em giờ tan trường. Con đường đất xuyên thành phố bỗng tối dần, mặc dù đang giữa trưa. Rồi bóng tối phủ lên tất cả, như khi Nam đang đi trên đại lộ Hoàng Hôn. Nam thấy Em chìm dần, tà áo từ màu cà phê sữa ngả sang màu đất. Nam tăng tốc và bắt đầu chạy đuổi theo. Nhưng Em đã lẫn màu với đất đỏ. Em biến mất trên con đường hun hút đầy bụi bởi những chuyến xe trên tuyến Sài Gòn-Bình Long. 

Một nửa của Nam muốn hiểu về Em, như một người cùng thời, là lý do anh tìm những người như Mel. Những người đã sống và trải qua. Lúc đó, thành phố là tỉnh lị. Nửa kia của Nam muốn sống với Em như một nàng thơ. Anh muốn dẫn Em từ thành phố này qua thành phố khác. Những nơi Em chưa được đến. Ở cao nguyên, hay bên kia đại dương, đều được. 

Từ thành phố này qua thành phố khác, Nam và Em đi qua những ngõ nhỏ, luồn lách giữa những ngôi nhà, thỉnh thoảng chui tọt vào một quán ẩn mình giữa con dốc, gấp gáp như để cắt đuôi một kẻ đeo bám nào đó. Nam muốn sống với Em như Em đáng được hưởng cuộc sống của một thị dân. Lúc đó, thành phố là thành phố, không còn là tỉnh lị nơi vùng bình nguyên bạt ngàn cao su nữa. 

***

  • Người ta vừa tìm thấy hai hố chôn. Đức Quốc Xã đã bắn họ và chôn xác ở đây. Sau đó rừng cây được trồng bên trên. Tất cả khoảng 8000 xác, ước lượng từ 17 tấn tro chôn dưới lòng đất. 

Mel nhìn xa xăm khi nghe Nam nói. Đương nhiên Mel hiểu sự tàn ác của chiến tranh. Gia đình ông may mắn sống sót ở Ba Lan, nơi hai hố chôn vừa được tìm thấy. Nhưng tuổi thơ của Mel là ở Montana, Mỹ. Khi đặt chân đến tỉnh lị, màu xanh đen ảm đạm của rừng cao su xa xa khiến Mel nhớ về thị trấn trên đồi ở Montana. Vì vậy Mel thấy gần gũi với thành phố này. 

  • Cha mẹ tôi có thể cũng nằm dưới một cái hố như vậy. May là họ đã kịp thoát khỏi Warsaw. 
  • Mel à, tôi có tin mới về Trung tâm tiếp liệu tỉnh lị. 

Nam lôi bản đồ thành phố mà anh in khổ lớn từ hình lưu trữ năm 1967. Nam và Mel lần mò từng con đường, khu phố. Một tài khoản trên mạng xã hội cho biết rằng sau Trận Chiến, giữa cảnh tan hoang, công trình của Mel xây dựng vẫn đứng vững. Bức không ảnh hiếm hoi nhá nhem đen trắng. Chính giữa bức ảnh là năm dãy nhà nguyên vẹn, đối diện sân vận động 

  • Ở đó người ta đã đào một cái hố. 

Nam nói, trong lúc toàn thân run nhè nhẹ, 

Mel nhìn Nam, dần hiểu ra gì đó. Cả hai chưa bao giờ nói với nhau về lý do đã đưa họ đến đây. Nhưng thành phố tái tạo đã gắn dính họ với nhau. Cứ như thành phố chính là số phận của cả Mel và Nam. Từ thành phố- tỉnh lị, trở thành không- có- gì, rồi phục sinh trên nền bản vẽ của Nha Điền Địa. 

Nam nói tiếp: 

  • Trước đợt hai của Trận Chiến, số tử thi ở nhà xác bệnh viện đã lên tới hàng trăm. Đại tá Điềm định đào một hố chôn tập thể trước trường trung học tỉnh. Nhưng cấp trên không đồng ý. Số xác này cộng với hàng trăm xác khác khắp tỉnh lị được tập trung về. Họ đã chôn chung ở một bãi đất trống giữa trung học Bình Long và bệnh viện tỉnh. 
  • Như vậy thì trung tâm của tôi liên quan gì? Mel hỏi.
  • Sau khi lấp đầy hố này, vẫn còn quá nhiều tử thi. Họ quyết định chôn phần còn lại trong khuôn viên Trung tâm tiếp liệu tỉnh. 
  • Đó là lý do anh muốn tìm địa điểm chính xác của Trung tâm? 
  • Đúng vậy. Ông xem nhé? 

Cả hai lại chụm đầu vào bản đồ. Ngón tay Nam dò theo dòng suy nghĩ, còn miệng anh lẩm bẩm. Đây là trung học Bình Long. Bên kia đường là bệnh viện tỉnh. Bệnh viện sau đó dời về hầm ngầm của Lực lượng Đặc biệt Mỹ. Theo đường Cách mạng 1.11.1963 về phía nam sẽ gặp Vận động trường Nguyễn Huệ bên tay trái. Bên tay phải là khu cư xá công chức. 

  • Như vậy theo bản đồ này, khu đất trống trải duy nhất để xây Trung tâm của ông chính là ở đây. 

Nam chỉ vào bãi đất đối diện sân vận động về phía tây. Nằm phía nam khu cư xá. Lần đầu tiên, Mel biết được nơi đã khiến ông dính vào thành phố. Năm mươi năm sau ít ra Mel cũng đã có câu trả lời nếu có ai hỏi. Nam nói tiếp: 

  • Ở Ba Lan người ta cần tám mươi năm mới tìm ra cái hố. Còn chúng ta cũng cần năm mươi năm! 

Mel chợt thấy chính mình trên gương mặt Nam. Người thanh niên đang vui mừng như đứa trẻ. Mel cũng từng có lúc trẻ. Nhưng đã có quá nhiều thứ xảy ra. Kinh nghiệm khiến Mell không bao giờ xem thường một người trẻ. Một kẻ như Nam cũng có thể bị hủy hoại đến mức tàn tạ ở bên trong, như thành phố năm xưa. 

Vì thế, thành phố tái tạo cần sự phối hợp, bổ sung cho nhau giữa những kẻ như Mel và Nam. Nhưng cái gì mang Mel trở lại đây, chỉ có trời mới biết. Vì thế, Mel không bao giờ hỏi về động lực của Nam. 

***

Cho dù Mel hỏi, Nam sẽ không bao giờ cho biết lý do thực. 

Chỉ biết Nam đang đi tìm địa điểm hố chôn tập thể, nên anh rành rẽ về thành phố đến thế. Thành phố hôm nay không hẳn chỉ là một sản phẩm từ trí tưởng tượng của Nam. Nó được xây dựng lại trên một cái nền vẫn còn nguyên vẹn. 

Từ bức không ảnh trong tập hồ sơ hậu tác chiến, người ta dễ thấy những gì còn sót lại. Sau Trận Chiến, trường tiểu học người Hoa là một kiến trúc còn đứng vững, gần như không suy suyển. Giữa đống đổ nát, tòa nhà màu vôi mới nhìn tươi mát như vẻ đẹp vô tư của Em. 

Em là lý do mà Nam tái tạo thành phố.

Nam biết Em đã xung phong làm y tá, khi Trận Chiến bắt đầu khốc liệt. Hầu hết học trò của ngôi trường nơi Em dạy đã di tản. Có lẽ không còn gì vướng tay Em. Em còn cha mẹ hay không, không ai rõ. Người yêu của Em là lính hay dân, hay một gã đào ngũ? Một cô gái tuổi đôi mươi có thể mang theo gì, khi chính thành phố còn bị xóa tên? 

Tập hồi ký của một bác sĩ quân y đã nhắc tới Em. Ông ta chắc chắn 100% Em chưa có người yêu, nói gì đến chồng con. 

Bức thư của một thương binh cũng có nhắc về Em. Bức thư nằm trong bó hồ sơ lưu trữ may mắn được scan và số hóa bởi trung tâm của một đại học ở Texas. Thương binh này là một lính nhảy dù. Gương mặt đẹp của Em chính là thiên thần trong đêm của người lính. Anh ta đã trọng thương và ngất đi dưới chân tượng Chúa ki tô Vua giữa khuôn viên nhà thờ Bình Long, vào lúc hoàng hôn. Khi tỉnh lại, Em là người đầu tiên hiện ra. Màu áo trắng em mặc đã khiến tay lính dù lóa mắt. 

Thiên thần hiển lộ. Thiên thần trong đêm. Dưới chân tượng Chúa ki tô Vua. 

Nam tình cờ đọc được bức thư này. Sau đó, không ai biết thêm về người lính. Có thể là bức thư cuối cùng mà anh ta gửi đi. Nó không hề đề địa chỉ nhận. Có lẽ vì thế, bức thư đã chuyển thẳng vào kho lưu trữ, thay vì gia đình kẻ vô danh. Cũng y như cách lịch sử đã nhận giúp cái tên của thành phố- tỉnh lị năm xưa. Nếu ai muốn biết, chỉ còn cách tự lùng sục trong kho lưu trữ. 

Nam là kẻ duy nhất hiểu rõ về thành phố để đi tìm tung tích của Em- thiên thần vô danh. 

Chắc chắn là vậy. Vì không ai còn nhớ tên Em. 

Vị bác sĩ quân y cũng chỉ biết Em là một y tá đã tử thương trước khi Trận Chiến vào đợt thứ hai. Lúc đó, tiếng đại bác đã thay những liều giảm đau. Phi đạo bất khả dụng. Thành phố bị cô lập bằng đường bộ. Tải thương là chuyện lãng mạn. Mặt trận áp sát bệnh viện. Nhà tù tỉnh lị bị tràn ngập. Ty Chiêu hồi đổi chủ nhiều lần. Ngay cả việc chiến xa xuất hiện trước nhà thờ cũng không còn gì bất ngờ nữa. 

Giữa giờ phút đó, Em đã chết lần thứ hai. Như cách nói của một kẻ đã chung số phận với thành phố hôm đó. 

***

Mel nhìn ra hàng cây bên ngoài. Có quá nhiều thứ bất định. Nhưng Mel hiểu, ông phải có mặt ở đây. Thành phố cần ông. Những người như Nam cần ông. Mel thấy mình không chắc chắn về điều gì nữa. Khi người ta mất đi quá nhiều, việc băn khoăn tự vấn là hoàn toàn vô ích. 

Nhiều người hỏi ông về Viễn Đông, về Việt Nam. Tại sao Mel quay lại đó? Không ai nhận được câu trả lời. Lý do gì ông cứ phải giúp đỡ những kẻ xa lạ ở một thành phố miền đất đỏ u buồn? Cứ để họ suy đoán. 

Mel ít nói, nhưng hay hỏi:

  • Tại sao anh chắc chắn là cô y tá chôn ở đó? Ở khoảnh đất trống sau Trung tâm tiếp liệu tỉnh? 

Nam ngồi dậy, lật ra bản đồ. Nhưng anh không nhìn vào đó khi nói: 

  • Dựa vào ghi chép của vị bác sĩ quân y. Rồi hồi ký của Đại tá Nhựt tỉnh trưởng. Và quan trọng nhất là câu chuyện của Đại tá Điềm, Phụ tá Hành quân của Sư đoàn. Chính ông lo việc chôn cất số tử thi. Khi hố chôn ban đầu đầy, ông Điềm quyết định đem chôn sang khu Trung tâm tiếp liệu. 

Nam nhìn Mel nhưng mắt anh như đang lần tìm về một chiều không gian khác, khi nói tiếp: 

  • Đúng lúc đó, một loạt pháo xới tung lên bãi mộ tạm kế bên bệnh viện. Cô y tá vừa chôn hôm trước bị quật dậy. Cứ như phải chết lần thứ hai! Lời kể của vị bác sĩ quân y. 
  • Chết lần thứ hai?

Mel nhìn Nam khi nghĩ về thành phố. Té ra đây là thành phố của Nam. Thành phố của Mel là những mâu thuẫn khác. Những thứ mà chỉ có Mel mới giải quyết nổi. 

Nam nói tiếp như anh vẫn hay nói mà không có cảm xúc gì rõ rệt: 

  • Vị bác sĩ không nói gì thêm. Nhưng tôi đã đối chiếu thời điểm đó với lúc Đại tá Điềm thu lượm xác khắp tỉnh lị để chôn vào hố thứ hai. Hẳn là họ đã đưa xác cô y tá về Trung tâm tiếp liệu. Cho đến hôm nay, cả hai hố chôn tập thể đều chưa được tìm ra. 
  • Xin lỗi khi hỏi, tại sao anh đặc biệt quan tâm đến cô ta vậy? 
  • Khi tôi bị trọng thương, thiên thần áo trắng đã cứu sống tôi. Như thành phố đã luôn cứu rỗi tôi sau này. Lúc đó cô ta có khuôn mặt của Đức Mẹ. Nhưng tôi muốn một lần thấy cô trong bộ đồ ngày thường. Khi áo trắng của cô không nhuốm màu đỏ của những kẻ lạc loài. 

Nam nghĩ về những nơi Em và anh đáng lẽ sẽ đi. Lúc đó, thành phố không còn đất đỏ nữa. Thay vào đó là những con đường nhựa, những vỉa hè gạch. Thành phố cũng là những lối thông nhau, những con hẻm hun hút. Khi Em và anh đi vào, con hẻm sẽ tự chạy ngoằn ngoèo để không đạn pháo nào đuổi trúng. Cả thành phố chuyển mình. Bản vẽ gốc tự tẩy xóa. Các con đường gãy đổ, bung toác. Cả khu phố và kiến trúc giờ đây tán loạn, cho dù chưa có phát đại pháo nào rơi xuống. Ngay cả chiến xa hạng nặng ủi thẳng qua dãy nhà phố cũng không tìm nổi tung tích của Em và Nam. Vì Nam đã dắt Em sang một thành phố khác. Ở đó, cho dù bị bom và pháo xới tung, vẫn không ai chết hai lần. 

Nam vẫn chưa kể vì thêm về Em. Anh sợ Mel nghĩ anh bị điên. 

Nhưng Em đã kể cho Nam nhiều thứ. Giọng Em êm như bầu sữa mẹ, khi Nam đang nằm đau đớn với vết thương: 

  • Anh à, đại lộ Hoàng Hôn buồn lắm. Hai bên vệ đường trồng cây thông thiên loại cây lùm, lá dài nhỏ. Lũ con nít lấy hạt trái cây này phơi khô, xâu dây kẽm, làm cái song lan. Chúng lấy song lan chơi tuồng hát, giả bộ cỡi ngựa tung bụi khắp sân trường. Tới mùa nhìn thông thiên ra hoa vàng rất đẹp, em thấy bớt lạnh. Anh biết không, lúc nào em cũng thấy lạnh. Nhưng có lũ trẻ, em thấy ấm hơn khi thành phố vào mùa đông.
  • Cô y tá, ở đây chỉ là tỉnh lỵ thôi mà? 

Nam thấy mình hỏi một câu vô duyên, trong khi Em đang băng bó cho anh. Chỉ là anh muốn Em biết mình đang lắng nghe từng chữ. 

Tiếng pháo ù ù ngoài bệnh viện át đi giọng nói trong trẻo của thiên thần. 

  • Em thích gọi là thành phố. Từ nhỏ tới lớn, em chưa bao giờ rời khỏi đây. Em chưa bao giờ đến thành phố nào. Tuổi thơ em gắn liền với tỉnh lị nhỏ bé này. 

Em tiếp tục kể về thành phố của em. Em kể về trường tiểu học, chợ cũ, bến xe. Nam đau quá ngất đi. Nhưng anh vẫn nghe không sót một chữ. Giọng nói em như bài hát ru, khiến nỗi đau thể xác ngủ yên. Trận Chiến bên ngoài có cố lắm cũng chỉ làm khúc nhạc nền. 

  • Sau lễ sáng Chúa Nhật, mẹ hay dắt em ra bãi cỏ nhà thờ. Nhiều năm trước em có chụp một tấm hình với ba dưới chân tượng Chúa ki tô Vua. Bức tượng to lớn lắm. Em chắc chắn ai thấy bức tượng đều nghĩ đó là một thành phố lớn. Nếu có gặp lại em sẽ cho anh xem tấm hình. Sau tượng có một thánh giá bằng gỗ bị nghiêng. Năm ngoái họ định xây cung thánh và bàn thờ mới chỗ đó. Rồi Trận Chiến xảy ra. Em chỉ mong chiến tranh qua nhanh. Bọn học trò chưa kịp kết thúc năm học. Cuối tháng Tư đáng lẽ có trận banh giữa trường em và trường tiểu học Thượng. Bên đó có bãi đất rộng, làm chỗ chơi banh. Phía bên trái sân banh là vườn xoài và cà phê do bác Giao bảo vệ trường chăm coi. Lúc nhỏ em hay vào đây ngắm xoài. Trường tiểu học Thượng lúc đó còn lợp mái bằng cỏ tranh. Từ phía vườn xoài nhìn sang, màu cỏ tranh hợp với màu đất mới u buồn làm sao. Nhưng có lẽ em đã quen với cái buồn của thành phố từ nhỏ. Thành phố thì phải buồn mới đặc biệt, chứ tỉnh lị buồn thì bình thường quá. Nếu có dịp, em sẽ dắt anh đi dạo trên đại lộ Hoàng Hôn, vào lúc sẩm tối. Anh sẽ thấy một việc rất lạ. 

Nam cổ hít sâu để nói thành tiếng: 

  • Sẽ thấy gì?
  • Lúc đó đi từ hướng dốc Quản Lợi về phía nhà thờ Bình Long, nhưng không được rời mắt khỏi tự ki tô Vua, anh sẽ thấy. Anh và em sẽ bay lên. Vẫn tiếp tục đi, nhưng bay lên. Bay như lướt trên mặt nước vậy đó. Không ai thấy hai tụi mình nữa. Phép lạ chỉ xảy ra khi cả hai có nhau, có niềm tin. Tin vào thành phố. Lúc đó không được có ai khác hiện diện trên đại lộ Hoàng Hôn. Bí mật của thành phố. Chỉ có em biết mà thôi. 

Nam nghe tiếng pháo đề pa từ xa, xen lẫn với tiếng trực thăng Cobra, rồi tiếng không pháo nện từ gunship Spectre, và từ xa là âm thanh của một phản lực không yểm chiến thuật nào đó. 

Tường bệnh viện rung lên từng hồi mỗi khi thành phố nhận đạn pháo và bom. Nhưng Nam đang bay. Và Em đang nắm tay anh. Cho dù không quân có thả hỏa châu đầy trời, cũng không ai thấy Em và Nam nữa. 

Em chỉ là của riêng Nam theo cách đó. Vì nếu anh kể ra những điều này. Mel sẽ cho là anh bị điên. 

***

Mel thả bộ trên hành lang viện xá của một nhà dòng. Hành lang hẹp, nhưng độ cao của mái vòm và lan can kiểu cổ điển thuộc địa làm ông cảm thấy mọi thứ to lớn hơn. Hôm nay hành lang cũng dài hơn bình thường. Mel có cảm giác sâu hun hút. Phía xa, chếch bên trái, bức tượng Đức Mẹ giữ khuôn viên đứng giữa trưa nắng. 

Một nữ y tá tiến lại thầm thì gì đó. Mel nói: 

  • Vậy là khá hơn tháng trước rồi, phải không Xơ? 
  • Đúng vậy. Nhưng thỉnh thoảng anh ta vẫn lên cơn. Lúc đó chúng tôi phải dùng thuốc. 

Mel từ tốn kể lại câu chuyện hôm trước, mà Nam đã kể cho ông. Nữ y tá gật gù: 

  • Được lắng nghe là một bước rất quan trọng trong liệu trình. Cảm ơn ông vì đã hỗ trợ rất nhiều cho Nam. 
  • Tôi luôn sẵn lòng, thưa Xơ. Nhưng Nam không như những bệnh nhân khác. Có gì rất đặc biệt. Anh ta nói về thành phố rất rành rẽ. Đây, Xơ nhìn xem. Trên tấm bản đồ này, anh ta ghi chú rõ từng con đường, tòa nhà, chợ cũ, chợ mới, bến xe, vân vân. Ngay cả những nhân vật, sự kiện mà anh ta kể cũng như có thật vậy. 

Mel cho nữ y tá xem qua bức bản đồ năm 1967 của thành phố. Bà lấy mắt kính để nhìn cho rõ. 

  • Anh ta đã tìm ra địa điểm nơi tôi từng có mặt. Thật bất ngờ vì tôi không nghĩ có ai rành về thành phố như thế. Hơn nữa, gần đây tôi thử tìm đọc hồi ký của những sĩ quan còn sống sau Trận Chiến. Đúng là họ có những điều Nam nhắc. Nhưng quái lạ là tôi không rõ Nam đọc từ khi nào. Ai cũng thấy anh ta chỉ nằm trong bốn bức tường như thế này, trong nhiều năm. 

Nữ y tá sau khi cố gắng đọc những ghi chú li ti trên tấm bản đồ, đã bỏ cuộc. Bà nhìn Mel, nói chậm rãi: 

  • Có thể Nam đọc từ trước khi bị đột quỵ gồm đồi thị. Ông biết đó, những chi tiết hằn sâu vào não, kết hợp với sự hoang tưởng sau khi não bị tổn thương hậu đột quỵ, khiến người ta có thể nói rất rành rẽ về một chủ đề nào đó. 
  • Nhưng tôi chưa thấy ai nói về cái gì đó một cách tỉnh táo như Nam. Tôi không hề nghĩ anh ấy là bệnh nhân tâm thần. 
  • Ở đây chúng ta không gọi như vậy Mel à. Ông biết mà. Tất cả là khách nghỉ dưỡng. 
  • Tôi hiểu rồi, thưa Xơ. Mai tôi sẽ tiếp tục đến để lắng nghe Nam nói. 
  • Thực sự viện xá rất biết ơn ông. Bao nhiêu năm qua, ông đã giúp đỡ và hỗ trợ chúng tôi quên mình. Ông là niềm tự hào của chúng tôi, Mel à. 

Nữ y tá nói chậm, nhìn Mel trìu mến như với một đứa trẻ. 

Mel nhìn Xơ gật đầu. Không cần phải nói nhiều. Dù thế nào, Mel vẫn tiếp tục giúp đỡ những bệnh nhân tâm thần ở đây. Ông bỏ ra hàng giờ mỗi ngày để lắng nghe họ tâm sự, kể chuyện. Ai cũng có gì đó để kể, và những mâu thuẫn cần thổ lộ. Nhưng chỉ với Nam, Mel mới thấy điều đặc biệt. Nam giao nhau với Mel ở thành phố. Thành phố không còn nữa, nhưng sự hoang phế và đổ nát của vùng chiến địa đầy tử khí đã khiến cả hai phải quay lại, rồi quay về lần nữa, lần nữa. 

Mel bỗng sực nhớ về cô gái: 

  • Nhưng Nam vừa kể về cô y tá. Chắc bà còn nhớ chuyện này? 
  • Thật sao? Lại nữa à? Mỗi khi anh ta kể về cô y tá, cái cô bị đạn pháo quật mộ lên đúng không, thì thế nào cũng lại sắp lên cơn nặng. 
  • Nghiêm trọng vậy sao, thưa Xơ? 

Nét mặt nữ y tá- Xơ- bỗng dưng trầm ngâm, như lo lắng gì đó. Rồi bà nói mà không nhìn Mel, như đang tự nhủ: 

  • Thật khốn khổ. Trước đây có một cô y tá trẻ, chuyên chăm sóc cận kề Nam. Gần gũi đến nỗi nhiều người nghi ngờ cô ta có tình cảm với bệnh nhân. Vào lúc hoàng hôn, cô ta rất hay dắt Nam đi bộ ở hành lang này, hướng về phía tượng Đức Mẹ. Rồi cô ta bị trọng bệnh, chuyển đi đâu mất. Từ ngày đó, Nam như chuyển biến nặng hơn. Vào buổi chiều tối, anh ta hay lẻn ra đây, đi bộ một mình trên hành lang viện xá. 

Lúc đó, Mel bỗng dưng hình dung ra khung cảnh u tối của thành phố. Mel thấy Nam đang đi trên con đường vắng. Cô y tá đi cạnh bên, mặc bộ đồ trắng bị vấy bẩn. Nhưng trong ánh sáng nhá nhem của buổi hoàng hôn, Mel không thể nhận ra liệu vết bẩn trên nền vải trắng có màu máu hay màu đất đỏ. 

Mel cố gắng gọi Nam, hy vọng anh thức tỉnh khỏi cơn mê. Nhưng càng gọi, Nam càng đi nhanh. Rồi cả Nam và cô y tá bỗng nắm tay nhau lướt đi như bay. Trên con đường tối, các bụi lá thông thiên và nhà cửa lúp xúp hai bên như tránh đường cho cặp đôi. 

Thình lình, Mel thấy chỉ còn mình cô độc giữa thành phố. Phía trước ông là cây xăng Shell, biển hiệu gỉ sét. Ở xa xa trong bóng tối là bức tượng Chúa cao lớn giữa bãi cỏ. Mel thấy đó là thành phố- thị trấn tuổi thơ của ông ở Montana. Những căn nhà khuất sau tàn cây, ẩn sau con dốc của vùng đồi. Mặt đất ẩm ướt sau khi tuyết tan. 

Nhưng nếu Nam có mệnh hệ gì, chỉ còn Mel biết địa điểm hố chôn tập thể. Mel thấy mình giữ chặt tấm bản đồ trong tay. Đối diện bệnh viện tỉnh là trường trung học Bình Long. Hố chôn thứ nhất. Từ bệnh viện quẹo phải về hướng Vận động trường Nguyễn Huệ, băng qua khu cư xá, là đến Trung tâm tiếp liệu tỉnh lị, nơi có hố chôn thứ hai. Mel hầu như đã thuộc lòng, sau khi nghe Nam kể nhiều lần. 

Người nữ y tá vừa nói hết, chuẩn bị rời đi. Bà ôm lấy Mel, rồi nhìn Mel trìu mến như với một đứa trẻ. 

Viện xá quen thuộc quá. Mel nhớ lại hết những gì mình đã đánh mất và chịu đựng. Tất cả còn lại chỉ là một thành phố ai đó đã tái tạo. Thành phố đó cũng chính là thành phố của Nam, và những người như Nam. Cho dù ai nói gì, đối với Mel, Nam luôn là một người trẻ. Cho dù Trận Chiến đã xảy ra năm mươi năm trước, Nam vẫn trẻ, như cô y tá từng trẻ trong ngôi trường mới xây. Trận Chiến đã san phẳng thành phố gốc, nhưng không thể phá hủy cư dân của nó. Mel và Nam vẫn sống. 

Ngày mai, Mel sẽ quay lại, tiếp tục lắng nghe Nam kể về thành phố, và những hố chôn. 

Nữ y tá, bà Xơ, chậm rãi nói như sợ Mel không nghe rõ: 

  • Ông là niềm tự hào của chúng tôi, Mel à. Tôi nghe nói, ngày kia cháu gái của ông sẽ đến thăm. Cô vừa tự nguyện gia nhập chương trình thiện nguyện Việt Nam của hệ thống bệnh viện thuộc dòng chúng ta. Cô là y tá như tôi. Có lẽ rất lâu rồi ông mới nghe tin của gia đình nhỉ? 

Mel không biết phản ứng sao. Ông nói, khi miệng tự động nhoẻn cười: 

  • Bất ngờ quá! Lần cuối tôi gặp, cháu nó còn dạy ở trường tiểu học ở Montana. Tôi nghĩ Nam sẽ mừng rỡ khi gặp cháu tôi. Nó là một người lắng nghe rất tốt. 
  • Ông may mắn lắm, Mel à. Hầu hết những khách nghỉ dưỡng khác ở đây không được ai đến thăm.

Máy chiếu

Lịch sử của một địa đàng gần thượng nguồn hai con sông chính là khởi thủy của lịch sử thế giới chúng ta, nằm vừa vặn lọt thỏm giữa hai dòng nước giao nhau ở một điểm bùng vỡ trên sa mạc, ở đó, loài người đã trở thành chính mình lần thứ nhất, sau khi những sử liệu đã xác nhận điều đó, nhưng ngay cả như thế nhiều kẻ vẫn hoài nghi về một khởi đầu phi siêu hình của một giống loài được tin là đi trên hai chân, sau khi hai giáo phái tách ra từ một dòng mạnh nhất mà chúng ta đều biết tên gọi từ hơn một ngàn năm trước, ở chính cái nôi của nhân loại là vùng đất bị kìm kẹp giữa hai con sông, phía tây nam là một bán đảo khác, mà ở đó những di chỉ đầu tiên của một giống người được sử sách ghi trên những cuộn Papyrus như là Dân tộc Biển, chính những kẻ mà sau đó nhiều nhà khảo cổ đã tin rằng là thủ phạm xóa sạch hết nền văn minh này đến nền văn minh khác ở cả phía đông và phía nam biển Giữa Lục Địa, vùng biển này là nơi ao lầy của những tù đọng và mồ chôn của những di chứng giá trị nhất về sự thức tỉnh của một loài mà sau này chúng ta gọi là người, vì thực ra cũng chẳng ai dám minh định về một lịch sử của giai đoạn mờ mịt nhất mà con người từng được phân biệt với con khỉ, ở đó có những phát triển và thành tựu vượt bậc và huy hoàng nhất mà không lãnh tụ nào của con người có thể dựa vào đó để viết nên một chủ nghĩa dùng làm công cụ khuynh loát nhân loại một lần nào nữa, chúng ta chỉ có thể khóc than cho điều đó khi lịch sử của chính những người này lại trở nên phân rã và vỡ tan như những bọt nước trần thế mà hầu hết những kẻ mơ mộng đều chắc mẩm là tồn tại trong cuộc lữ hành của đám rước cuối cùng trước Thượng đế, không ai nhớ Thượng đế đã từng khải thị về một sự tiến hóa mới nào của con người trong giai đoạn này, điều mà sách vở cũng chưa từng nhắc đến chứ đừng nói là trích dẫn thứ cấp từ bất cứ một bất cứ nguồn của sử gia nào sống trong bất cứ thời đại nào ở cả bên này và bên kia của địa đàng nằm giữa hai con sông mà chúng ta hay nghĩ là nằm ở một vị trí địa lý gợi lên sự bế tắc và lưỡng nan mà thỉnh thoảng trong cuộc sống và giữa những buổi tụng niệm chúng ta hay giày vò khi nghĩ đến, tuy thế, thế lưỡng nan này nếu xét một cách công tâm nhất thì rất phổ biến và phổ quát nếu chúng ta điểm lại lịch sử được viết cẩn thận và công phu bằng cách khắc trên mấy phiến đá bên trên những kiến trúc và đền đài thần bí của một nền văn minh nhân sư chạy dọc theo con sông mà lâu nay vẫn được xem là cái nôi thứ hai của nhân loại ở phía nam một vùng biển mà tất cả các nền văn minh cổ đại từng được ghi nhận đều tọa lạc đâu đó quanh duyên hải của nó, người nêu lên chi tiết này đầu tiên có thể là tư tế của một vị thần nào đó, mà ông ta đã thực sự tồn tại trong dòng lịch sử chứ không chỉ được nhớ đến trong những trường ca của một thời hoàng kim như vị thần mà vị tư tế được xem là đại diện.

Nói đến đây, diễn giả rời mắt khỏi màn hình và quay đầu lại nhìn về phía máy chiếu ở chính giữa trần nhà, bỏ qua ánh mắt của hơn ngàn thính giả như hơn ngàn ngọn lửa hay bị lầm lẫn là tinh tú trên một bầu trời từng rất tối trong kỷ nguyên tối nhất của lịch sử. 

Diễn giả tiếp tục diễn thuyết và bỏ qua hàng ngàn ánh mắt đang nhìn mình, mà thật ra đang nhìn lên màn hình và xuyên cả qua đó như tìm về thượng nguồn của lịch sử cứ như lịch sử là một dòng sông có hai chiều, trong khi thực tế không ai rõ là có bao nhiêu chiều, và trên hết chỉ có một nhóm người đi đúng một chiều nhất định nào đó có thể trở về an toàn nơi vòm rừng và hang ổ của cộng đồng còn sót lại, nhóm này sẽ kể về những gì họ thấy hai bên dòng sông, trong khi diễn giả tiếp tục thao diễn về một thực tại song song mà trong đó những nền văn minh hàng chục ngàn năm trước đã từng tồn tại trong khi hiện nay không ai dám xác quyết điều đó, tất cả đều là những cơ tầng nằm bên dưới một lớp đất khác nào đó, một nhà khảo cổ đã khóc thét lên như thế, vì không thể nào chứng minh được gì từ các tầng tầng lớp lớp gạch đá vùi chôn nhiều kỷ nguyên của các nền văn minh chồng lấp, như hàng ngàn thính giả hôm nay đang chen chúc nhau và đôi khi ngồi chồng lên nhau trong một khán phòng có trần nhà cao, thoáng, và đồng thời rất ngột ngạt như một thung lũng giữa rừng được che giấu dưới ba tầng vòm lá rừng nhiệt đới, khoảng không gian rộng đến nỗi có thể dựng lán trại cho một trung đoàn những chiến binh chuyên hành quân trong những đêm mưa axit, giữa rừng rậm ba tầng vòm lá, vì thật ra mỗi chiến binh đều được ngụy trang rất kỹ và họ lúc nào cũng mang một lớp sơn trên mặt, tối và bí ẩn như sa mạc bên dưới một khoảng tối của lịch sử, đó chính là thời đại Tối, thời trung cổ của loài hai chân, và thời hậu cổ đại của những người không màng đến việc chinh phạt, các chiến binh đặc biệt ghét những kẻ này, vì lớp sơn trên mặt họ là tự nhiên chứ không phải tô vẽ lên, vì lý do đó mỗi chiến binh có nhu cầu được hành quân xuyên rừng giữa những đường mòn và dưới một cơn mưa có một số hợp chất hóa học càng lạ thì càng tốt, chỉ có như thế họ mới không bị phát hiện, và kẻ địch cho dù có dùng mức độ hỏa lực nào, với bất cứ công nghệ nào, hay có tính toán trước và vạch sẵn những vùng hỏa tập tiên liệu rộng như thế nào để pháo binh giã vào từ ba mươi cây số bên kia biên giới chăng nữa, thì những chiến binh vẫn an toàn giữa rừng như đang tồn tại trong một chiều không gian song song mà cả những triết gia cổ đại nhất vẫn chưa dám kết luận là tồn tại. 

Một thính giả giơ tay muốn phát biểu, trong khi diễn giả vẫn đang nói, giọng nói ông ngày càng hùng hồn hơn, trong khi ánh đèn máy chiếu dần dịu xuống và nếu ai quan sát kỹ có thể thấy đang đổi màu, giữa ánh sáng màu nhiệm ấy như ánh sáng loạn sắc trong một hang động siêu nhiên của giống loài đi hai chân hay dùng làm nơi hội họp và vẽ vời, những bàn tay của thính giả càng giơ lên nhiều hơn và dứt khoát hơn, ánh sáng đa sắc của căn phòng có thể gây ra ảo giác đó, là những bàn cánh tay đưa lên mạnh và chắc chắn như giọng nói của diễn giả khi đến đoạn cao trào của bài giảng, càng nhiều tay giơ lên, căn phòng càng huyền bí như một vòm rừng chứ không trông như một hang động nữa. 

Đã đến lúc diễn giả nên ngừng nói và dừng lại một chút để nhìn kỹ hơn về cái máy chiếu, chứ không phải đưa mắt xuống hàng ngàn thính giả, vì máy chiếu là vật duy nhất phát ra ánh sáng trong toàn bộ căn phòng, điểm đến của nó là màn hình phía sau lưng diễn giả, trong khi hàng ngàn cặp mắt đang nhìn lên diễn giả, thì không ai dám chắc họ có thực sự chú ý phía sau lưng ông ta hay không, trong khi những lời nói của diễn giả vẫn tuôn chảy như một dòng sông, và thế hiểm trở của dòng sông đó chính là giới hạn cầm tù những số phận của một quốc gia nào đó trong lịch sử, nếu có ai chịu truy nguyên về những vai trò địa lý của một dòng sông, hoặc dãy núi ngăn cách các giống người kém phát triển hơn đến với dòng sông đó, thì những kẻ truy tầm đó sẽ hiểu những kẻ mọi rợ đều bị dán nhãn bởi những kẻ bên kia dòng sông tự cho mình là nắm thẩm quyền của văn minh, trong khi thực tế cứ mỗi ba trăm hay năm trăm năm là thẩm quyền đó sẽ đổi chủ và chính những kẻ bị gọi là mọi rợ sẽ ngồi trên ngai vàng của đế chế thống trị dòng sông và cả dãy núi hơn ngàn năm trước, để rồi người mọi sẽ quên đi hết những luật lệ phong tục dã man của mình, mà học theo luật lệ của đế chế đã hoàn toàn sụp đổ, tuy vậy, những sự ra hiện đại có tổ tiên truy ra từ những tộc người mọi đã tung hoành và lật đổ đế chế khi trước sẽ tạo ra một lý thuyết mới để đề cao vai trò của làn sóng người mọi như chúng ta đã biết và đã được học trong tương quan sự hình thành một bản đồ mới của vùng đất được xem là cựu lục địa, diễn giả nói đến đây thì dừng lại. 

Không ai hỏi gì thêm vì tất cả đều có vẻ dần hiểu ra những gì diễn giả muốn ám chỉ về kết thúc của một nền văn minh khi người mọi đã hoàn toàn bị đế chế hóa và quên hoàn toàn những dãy núi mà họ xuất thân và cả những thượng nguồn sông giao nhau mà ở đó không hề có rừng và do đó không cần phải ngụy trang nữa.

Đêm nhạc trên cao nguyên

Một truyện ngắn trong tập “Khi trẻ người ta nghĩ khác” của Lê Khải Việt- NXB Nhã Nam 2023

Sáng nay, một điều lạ lùng xảy ra. Tôi phần nào bị chấn động và quên mất điểm hẹn. Tôi đến nhầm một quán cà phê khác, cùng chuỗi, nhưng là chi nhánh khác. Tân có lẽ đã chờ tôi rất lâu. 

Tất nhiên, nếu Tân chịu sử dụng điện thoại, chí ít là điện thoại “cục gạch”, như bất cứ người bình thường nào, chúng tôi đã có thể gặp nhau tại quán cà phê mà đúng ra tôi đã đến. Vì tôi sẽ gọi cho Tân và nói về quán cà phê mà tôi đang ngồi, mặc dù là cùng chuỗi, nhưng khác chi nhánh. Tân sẽ ngạc nhiên và im lặng, rồi quên cúp máy. Thật khó để biết phản ứng của Tân. Dù sao anh ta cũng chưa hề sử dụng điện thoại để tôi có thể gọi vào một tình huống tương tự. Nhưng nghĩ lại, đây không phải lần đầu tính cách lập dị của Tân đưa chúng tôi vào tình huống như thế. 

Nếu có thể quay ngược thời gian, tôi nghĩ, tôi sẽ không hẹn với Tân ở quán cà phê đó. Cũng có thể, tôi sẽ hẹn với một người khác. Vân chẳng hạn. Thực ra, nếu có thể quay ngược thời gian, có lẽ tôi sẽ phải cân nhắc rất nhiều thứ khác. Trong đó có mối quan hệ với Tân. 

Từ khi biết Tân, tôi luôn phải suy nghĩ. Những sự việc bình thường, tưởng như không có ý nghĩa gì rõ rệt, bất chợt trở nên ám ảnh. Vì thế, chúng dần trở nên đáng ghét. Vì tôi ghét cái cảm giác ám ảnh với những thứ mà bản thân chúng không xứng đáng khiến người ta ám ảnh. Tôi ghét chúng và dần trở nên ghét Tân. Nhưng đồng thời tôi thấy một chút ám ảnh với con người này. Bạn thấy đó, Tân luôn là kẻ khiến tôi mâu thuẫn. Anh ta là một biên tập viên. 

Tân muốn tôi hoàn thành một cuốn sách. 

Nhưng hãy để tôi quay lại với sáng hôm nay. Điều khiến tôi cảm thấy chấn động và kỳ lạ, đó là một cái hố nhỏ trên đường. Ở đoạn đường một chiều mà bạn vừa qua một ngã tư đông đúc, và chuẩn bị gặp Dinh ở bên tay phải đấy. Với một đoạn đường trống trải như thế, xe của bạn lúc đó sẽ gần đạt vận tốc năm mươi cây số trên một giờ. Và tất nhiên phía bên phải bạn luôn có một nhóm xe khác, đang bám sát. Phía bên trái và phía sau, luôn có một chiếc taxi bảy chỗ hoặc bán tải nào đó, đang rồ lên và trờ tới với tốc độ bàn thờ. Đúng cái lúc ấy, bạn vừa phải xem chừng cả bên phải lẫn bên trái, từ phía sau, thì bất chợt trước mặt hiện ra: một cái hố! 

Thật ra, nói một cái hố cũng hơi quá lời. Nhưng ít nhất có một chỗ lõm, ngay chính giữa con đường bằng phẳng. Từ xa bạn không thấy nó. Chỉ khi đến gần, đập vào mắt bạn là một nắp kim loại, nhô lên chính giữa chỗ lõm. Với vận tốc năm mươi cây số một giờ, một chiếc xe cà tàng, phụt nhún đã khô nhớt, thắng ăn mòn, và những rủi ro từ cả bên trái lẫn bên phải, từ phía sau, thì xe bạn sẽ né sang phải hay sang trái để tránh cái hố với nắp kim loại nhô lên? 

Trong tích tắc đó bạn phải lựa chọn. Và đó là bi kịch mà một người không hề thích ám ảnh vì bất cứ điều gì tầm thường như thế phải đối mặt, và phải trải qua. 

Nhưng cũng chính vì không thích bị ám ảnh, bạn không hề muốn nhớ đến nó. Và do đó, khi gặp nó lần sau, cái hố tiếp tục làm bạn phải bất ngờ, và phải lựa chọn, rồi trải qua bi kịch, lần nữa, lần nữa. 

Sáng hôm nay, cái hố, hay chỗ lõm đó, đã được ai đó lấp mất bằng một miếng nhựa đường đậm màu. Nó hoàn toàn tương phản với màu sắc chung quanh. Đó cũng chính là điều khiến tôi thấy lạ lùng và chấn động sáng hôm nay. Cái hố không còn nữa! 

Chính sự mất đi của cái hố làm tôi thấy căm ghét Tân hơn. 

Vân nghe tôi nói như thế vào ngày hôm sau. Em gật gù, tỏ vẻ thấu hiểu. Tôi nói tiếp về Tân. 

“Tân hay cho anh đọc những thứ như thế. Luôn có ai chìm đắm trong hồi tưởng về một quá khứ nào đó. Một sự vật quen thuộc mất đi. Quen thuộc đến nỗi không ai chú ý là sự vật đó tồn tại. Rồi đùng một phát, nó mất đi. Thay vào đó là một khoảng trống, hoặc một thứ mới hơn. Lúc đó người ta mới nhớ để suy nghĩ về nó. Cũng như cái hố của anh, nó đã thay đổi. Và tự dưng anh thấy nó ám ảnh. Anh bực bội. Mặc dù anh biết vài ngày sau anh sẽ quen với sự biến mất của nó. Nhưng em hiểu không? Việc quái gở này là do Tân. Tất cả bắt đầu từ hắn.” 

“Nếu cái hố ám ảnh anh đến thế, tại sao anh không viết xuống? Cho nó vào cuốn sách ngay.” 

“Tân sẽ không đồng ý đâu. Hắn sẽ cười vào mặt anh”. 

“Tại sao?” 

“Vì chi tiết này chưa đủ mạnh để đưa vào cuốn sách. Cái hố chỉ có vẻ bí ẩn và mâu thuẫn vì đầu óc anh làm cho nó như thế. Nhưng một biên tập viên như Tân, hẳn sẽ không thấy gì đặc biệt cả. Anh biết rõ hắn mà.” 

“Nếu vậy thì tạm quên đi. Mình đi chơi đi?” 

Nói là làm, chúng tôi là thế. Chính xác hơn, Vân là thế. 

Tôi và Vân đến quán cà phê. Quán cà phê ở thành phố khác. Khí trời cao nguyên mát mẻ, không khí trong lành, ít ra chúng tôi tự huyễn hoặc mình vậy. 

***

Vân ngồi cạnh tôi, nhìn về phía khoảng trống mờ ảo bên dưới. Một quán cà phê sườn đồi. Ngay cả Tân cũng sẽ đồng ý đó là một nơi lãng mạn. Nếu Tân ngồi đó, hắn sẽ đọc một bài thơ. Rồi tôi còn đang lục tìm trí nhớ để cố gắng đọc lên tên tác giả nhanh nhất có thể, thì Tân nói ra trước tôi. Rồi tôi nói gì đó biện hộ cho khả năng nhớ tên rất tệ của mình. Nhưng thật ra tôi vẫn luôn dùng sự biện hộ đó để che giấu đi việc tôi chẳng hiểu gì về bài thơ. Nếu Vân là Tân, Vân cũng sẽ nghĩ như thế, nhưng Vân dám nói ra. Còn Tân thì đúng lúc đó sẽ đợi khi tôi bắt đầu muốn biện hộ và che giấu, rồi hắn sẽ đột ngột nói ra một câu làm bạn chưng hửng: Bài thơ dở nhất mà tôi từng đọc trước phong cảnh mờ ảo lãng mạn này! 

Bạn nghĩ có lẽ tôi đã chịu đựng hết nổi Tân. Có thể điều đó đúng. Nhưng cho đến mãi gần đây, tôi mới hiểu ra khả năng chịu đựng Tân của tôi cao hơn tôi nghĩ nhiều. 

Tôi đã đến với Tân, hoặc Tân thình lình xuất hiện trong cuộc đời tôi như thế nào, tôi hoàn toàn không chắc chắn lắm. Dù sao, chúng tôi đều đến với nhau vì một mục đích chung: hoàn thành cuốn sách của tôi. Vì Tân là một biên tập viên, nhiệm vụ tối thượng của anh ta. Tôi chỉ biết như vậy. Không ai rõ tại sao chúng tôi cần phải viết cho xong cuốn sách. Ngay cả Vân. Cho dù Vân luôn đứng ngoài. Mà người ngoài đôi khi lại là người hiểu rõ mọi chuyện, với góc nhìn khách quan nhất. 

Cũng chính Vân là người nhắc lại cho tôi nhớ về cuốn sách. Chiều hôm đó, tại quán cà phê sườn đồi, Vân nhìn ra khung cảnh rộng lớn mờ ảo bên dưới và nói với tôi: 

“Nếu anh có thể viết để người đọc thấy thung lũng bên dưới là một cuốn sách, thì cuốn sách của anh sẽ thành công. Vì thung lũng mờ ảo, do đó rất bí ẩn. Bí ẩn khiến người ta sẽ đọc và đọc.” 

“Nhưng chúng ta vẫn chưa trả lời được câu hỏi: tại sao anh cần viết ra cuốn sách đó?” 

“Để trả lời, em sẽ phải hỏi anh một câu hỏi khác?” 

“Được thôi.” 

“Có bao giờ anh nghĩ cuốn sách là để lấp đầy một khoảng trống? Một khoảng trống sinh ra khi một thứ khác bị mất đi. Cũng như cái hố của anh hôm qua.”

“Chà, Tân sẽ…”

“Để em nói hết. Anh chưa hề để tâm đến sự hiện diện của thứ bị mất đi đó, cho đến khi nó dừng hiện hữu. Cũng như cái hố, anh tránh nó, rồi anh quên nó đi. Anh chỉ tương tác với cái thứ ấy bằng phản xạ, mà chẳng hề phải suy nghĩ về nó. Vì thế anh chẳng thể nhớ được gì. Nhưng vì nó đã chiếm một chỗ cố định, nên khi biến mất, khoảng trống để lại trở nên quá trống trải và dằn vặt đến nỗi anh có xu hướng phải lấp đầy nó ngay. Chính vì thế anh mới có thôi thúc phải viết cuốn sách cho bằng được.” 

“Chà, Tân sẽ nghĩ gì về giải thích này nhỉ? Cuốn sách để lấp đầy chỗ trống của cái gì đó… Chà.”

Lúc đó tôi nhớ khi Tân đang ngồi trong cái ghế bành quen thuộc. Tân đang thao thao bất tuyệt. Chung quanh anh là khung cảnh tối tăm, nội thất ẩm mốc, đôi khi căn phòng có chút sương khói nữa. Tân đang nói về những điều minh triết. Thính giả là những người đáng kính trong ngành nghề của họ.

Không nhiều người biết đến cuộc nói chuyện mà Tân tổ chức mỗi tháng ba lần này. Để được tham dự, thính giả phải trả lời được câu hỏi: Anh/ chị là ai, và có thể làm được gì, nếu là một con kiến (đang mùa nóng, nếu là mùa mưa có thể thay bằng con muỗi)? Tất nhiên, Tân sẽ đích thân đọc từng câu trả lời và chọn ra mười người trên tổng số ba mươi ứng viên nộp đơn.

Vẫn chưa bao giờ tham dự buổi nói chuyện kiểu này. Tôi đã gặp Tân lần đầu ở đó, vào chính hôm Tân nói tôi cần viết cuốn sách.

Diễn giả không phải là nghề chính của Tân. Chỉ là việc mà anh làm vì cảm thấy phải đóng góp cho cộng đồng. Có tiếng nói trong mơ khi Tân đang ngủ ở một tu viện Tây Tạng khiến anh biết mình phải diễn thuyết, và phải làm gì đó cho đời.

Ngay cả biên tập viên cũng không phải nghề của Tân. Đương nhiên không thể sống bằng nghề này. Tôi chưa bao giờ hỏi Tân nghề nghiệp chính của anh là gì.

Cho đến tận hôm nay, tôi vẫn chưa rõ tôi đã đến với Tân, hay Tân đã đến với tôi. Nhưng cả hai chúng tôi đều biết cuốn sách phải được hoàn thành. Không ai giải thích gì thêm. Vì cuốn sách cũng như những điều minh triết mà Tân nói khi diễn thuyết, đều không có nguyên do, cũng không có ý nghĩa gì. Tất cả đều là hư vô, do đó không cần giải thích.

Tôi vẫn tin mọi chuyện đều không cần giải thích như thế. Do đó, khi nghe Vân nói về cuốn sách với góc nhìn cái hố, tôi như bị chấn động, như khi tôi bị chấn động vì cái hố bị lấp mất. Nhưng đúng lúc đó, nếu tôi có thời gian suy nghĩ cặn kẽ về mọi thứ, tôi sẽ thấy từ đầu đến cuối tôi luôn tự lừa dối chính mình.

Tôi tự lừa mình rằng đã hiểu những điều Tân nói. Vì thế, khi tôi bỗng dưng thấy mình phải suy nghĩ và nhận định lại về mọi thứ mà tôi biết, khiến ngay cả những thứ nhỏ nhất cũng trở nên ám ảnh (như tôi đã nói ở trên), thì tôi mới hiểu tôi đã chẳng hiểu gì và tôi luôn tự thuyết phục mình rằng tôi hiểu những gì Tân nói. Điều này càng làm tôi thấy Tân lớn lao và vĩ đại hơn tôi nghĩ. Có lẽ Vân sẽ không thể thông cảm cho tôi khi tôi nói rõ về khám phá mới này.

Nhưng thực tế là, tôi càng nói về Tân, Vân càng thấy chán. 

Cuối cùng, chúng tôi đứng lên. Vân muốn tôi đến một nơi khác. 

***

Trời tối mịt. Những trời đêm cao nguyên như công chúa băng tuyết, vừa lạnh lẽo nhưng cũng vừa bí ẩn ngọt ngào. 

Bên cạnh tôi, Vân đang ngồi, lưng chảy ra trên ghế. Chung quanh, càng lúc càng đông người. Ca sĩ đang hát gì đó trên sân khấu lộ thiên. Phía sau cô ta là bầu trời cao nguyên không trăng sao. 

Lúc đó tiếng ồn của nhạc và con người vẫn không lấp đầy được sự trống rỗng bên trong tôi. Cứ như cái hố trong lòng chưa được ai để mắt, trét lên một lớp nhựa đường. 

Tôi nghĩ Tân sẽ không tha thứ, nếu biết tôi đang suy nghĩ gì. Tôi nhận ra tất cả đều là mộng mị. Tất cả đều là ảo tưởng. 

Đêm càng về khuya, người càng đông. 

Đêm nhạc ngoài trời phục vụ đồ uống có cồn. Vân uống đến ly thứ năm. Tôi cũng uống, nhưng không nhớ rõ là loại rượu gì. 

“Quên Tân và cuốn sách đi. Mình nhảy!” 

Vân nói và kéo tôi đứng lên. Chúng tôi nhảy như điên. Tôi ái ngại. Không hiểu sao tôi sợ Tân đang quan sát tôi từ bên dưới. Cứ như hắn gắn định vị trong người tôi từ khi nào, và vừa tìm cách lẻn lên cao nguyên vào buổi chiều để tìm tôi. Giờ đây, lẩn trong đám đông và những người trẻ, Tân đang theo dõi tôi từ xa, trong một góc tối ẩm ướt. 

Khoảng trống trong tôi như có răng và đang gặm ngược ra bên ngoài. 

Vân va vào vai một người nào đó. Nhìn lên, tôi nhận ra có nhiều người khác cũng đang nhảy điên cuồng, chung quanh chúng tôi. Ca sĩ vẫn chưa ngừng hát. 

Đến lượt tôi va mạnh vào người khác. Một thanh niên. Nhưng đúng lúc ấy tôi có cảm giác anh ta chính là Tân. Tân đã đứng dậy và tiến gần đến tôi từ lúc nào. Anh ta đang nhảy như tôi. Còn Vân thì vẫn tiếp tục kéo tay tôi nhảy bất cần, như muốn ném tôi vào đám đông. Có lẽ em nghĩ đám đông là một chỗ lõm, một cái hố. Ném tôi vào đó: chỉ có như vậy mới khiến tôi nhận ra mình đang ở đâu, và chung quanh là gì. 

Tôi biết tất cả những hỗn loạn và quay cuồng chung quanh lúc đó có ý nghĩa gì. Đúng lúc đó, tự dưng tôi thấy mọi việc sáng tỏ. Cứ như Tân đang ngồi cạnh bên khai sáng cho tôi. Hoặc Tân chính là Vân, người đang cầm tay tôi lôi vào vòng xoáy trước mặt.

Đó là cuốn sách mà tôi sẽ viết xuống? 

Có lẽ Vân nghĩ đưa tôi đến đây sẽ khiến tôi phải đối mặt với khoảng trống đó, cái hố đó, một lần và duy nhất. 

Tôi cần viết cuốn sách hay phải tìm ra một cách khác để lấp vào khoảng trống, tất cả sẽ được quyết định ở đây, vào đêm nay. 

Tiếng nhạc chát chúa. Hơi nóng hầm hập từ đám đông. Tất cả khiến đêm lạnh cao nguyên như đang đè lên tôi một áp lực khủng khiếp. Cái áp lực mà Tân đã ươm vào tôi, khiến tôi mãi mãi chịu sự lạnh lẽo từ bên trong, và khiến tôi bị gặm nhấm mỗi ngày. 

Cái gì đến cũng sẽ đến. Vân bị tông mạnh từ phía sau. Một gương mặt nữ nhân, làn da trắng nhá nhem bóng tối và mồ hôi. 

Tuy tông trúng Vân, cô gái lại bị té ngã. 

  • “Điên à?” 

Giọng hằn học của gã thanh niên cạnh bên. Có vẻ hắn là bạn trai của cô gái vừa tông vào Vân. Hắn mở miệng la lối thêm gì đó. 

Đương nhiên là Vân không nghe thấy gì. Tiếng nhạc vẫn rất ồn. 

Lạ lùng thay, đó chính là thanh niên mà tôi nghi ngờ là Tân. Tôi muốn nhìn kỹ mặt hắn. Nhưng đám đông hỗn loạn và ánh đèn chớp quét qua lại khiến mắt tôi không tập trung được. 

Nếu hắn là Tân, tôi sẽ hét trả vào mặt hắn ngay. Nhưng tôi phải xác định chắc chắn liệu đó có phải là Tân hay không. 

Nhìn gương mặt của kẻ đang lớn tiếng, chừng như muốn ăn tươi nuốt sống Vân đó, bỗng dưng tôi thấy Tân đang đứng diễn thuyết. Dịp duy nhất Tân đứng nói. Số là buổi nói chuyện hôm đó không thể diễn ra vì căn phòng ẩm thấp và đầy sương khói vừa bị dột nặng sau cơn mưa. Tân nảy ra ý tưởng nói chuyện bên ngoài. Và thế là giữa trời đêm, trên sân thượng căn nhà phố mà Tân thuê, chúng tôi quây chung quanh để nghe Tân nói. 

Nhưng buổi nói chuyện minh triết nhanh chóng trở thành buổi hài độc thoại. Tân nói và diễn xuất thần như một kẻ sắp đánh chết ai đó. Tân vừa nói vừa quơ chân tay như vượn người tiền sử. Giống như gã thanh niên đêm nay. 

Tân vừa hài hước, vừa bạo lực, vừa mỉa mai. Những câu đùa gây cười càng ngày càng ngắn và gãy gọn hơn. Thính giả cười ngặt nghẽo. Còn Tân thì khóc, khi buổi diễn kết thúc. 

Chính lúc đó, tôi đã khóc cùng với Tân. Đã nhiều năm tôi không khóc. Nhưng Tân làm tôi không cưỡng nổi. Có gì đó trong động tác và sự mỉa mai của tràng hài độc thoại khiến tôi cảm thấy rạn vỡ. 

Có lẽ tâm hồn tôi bắt đầu nứt gãy từ đó. Giây phút làm tiền đề cho sự đổ vỡ hoàn toàn trong tôi về sau, rồi dẫn đến sự trống rỗng khủng khiếp ngày hôm nay. 

Càng nhớ lại, tôi càng thấy tức giận. 

Vì chính lúc thấy tôi khóc theo đó, chính lúc đó, Tân đã ngạc nhiên và tiến lại, trao cho tôi cây bút và tập giấy trắng. 

“Hãy viết xuống cuốn sách của anh!” 

***

Lúc đó Vân vẫn tiếp nhục tục nhảy. Còn gã kia vẫn tiếp tục la lối. Gương mặt gã càng méo mó mơ hồ hơn. 

Đêm đã khuya. Đám đông vẫn quay cuồng đến mức điên loạn. Nếu có ai chú ý, người ta sẽ ngạc nhiên khi thấy ca sĩ vẫn hát, như thể chung quanh chẳng còn con người. 

Gã thanh niên không ngừng la hét. Âm thanh phát ra từ hắn như rơi hết vào khoảng không giữa tôi. Hay nói cách khác, hắn đang hét vào một cái hố. 

Có khác chăng, lúc này hắn không hết vào mặt Vân nữa. Gã thanh niên đang hét vào mặt bạn gái hắn. Cô gái vừa bị té lúc nãy đang cãi nhau với chính bạn trai cô ta. 

Rồi cả Vân và tôi đều bất ngờ khi thấy gã thanh niên xô ngã cô gái. Chưa ai kịp phản ứng, hắn đã quay sang tiếp tục hết vào mặt Vân:

“Không ai được xô ngã bạn gái tao trừ tao!” 

Bỗng nhiên chúng tôi nghe được câu nói đó, trong một tràng âm thanh bị lẫn lộn và chìm đắm trong tiếng nhạc. 

Tôi như nghe Tân hét lên với tôi, rằng không ai được viết cuốn sách của tôi trừ tôi. Giọng Tân không khác mấy với giọng gã thanh niên đêm nay. Khó cưỡng lại được. Tôi thấy mình tuân lệnh và bất chợt đưa tay vào túi như sắp rút ra cây bút và tâp giấy trắng. 

Đúng lúc đó, Vân ra tay. 

Vẫn là thế, luôn là gì đó kéo tôi lại để không rơi hẳn vào Tân. 

Cái tát của Vân nhanh đến nỗi xé tan đêm tối. Gã thanh niên đang sừng sộ bị tát mạnh vào má phải. 

Hắn ngừng nói, sững sờ. Bây giờ tôi mới thấy rõ mặt hắn hơn. Gương mặt mà Tân có thể mang. Tân là một người hoàn toàn có thể mang gương mặt vừa ngấn thịt, vừa đầy cảm xúc, vừa trống rỗng như chưa hề chứa một điều gì đáng để ám ảnh người khác đến thế. 

Khi gã thanh niên vừa mở miệng, sừng cổ lại, thì Vân vung cánh tay còn lại. 

Chát! 

Má bên trái của gã thanh niên bị trúng cái tát thứ hai. Trời đêm cao nguyên lại bừng sáng những vì sao đêm. 

Lạ lùng là một kẻ như hắn lại không biết phản ứng gì tiếp theo. Hắn ngây người ra. Bỗng dưng hắn biến thành kẻ vụng về lóng ngóng như Tân. 

Tôi ngạc nhiên khi thấy cô bạn gái hắn đang nằm dưới đất đã nhổm dậy từ khi nào, và sấn lại xô Vân. 

“Không ai được đánh bạn trai tao trừ tao!” 

Cô bạn gái hét lên như thế. Ít ra là trong trí tưởng tượng của tôi. Vì tiếng nhạc quá ồn.

Gã ngăn cô ta lại, rồi đẩy cô ta mạnh về phía sau. Hắn không muốn bạn gái bênh vực mình. 

“Bình tĩnh, Vân!” 

Tôi cố níu Vân, kéo lùi ra sau. Gã thanh niên cũng đang giằng co với cô bạn gái. Không phòng bị gì.

Trước sự ngạc nhiên đến sững sờ của tôi, Vân ra tay nhanh và chính xác, đấm trúng sống mũi của hắn. 

Tiếng gãy khô khốc vang lên như tiếng Tân nấc nghẹn trong đêm sân thượng hôm đó.

Gã ngã ngửa. Thân hình to lớn đổ phịch vào giữa đám cỏ thấp. Màu trắng áo thun phản chiếu ánh đèn đêm nhạc khiến thân hình đang nằm ngửa sáng lóa lên. Hai tay hắn dang rộng y hệt một cuốn sách đang mở. Trang sách trống trải như một hố trắng vũ trụ, nếu khoa học có khái niệm đó. 

Hắn nằm đó như muốn hút lấy tôi vào, như Tân luôn cuốn hút tôi không cưỡng lại được. 

Chung quanh, đám đông vẫn nhảy nhót hỗn loạn. 

Vân hét lên: 

“Đây là cơ hội! Anh viết xuống ngay đi.” 

Vân ra hiệu bằng những cử động dứt khoát, về phía người đang nằm ngửa dưới đất. Trang giấy trắng mời gọi. Còn bút của tôi đâu? Tôi hiểu mình phải làm gì. Bây giờ hoặc không bao giờ. 

Tôi đè lên người gã, hai đầu gối ấn lên hai khuỷu tay gã. 

Tuy vậy, cơ thể gã to lớn dềnh dàng hơn tôi nghĩ. Cơ bắp hắn co duỗi dưới thân người tôi. 

Cứ như cuốn sách đang giãy lên phản kháng khi sắp bị viết vào. 

Nhưng tôi không thể dừng lại nữa. Hai tay tôi lần lượt đấm xuống những quả nặng nề. Cứ như tôi đang viết xuống cuốn sách bằng cả hai tay. Tôi bỗng dưng trở thành một nhà thơ. Chỉ có như vậy người ta mới hiểu được sự phi lý của cuốn sách. Vì khi cuốn sách mở ra và đến giờ được viết, tác giả phải dùng cả hai tay theo cách đó. Một biên tập viên như Tân sẽ hoàn toàn hài lòng. 

Tôi đấm như điên dại. 

Gương mặt của gã thanh niên gồ ghề, ngấn thịt, như xương mặt hắn cứng hơn tôi nghĩ. Có lẽ vì thế tôi mau chóng thấy hai tay tê dại. Nhưng càng đấm xuống, khoảng trống bên trong tôi càng được lấp đầy. Và chính lúc đó, khoảng trống trước mặt, cũng chính là trang giấy trống trải của cuốn sách, dần dần được điền vào bởi những thứ mà định mệnh đã khiến tôi phải viết xuống. 

Màu áo trắng của gã thanh niên giờ đây đã nhuốm đỏ. Càng ngày càng đỏ hơn. 

Tôi tưởng tượng gã thanh niên như cái hố đang bị lấp vào lớp nhựa đường. Cái hố, hay khoảng trống, do đó không còn tác dụng ám ảnh gì nữa. 

Tôi thấy nhiệm vụ gần như hoàn tất. Gã thanh niên nằm bất động. Tôi đứng lên. 

Cô bạn gái đang nửa nằm nửa ngồi bên cạnh. Cô ta như chết lặng, hoặc bị xâm chiếm bởi một ám ảnh riêng tư nào đó, cứ như đến bây giờ cô ta mới ngộ ra ý nghĩa của một thân xác nằm ngửa thực sự là gì. 

Trông cảnh nhá nhem, tôi cũng đứng im, không có phản ứng gì rõ rệt. Tiếng nhạc vẫn dội từng đợt âm trầm như muốn lay động cơ thể tôi, khiến tôi tỉnh lại, và thúc tôi chạy thoát ra khỏi cảnh huống đó. Nhưng từng đợt bass chỉ khiến tôi thấy cơ thể bất động của gã thanh niên như bị ai đó đá bồi từng cú ác nghiệt. Thớ thịt mỡ trên bụng hắn lắc lư từng hồi. Còn vệt màu đỏ thấm đẫm trên áo hắn như mặt hồ gợn nhẹ sóng khi không gian đang rung lên theo tiếng bass.

Tôi chợt nhận ra mình đang chấn động là vì điều gì. Tôi hết hồn vì biết tôi vừa đấm gã thanh niên như thể đang đấm Tân. Theo cách nào đó, gã chính là Tân. Nghĩ lại, tôi chẳng có lý do gì để bộc phát bạo lực đến thế. tôi chỉ thấy cần làm thế. Sự trống rỗng trong tôi yêu cầu cần được đổ đầy. 

Mồ hôi lạnh toát ra khi tôi nhớ lại. Lúc quả đấm đầu tiên lún sâu vào lớp thịt ngấn trên mặt hắn, tôi đã biết đó là gương mặt của Tân. Cho dù mặt Tân ốm hơn và sẽ không phát ra âm thanh phọt phẹt như thể đang đấm mạnh vào tấm mền. Tôi tự trấn an đầy dối trá rằng tôi không hề là người bạo lực như thế, cho dù đôi khi tôi căm ghét Tân thực sự. 

Nhưng tôi biết, Tân sẽ không thấy phiền vì điều này. Tôi đã nghe Tân nói quá nhiều điều minh triết để hiểu về bất cứ hệ lụy nào của hành vi. Tân là thế, lập dị nhưng vị tha. Anh ta vẫn luôn khiến tôi nhìn ra hai mặt mâu thuẫn của một vấn đề. 

“Cuốn sách của anh đã hoàn tất!” 

Vân vỗ vai tôi. Em kéo tôi trở lại thực tại. Chúng tôi rời đi. 

Tôi vẫn chưa kịp để ý liệu ca sĩ vẫn còn hát hay không. Nhưng chắc chắn đám đông vẫn không ngừng nhảy nhót và tiếp tục sống như những nhà thơ. Nếu Tân có bao giờ nói như thế, mà tôi chắc chắn là một câu nói của Tân, thì Tân cũng không cười khi nói ra. Vì gương mặt Tân giờ đây đã biến dạng, chìm giữa đám cỏ. Dù sao, tôi chắc chắn đám đông vẫn nhảy điên loạn vì tôi và Vân phải khó khăn lắm mới chen được ra bên ngoài. 

Lúc đó tôi mới để ý khóe miệng Vân rướm máu. Mãi về sau tôi mới biết Vân đã cố gắng giữ cô bạn gái lại để tôi rảnh tay nện gã. Khi xô xát, Vân bị cô này đánh trúng miệng. Nhưng cũng như cô gái đó, Vân chỉ nhận ra ý nghĩa của một sự vật khi nó mất đi. Vì Vân đã mất một cái răng cửa. Còn cô gái kia có lẽ đã mất đi một phần tuổi trẻ của mình trong đêm nhạc đó. 

Nhưng nếu Tân được phép có ý kiến, anh ta sẽ nhổm dậy từ bãi cỏ và nói hyên thuyên gì đó về tuổi trẻ của cô gái. Nếu còn sức hẳn Tân sẽ diễn một tràng hài độc thoại nữa. 

Tôi thấy nhẹ nhõm khi hiểu ra một việc. Tôi đã mãi mãi để lại Tân giữa bãi cỏ, nơi quán tổ chức đêm nhạc cao nguyên. Tân nằm bất động, giữa rừng chân đang loạn nhịp. Đám đông hỗn loạn là thế, nhưng sẽ không ai đạp lên thân thể to lớn dềnh dàng của anh ta. Cũng như khi tôi tránh cái hố giữa đường, đám đông hôm đó tránh cái xác Tân, hay gã thanh niên, như tránh một cái hố có nắp kim loại. Hoàn toàn là phản xạ tự nhiên. Và sau đó, tất cả đều quên đi cái hố, như thể nó chưa từng tồn tại trong quãng đời tuổi trẻ của bất cứ ai. 

Chỉ có những kẻ kém may mắn mới phải luôn nhớ đến những thứ như thế. Như Vân. Em luôn nhắc lại để tôi nhớ về cuốn sách mà tôi đã viết ra vào tối hôm đó. Có lẽ Vân hiểu khi đã viết xong cuốn sách, tôi đã lấp đầy khoảng trống bên trong, và sẽ không bao giờ nhớ đến sự hiện hữu của Tân nữa. Cuốn sách lấp đầy những trang giấy với loại mực đỏ nhem nhuốc trên nền vải thun trắng. Nhưng tôi không thể nhớ nổi một chữ nào trên đó. Vì thế, khi tôi và Vân lang thang từ hết thành phố này sang thành phố khác, tôi chỉ thỉnh thoảng hồi tưởng khi được nhắc lại. Tân bây giờ là ám ảnh của người khác. Hoặc có thể là ám ảnh của chính Vân, như một sự thừa hưởng. Dù sao, với tôi, cả Tân và cuốn sách chưa được biên tập cứ như những câu chuyện vớ vẩn để lấp đầy khoảng trống yên lặng của một buổi chiều tịch mịch lặng gió ở quán cà phê u hoài trên miền cao nguyên nào đó.

biên sử nước-chương 7

tiếng khóc từ trời 

Mấy ngày đó, kể cả không bị tiếng khóc của đứa nhỏ giày vò thì bọn tôi cũng đã thảm lắm rồi. Bốn thằng đói. Ngồi đói, nằm đói, thở đói. Giữa những cơn đói là nỗi ân hận không nguôi, ước gì bữa trước đừng trốn trại.

“Trong đó ít ra cũng có miếng ăn”, một thằng nói, tôi không biết cái giọng thều thào kia là của đứa nào. Căn nhà tối, có mỗi cái cửa thì nằm phía đường cái và tụi tôi đâu thể mở toang nó để khoe khoang rằng có một đám tù trốn trại đang ở đây. Lột bỏ bộ đồ sọc dưa vùi dưới đáy mương rồi, không có nghĩa là mấy thằng tôi nhởn nhơ ra dưới mặt trời, nhất là với bộ quần áo đàn bà mà thằng Năm Năm Một mặc trên người trộm được từ sào phơi nhà nào đó. Trời, bà cố tổ cái thằng, ăn hại tới cùng mới chịu. 

Cũng vì nó mà bọn tôi bỏ chạy. Lúc đó phân đội chuyển bãi keo lai lên xe đã gần tới đáy và mặt trời sắp rụng xuống phía rừng tràm, hứa hẹn một khoảng thời gian cuối ngày huy hoàng với cuộc gột rửa sình bùn dưới vòi nước mát, bữa cơm chiều, buổi coi truyền hình ở sân chung, giấc ngủ sâu bỏ rơi một cái thây rã rời. Nhưng thằng Năm Năm Một đã làm mọi thứ loạn xà ngầu khi đột nhiên lao đi không một chút ngập ngừng, nước văng sáng lóa trên mỗi bước chân nó. Và tụi còn lại không biết trong cơn mê sảng nào mà cũng tán loạn như một tổ bướm bị động kinh. Không ngoái lại, tụi tôi chạy điên dại càn qua những đám sậy bìa rừng, lội qua con kinh nước đỏ như máu, trườn lên đám rau muống đang cố cản đường, cho tới khi không còn nghe tiếng còi quản trại. Khó mà nhớ nổi tôi đã băng qua bao nhiêu vạt rừng bao nhiêu con mương bao nhiêu đồng sậy, trong lúc ngồi thở với cái buồng phổi cạn hơi, và đôi chân rã rời. Nghe mùi máu lẫn trong bùn sình, nghĩ người mình chắc bị cỏ cây cắt nát. Đếm lại chỉ còn bốn đứa, tụi kia chạy đường khác, hoặc đã bị bắt. Và tôi chỉ muốn chết mẹ cho rồi khi thằng Năm Năm Một thều thào nói nó chỉ đuổi theo một con chim thằng chài. Một con chim xanh biếc, xanh đến nỗi nó tưởng là không thật, nó muốn xác nhận xem mình có bị ảo ảnh không. “Nhưng sao tụi mày lại chạy theo?”, nó hỏi. Năm Năm Một đâu biết nó còn giữ được cái mạng là nhờ tụi tôi còn không thể nhấc nổi tay, dù máu đang sôi réo. 

“Tao đuổi theo kêu mày đừng có chạy”, thằng Hiến lên tiếng, giọng mếu đi. Nó kịp nhận ra ngay- bộ óc gian xảo ấy tinh nhảy vô cùng- rằng dù với lý do gì thì giờ quay lại, quản trại cũng không tin. Tới tụi tôi còn không tin nổi cái thằng lòng mắt cá chết này. Buổi lao động nào nó cũng chọn được chỗ dưới bóng mát, đẩy đất thì xe nó nhẹ nhất, còn vác cây thì cây trên vai nó luôn nhỏ hơn cây của tụi tôi. Tính nó đâu phải kiểu xả thân vì ai đó. 

Khó mà tin thằng Hiến, bởi chính nó, không ai khác, đã xốc bọn tôi dậy trước khi trời sáng. Nó nói giờ phải tìm quần áo thay cho mấy bộ đồ sọc dưa, sau đó kiếm một chỗ trốn thật an toàn. Một chỗ mà ban quản trại không ngờ tới, nên bọn tôi đã chui vào căn nhà hoang ngay bên con đường ra thị trấn. Còi xe cảnh sát lùng bắt tụi tôi chốc lát lại réo lên, đến không thể đếm nổi có bao nhiêu lượt ngang qua. Trong nhà chất đầy nhựa đường hoặc hắc ín- chúng đen y sì nhau- đựng trong mấy cái phuy rỗng hoặc còn một nửa, đã đông cứng, có thể đoán đây là nơi đội công nhân ở khi phóng con lộ xuyên rừng. Họ đã rời đi, để lại căn nhà nồng nặc mùi dầu hắc đến bưng cả phổi nhưng thằng Hiến nói cũng may, “Bầy chó có thể cũng không đánh hơi nổi mùi tụi mình”. 

Nhưng nhựa đường thì không ăn được. Tụi tôi đói xanh mặt. Ngoài mấy cái chảo méo cháy đáy, trong nhà chẳng kiếm ra miếng ăn. Một gói mì tôm bị chuột cắn mất góc không đủ tráng mỏng bụng của bốn thằng, vài chai bia khui nắp từ đời thuở nào lên meo mốc. Tôi tìm thấy một chút mật ong trong lon sữa bò, nhưng đâu thể giữ cho riêng mình. Phía sau nhà cận mé kinh, chỗ tụi tôi cạy vách lòn vô, có một cây chuối buông buồng nhưng chúng còn xanh lắm, nhựa chuối mà bó miệng thì đến ngáp còn không thể, đừng nói nuốt trôi. 

Đồ ăn ở ngay bên sườn bọn tôi nhưng xa tận chân trời. Có thể ngửi được bếp của xưởng gỗ gần ngay cạnh nồng nực mùi tỏi cháy. Bọn tôi cũng nghe được bên đó họ tán chuyện đám tù trốn trại mỗi lần xe cảnh sát vút qua. 

“Dù vậy tụi mình được tự do”, thằng Năm Năm Một, sau khi nhận thấy mình đã gây ra chuyện động trời gì, đã tìm cách dỗ dành đồng bạn. Những lời kiểu như vậy chỉ làm tụi tôi điên hết người. Tự do con mẹ nó, cả đám đang bị mùi nhựa đường và bóng tối và cơn đói xiết chặt vòng vây. Thằng Hiến than không nghĩ được thứ chi với cái bụng rỗng. Tụi tôi đã đâm đầu vào một cuộc trốn chạy mà chẳng có chút kế hoạch nào. Giờ mà ra ngoài kiếm ăn, có tránh được mắt người thì mùi của bọn tôi cũng sẽ dẫn bầy chó săn tới. 

“Tao không muốn vô Hầm”, thằng Ba Sáu Bốn rên lên. Cái thằng nói ít tới mức tôi từng ngờ là nó bị mất lưỡi. Sự không nói khiến nó kín bưng như đá tảng, đến mồ hôi cũng không rịn qua làn da đen cháy dù lao động dưới nắng trưa. Nó mà bật ra thành lời chắc là đang rối lắm. 

Chẳng ai muốn đưa thân vào nơi chốn đáng sợ ấy. Nhưng những kẻ trốn chạy bị bắt lại, phải chịu phạt nhốt Hầm bảy ngày đêm. Khi ra khỏi đó, anh ta sẽ ngủ ngồi suốt phần đời còn lại, và cất những tiếng tru dài, chảy nước dãi vào những đêm trăng. Anh ta ăn ít lại, làm lụng gấp đôi mọi người, chong mãi nụ cười dài dại trên môi và mắt đỏ đến lòng đen cũng đỏ. 

Tôi từng chịu phạt một đêm ở đó. Không thể tả được có gì trong Hầm, bởi sáng sau, tôi không còn ký ức. Tên tuổi, quê xứ, sao phải vào trại, tôi quên hết thảy, đến cả tên mình cũng không nhớ mảy may. Tôi đơn giản chỉ là thằng Hai Tám Không trên răng dưới móng. Chuyện đó làm tôi tan nát, nhất là những ngày đội nắng lửa đi khai thác gỗ, gánh cát đắp sân bóng, tôi không biết mình đang phải trả giá cho tội lỗi gì, và nên sám hối cho thứ chi. 

Trong bốn đứa tôi, chỉ thằng Hiến chưa phải qua đêm ở Hầm. Nó quá ma lanh để mắc lỗi. Tôi ngờ bộ não nó còn linh lợi, bởi còn ký ức. Thứ đó khiến con người ra con người. Ít nhất thì nó biết miền rừng này luôn được bao bọc bởi những con sông, và nếu tụi tôi có thể tới sông, sẽ nhiều cơ hội thoát. Tụi tôi có thể bám dưới lườn ghe hàng bông, dùng ống nhựa để thở khi lặn xuống lúc ngang qua trạm kiểm soát. Tụi tôi có thể núp dưới những giề lục bình trôi. 

“Vụ đó tao coi trong phim, hồi nhỏ”, thằng Hiến nói. Giọng nó không có ý khoe khoang, nhưng khiến mấy đứa còn lại chạnh lòng. Có thể bọn tôi đã coi hàng trăm bộ phim, biết hàng chục cách để khỏi bị bắt, bởi vì mọi thứ đã bị xóa trắng, nên chẳng khác mấy đống thịt thiu. Giờ thằng Hiến là bộ não của cả bọn. Nó nói phải nằm đợi thêm, bao giờ cuộc vây ráp bớt căng thì bọn tôi có thể quét dầu hắc lên người ra ngoài kiếm miếng ăn, và tìm đường ra sông lớn. 

Cái gọi là kế hoạch thật nghèo nàn. Nhưng rồi nó cũng nát bét khi tiếng khóc của đứa trẻ đã mở toang cánh cửa thiếc trước nhà. Một chị đàn bà hiện ra, ánh sáng viền quanh người chị, và cái gói ngo ngoe chị bồng trên tay thì ré lên như còi quản trại. Bọn tôi đã bị đứa nhỏ bắt gọn. 

Tôi nhớ khi ấy chị đã bỏ đi khi thấy bọn tôi đang chới với lặn trốn ánh sáng bất ngờ, nhưng chị quay lại với khúc cây trên tay trái, khi thằng Năm Năm Một còn chưa kịp khép cửa. 

“Voi hay chó sói?”, chị ta hỏi. Một câu hỏi khiến người ta bối rối. Từ mất ký ức, mỗi khi lao động ngoài trời, tôi chọn chỗ gần một lão tù già kể chuyện thần sầu, mong lấy mớ chuyện trên trời dưới biển kia lấp vào bộ nhớ trống không. Ông già có một kho từ ngữ hay ho, tôi nhai nuốt bằng hết. Tôi không bỏ sót buổi coi truyền hình nào ở phòng sinh hoạt chung, với hy vọng tìm thấy thứ gì đó thắp lại gian đầu tăm tối. Và tôi đủ tự tin để nói rằng mình không phải chó sói hay voi. 

“Chuột. Tụi tôi là chuột”, thằng Hiến lên tiếng đằng sau phuy nhựa. Không nhận ra nó lẩn vào đó khi nào. “Sao không nhận là voi cho chị ta ớn chơi?”, Năm Năm Một thì thào.

“Rồi bà khùng này đi khắp chợ kêu có bốn con voi đang trốn ở đây”, Hiến nghiến răng. Giây phút đó, tôi ghen với bộ não tinh vi của nó. Trong tôi chỉ thuần một ý nghĩ mình không phải voi, bởi voi thì không bao giờ quên gì trong cuộc đời chúng. Nhìn một lần, là nhớ đến chết thôi. Tivi nói vậy. 

“Chuột ăn thịt con tao?”, vẫn tay vẫn lăm lăm khúc củi, chị ta hỏi mà vẫn không phun đuôi tóc trong miệng ra. 

“Làm gì có. Chuột chỉ ăn gạo”. 

Tới đây, chắc bạn cho là tôi xạo. Bốn thằng tù nhân sức vóc sao phải sợ một chị đàn bà đã loạn trí còn phải mang đứa nhỏ trên tay? Cả hai má con họ cộng lại, không bằng nửa người. Bọn tôi có thể thủ tiêu má con họ gọn như phủi bụi. Nhưng đó là khi bọn tôi không mất sức chạy hàng mấy chục cây số trong rừng, bụng không trống rỗng từ đêm trước. Thú tính trong bọn tôi bị bỏ đói nhũn ra và lúc đó chị Khùng bước tới, rải nắm gạo trước mặt thằng Hiến. Ngay lập tức, bọn tôi nhìn thấy cơ hội sống còn. 

“Chuột cũng thích mì tôm”, con chuột tinh ranh nhất ngượng ngùng nói. 

Chị Khùng không có mì tôm, chị quăng cho tụi tôi ổ bánh mì xé nhỏ. Chị nghĩ chuột thì không có khả năng ăn miếng lớn hơn. Không sao hết, ít nhất thì ruột tôi bớt réo xôi. Hoặc chúng vẫn réo đó thôi, nhưng bị át đi bởi tiếng khóc của đứa con chị Khùng. Lúc đó, tôi nghĩ nó chỉ làm trò khóc lóc giây lát. Nhưng rồi khi thấy nó bú mà vẫn không ngừng rên rỉ, tôi ngờ đứa trẻ này không bao giờ nín. 

Phải tới ngày hôm sau thì tôi mới nhận ra mình đang ở trong cuộc tra tấn. Đứa nhỏ khóc không ngơi một giây phút nào. Bọn tôi bị mài mòn, ruột teo lại mỗi lần nó vào cơn khóc ngất. Bạn biết khóc ngất là sao rồi đó, quãng lặng giữa hai tiếng khóc khiến ta tưởng nó đã chịu nín, hoặc đứa bé chết ngắc rồi. Đó là khoảnh khắc của lửa thiêu, vậy mà nó cứ lặp đi lặp lại, khiến tôi cảm thấy mình như một nắm tro. Chỉ chị Khùng là tỉnh trân, hoặc chị cũng rối lòng nhưng không thể làm gì ngoài cắn tóc, hát mấy câu vô nghĩa, hoặc gầm gừ khi nghe tiếng động trước nhà. Bọn tôi thì đúng phận chuột, nép mình trong góc, đằng sau mấy cái phuy nhựa đường, căng người nghe ngóng, bởi cánh cửa kia bất cứ ai cũng có thể xô vào. 

Nhưng không nhiều người ghé qua. Người bên xưởng cưa chừng như cũng quen mặt chị Khùng. Ai đó ló đầu vô và thở dài khóc kiểu này mất nước mà chết. Một bà già bán bánh cam sốt ruột hỏi có khi nào đứa nhỏ đau bụng gió không. Con nhỏ đem cơm cho chị Khùng tới ngày hai buổi, thì luôn dừng ngoài cửa. Qua khe vách tôi thấy gương mặt con nhỏ mang nét kinh hoàng. Tôi ngờ là nó bị tiếng khóc bên trong tấn công. 

“Đừng có về nhà, khóc vậy ai chịu nổi”, con nhỏ nói, trong lúc lấy chân đẩy cái cà mên cơm vào trong. Mỗi khi con nhỏ tới là chị Khùng lại lên cơn thù nghịch, tay lăm lăm khúc củi, tay kia ôm ghì đứa nhỏ gầm gừ nói mày ăn thịt con tao. Phụ với bà mẹ, đứa trẻ khóc thét lên, chói đến nỗi con nhỏ dội ra, bỏ đi một nước. 

Kêu đem quăng đống rác cho rồi mà cãi. Má nhức đầu chưa hết. Con nít khóc vầy trước sau gì cũng chết, nuôi uổng công. Lấy mấy câu không đầu cuối của con nhỏ đem cơm mà chắp vá lại, bọn tôi đoán đứa bé đã khóc bay nóc gia nào đó, trước khi dời tới căn nhà hoang này. Chị Khùng không thỏa hiệp với họ, cố giữ đứa nhỏ. Người nhà chị đã thấm đòn. Tự dưng tôi cảm thấy thương đứa con gái nọ. Tôi biết nó phải chịu đựng gì. 

“Tao không ngủ nổi”, thằng Hiến tuyệt vọng. Tôi không biết việc nó còn cái đuôi ký ức thì có khốn khổ hơn mình không. Nửa đời thằng Hiến chắc phải trải qua hoặc nghe nhiều tiếng khóc khác nhau, không rõ chúng có nhân dịp này kéo về giày vò nó. Hay tiếng khóc của đứa nhỏ chan đều thống khổ cho mỗi người. Thấy rõ là thằng Ba Sáu Bốn tã ra, tảng đá kín bưng đó bị nung vôi. Nó nói phải bóp chết đứa nhỏ, mới sống qua con trăng này. 

Tôi cũng không nghĩ ra cách nào khác ít tàn ác hơn. Đứa nhỏ mắt                                                                                       nhắm nghiền, rõ ràng là nó ngủ, nhưng khóc thì quyết không ngưng. Chỉ âm thanh dịu bớt, thuần nỉ non như cục than vùi dưới tro, ngó thiu thiu vậy bỗng bùng cháy bất cứ lúc nào. Tivi nói người ta chỉ chịu được âm nhạc mở lớn khoảng bốn mươi tám giờ, nhưng đây là tiếng khóc, là cứa chậm là chọc vào từ từ là siết chặt sợi dây thòng lọng. Đứa nhỏ rõ ràng bụ bẫm khỏe mạnh, có thể nghe tiếng của nó đầy độ vang, buồng phổi nó phải nở nang lắm, và vòm họng thì rộng. Đợi cái chết tự nhiên của kẻ phát ra tiếng khóc đọa đày, bọn tôi không đợi nổi. 

Đứa nhỏ chắc chừng đầy tháng tuổi, thằng Hiến đoán. Hiến có một đứa con, bữa nó vô trại thì thằng nhỏ chập chững học đi. Tin tức gần nhất, con nó theo mẹ đi lên miệt Trảng Cò nuôi vịt chạy đồng. 

“Con tao thơm như cơm nóng. Ít khóc lắm”, Hiến nói. Con nít là một đề tài gây bối rối, với tôi. Mọi kinh nghiệm của tôi về trẻ nít, đã bị Hầm xóa sạch. Tụi nhỏ con mấy chị bếp thì mẹ chúng giữ rịt, tránh bọn tôi như tránh hủi. Tivi không thèm phát phim khoa học về con nít và sự trưởng thành của chúng. Tôi từng tin mình có ít nhất một chục đứa con đang chờ cha ở quê nhà. Nhưng giờ tôi nghĩ mình chẳng nên có đứa con nào khi chứng kiến sinh linh gói trong tấm khăn kia gào khóc. Tôi ước mình có một trải nghiệm ngọt ngào về con nít, nhưng không may, đứa nhỏ con chị Khùng là tất cả những gì tôi biết. Mềm oặt, bú nứt bụng rồi trớ ra, ỉa cứt chua, đái bổng cầu vồng và khóc như mười bảy kiếp luân hồi rồi chưa được khóc. 

Chị Khùng cũng biết đứa nhỏ bất thường. Chị bứt mấy thứ cây cỏ không tên về, vỏ nát đắp lên bụng nó. Đôi lúc chị dốc ngược đứa nhỏ xuống, như trút cạn tiếng khóc ra. Chị liếm lên đôi mắt ướt ròng của nó. Nhưng đứa nhỏ vẫn khóc cho mấy chục kiếp bị bỏ lỡ. Chị lại nhai tóc. Ngoài nhai tóc và thỉnh thoảng móc những cọng chiếu rách trên cái sàn ghép bằng ba lết, chị trông giống như những người đàn bà bình thường. Sạch sẽ, tươm tất. 

Và tanh sữa. Thứ mùi đó mạnh đến mức có thể tranh chấp và đôi lúc còn lấn át mùi nhựa đường. Thằng Hiến nói đàn bà sinh xong, người ta nghiền men nấu rượu với nước, đắp cái hỗn hợp sền sệt lên bầu vú kiêu căng kia, rồi đốt một nắm nhang lên, hong hơ cho sữa chín. 

“Phải làm vậy sữa mới thơm”, thằng Hiến lại tê mê chìm vào ký ức, “con tao thơm như khoai nóng”. 

Lúc đó bọn tôi, ý tôi là mấy đứa từng bị phạt Hầm, không nhận ra thằng Hiến nói quá nhiều. Cho dù là một con chuột, nhưng chí choé quá cũng không nên. Nó nói về căn nhà cất trên nửa đất thịt nửa sàn cắm bên một mé sông nhiều bần và đom đóm. Con nó ngồi trong thau nhựa nổi trên mặt nước, nó kéo theo lúc đi giăng lưới cá rô. Con nó cười rất giòn. Con nó thơm mùi tinh bột, của gạo, của khoai của những trái bắp non. Con nó không khóc. 

Vào đêm thằng Hiến biến mất, đứa nhỏ khóc thê lương. Gần sáng mấy thằng tôi không thấy bộ não của mình đâu nữa. Không biết nó lách ra cửa trước hay chuồi qua vách sau. Cũng không biết nó bỏ đi đâu, có bị bắt không hay đã ra tới sông. Thằng Năm Năm Một nói dù đi đâu thì cũng khỏe lỗ tai rồi, khỏi nghe con nít khóc. Tôi nghe trong giọng nó đầy bất chấp, kiểu bị bắt cũng được chỉ cần thoát khỏi đây, đoán nó sẽ sớm bỏ đi. 

“Phải bóp chết đứa nhỏ, mới sống nổi”, Ba Sáu Bốn nằm ngửa ngó trần nhà, ở lời của chính mình ra, nhai lại. Đêm thứ năm kể từ khi trốn trại, chỉ còn nó và tôi. 

Vài lần bọn tôi táo tợn tới gần bộ vạc chỗ mẹ con chị Khùng ngồi. Nhưng rồi hai đứa dạt đi, khi chị vụt liệng một vài miếng bánh ra tận chân mấy cái phuy, bày tỏ thái độ rõ ràng rằng đừng có tới gần. Đĩnh đạc như một bà chủ thật sự, buổi đầu tiên tới chị săm săm lại kéo một tấm ván, nhà tắm bất ngờ mở ra. Chị biết có tấm mền trong cái thùng bên dưới bếp. Đôi lúc thấy chị dạng chân trên bộ vạc và thở dài, tự dưng tôi nghi cha đứa nhỏ là một trong đám công nhân làm đường. Cái thằng khốn đó không biết nó có hay đã tạo ra một sinh linh đáng sợ. 

Bọn tôi không có cơ hội chạm vào đứa nhỏ. Mỗi khi đi ra ngoài kiếm bánh mì cho hai con chuột, chị luôn bồng con theo. Chị không ngủ, tôi nghĩ người điên chắc không cần ngủ. Bởi chị không suy sụp vì điều đó. Nhìn vào thần sắc chị thì rõ, và ánh mắt nữa, chị ngó bọn tôi thuần là của người nhìn vào những giống loài thấp kém. Thờ ơ, bao dung, coi thường, xa cách. Kiểu nhìn khiến bọn tôi giận điên và tủi nhục muốn chết, cùng lúc. 

Không có thằng Hiến để dựa vào, tôi nghĩ tự mình phải tìm cách thoát khỏi cái buồng giam dày bịt tiếng khóc này. 

“Phải kiếm thuốc thì con chị mới nín được”. 

“Mưa trắng hơn trăng trắng”. 

“Nghe nói tim của Thánh sống trị bá bịnh”. 

“Nắng ngọt tới xương bà nội con chuồn chuồn”. 

Khi ấy chị Khùng không tỏ chút gì để ý. Nhưng lối đối đáp vô nghĩa của chị khiến tôi tức cười, nguôi ngoai phần nào cơn chết mòn bởi tiếng khóc đứa nhỏ. Thì thầm thêu dệt mãi về trái tim chữa lành của một người ở miệt Vạn Thủy, chủ nhân của một cù lao đầy vàng, tôi không nhận ra câu chuyện mà mình nghĩ là bịa đặt lại có thật, và tôi từng giết hụt hắn ta. 

Sau này, khi ngồi phơi thuốc nam trong sân một cái am trên núi, tình cờ nghe khách đưa chuyện với nhau, rằng có người đàn bà mang theo đứa nhỏ vượt ngàn cây số bứt trái tim Đức Ngài ở miệt cù lao về làm thuốc, tôi nghĩ ngay là chị Khùng. Là chị, không ai khác. Sạch và tươm tất và tanh sữa như mọi bà mẹ trên đời, ẵm theo đứa nhỏ mềm mại như bao đứa trẻ. Chỉ khác là nó khóc, và bà mẹ nhai tóc. Mớ tóc dày và dài, giờ có khi không còn sợi nào, bởi mỗi lần đứa nhỏ khóc ngất là chị lại bứt chúng đi, từng sợi từng sợi. 

Đó là người duy nhất tôi có tin tức, từ khi thôi làm chuột, rời khỏi căn nhà chát đặc nồng nặc tiếng khóc trẻ con.

Nguyên tắc về sự sai của Popper

Theo Popper, cái phân biệt một lý thuyết khoa học với một lý thuyết phi khoa học là nguyên tắc về sự sai. Một lý thuyết khoa học có thể bị bác bỏ. Ngược với điều mà nhiều người tưởng, nếu một quan sát nào phù hợp với một lý thuyết, lý thuyết ấy yếu, chứ không mạnh. Popper dành rất nhiều thời giờ để phê bình các lý thuyết của Freud và Adler chính là vì lý do này. Không có ngoại lệ nào, mọi điều mà một người làm đều có thể được coi như củng cố cho mỗi lý thuyết này. Popper đối chiếu các lý thuyết này với lý thuyết của Einstein, lý thuyết này dự đoán điều gì phải xảy ra hay không xảy ra nếu lý thuyết là đúng. Như thế, không giống các lý thuyết của Freud và Adler, lý thuyết của Einstein có thể bị bác bỏ và vì thế là một lý thuyết khoa học. Popper tóm tắt các quan điểm của ông về lý thuyết khoa học như sau:

  • (1) Đối với hầu hết các lý thuyết, không khó để đạt được sự xác nhận hay kiểm chứng – nếu chúng ta muốn tìm kiếm sự xác nhận.
  • (2) Các sự xác nhận chỉ có giá trị nếu đó là kết quả của những dự đoán mạo hiểm; nghĩa là,nếu chúng ta dự đoán có thể xảy ra một sự kiện trái ngược với lý thuyết ấy – một sự kiện có thể bác bỏ ý kiến ấy.
  • (3) Mọi lý thuyết “tốt” đều là một sự cấm đoán: nó ngăn cấm một số điều không được phép xảy ra. Một lý thuyết càng cấm đoán nhiều, càng là một lý thuyết tốt.
  • (4) Một lý thuyết không có khả năng được chứng minh là sai bởi bất cứ sự kiện nào có thể nghĩ ra được, thì là một lý thuyết phi khoa học. Tính chất không thể bác bỏ không phải là ưu điểm của một lý thuyết (như người ta thường nghĩ) mà là một nhược điểm của nó.
  • (5) Mọi trắc nghiệm chân chính về một lý thuyết là một cố gắng để chứng minh lý thuyết ấy sai, hay để phủ nhận lý thuyết ấy. Tính trắc nghiệm là tính có thể chứng minh lý thuyết sai: một số lý thuyết có khả năng trắc nghiệm nhiều hơn, dễ bị bác bỏ hơn một số lý thuyết khác; có thể nói, chúng có nhiều rủi ro hơn.
  • (6) Chứng cớ xác nhận chỉ có giá trị nếu nó là kết quả của một trắc nghiệm chân chính về lý thuyết; và điều này có nghĩa là nó có thể được coi như một cố gắng nghiêm túc nhằm bác bỏ lý thuyết nhưng không thành công.
  • (7) Một số lý thuyết có khả năng trắc nghiệm chân chính, sau khi bị chứng minh là sai, vẫn còn được chấp nhận bởi những người ngưỡng mộ chúng – ví dụ, bằng việc đưa vào tạm thời một vài giả định phụ thuộc, hay bằng cách tạm thời cắt nghĩa lại lý thuyết sao cho nó tránh được sự bác bỏ. Phương thức này có thể sử dụng, tuy cứu được lý thuyết nó luôn luôn hủy diệt hay ít ra là hạ thấp giá trị khoa học của lý thuyết ấy.

Như thế theo Popper, một lý thuyết muốn là lý thuyết khoa học thì phải làm các dự đoán mạo hiểm, các dự đoán có nguy cơ thực sự là sai. Các lý thuyết mà không đưa ra các dự đoán mạo hiểm hay chỉ giải thích các hiện tượng sau khi chúng đã xảy ra, thì theo Popper, không phải là khoa học. Một vấn đề lớn gặp phải trong nhiều lý thuyết tâm lý học (như của Freud và Adler) là chúng làm công việc hậu đoán (phỏng đoán sau khi các hiện tượng đã xảy ra) thay vì dự đoán trước. Vì các lý thuyết này không mạo hiểm làm các dự đoán trước, nên chúng không gặp nguy cơ bị chứng minh là sai và vì vậy chúng không có tính khoa học.

Theo quan điểm Popper, mọi lý thuyết khoa học cuối cùng sẽ bị chứng minh là sai và được thay thế bằng các lý thuyết đầy đủ hơn; vấn đề chỉ là thời gian. Vì vậy, theo Popper, địa vị cao nhất của một lý thuyết khoa học là ở chỗ nó chưa bị phủ nhận. Khoa học Popper là một sự tìm kiếm không bao giờ kết thúc hầu có các giải pháp hay giải thích ngày càng tốt hơn cho các hiện tượng. Brett đã tóm tắt rất hay điểm trên đây:

Chúng ta có khuynh hướng coi khoa học như là một “tập hợp tri thức” bắt đầu được tích lũy khi con người tìm ra “phương pháp khoa học.” Đây là một quan niệm mê tín. Cái nhìn phù hợp hơn với lịch sử tư tưởng là mô tả khoa học như là các huyền thoại về thế giới mà chưa bị người ta chứng minh là sai.

Phải chăng Popper tin rằng các lý thuyết phi khoa học là vô dụng? Popper nói.

Xét dưới khía cạnh lịch sử, mọi lý thuyết khoa học đều bắt nguồn từ các huyền thoại, và… một huyền thoại có thể chứa đựng trước các khám phá quan trọng của các lý thuyết khoa học…Như thế tôi (cảm thấy) rằng nếu một lý thuyết bị chứng minh là phi khoa học, hay là “siêuhình”… thì điều đó không có nghĩa rằng lý thuyết ấy không quan trọng, hay không đáng kể, hay”vô nghĩa” hay “vô lý”.

Popper dùng nguyên tắc về sự sai để phân biệt giữa lý thuyết khoa học và lý thuyết phi khoa học chứ không phải giữa lý thuyết hữu ích và lý thuyết vô ích. Nhiều lý thuyết trong tâm lý học không thỏa mãn nguyên tắc về sự sai của Popper bởi vì hoặc chúng được phát biểu một cách quá tổng quát khiến cho chúng được xác nhận bởi hầu như mọi quan sát, hoặc chúng làm việc hậu đoán thay vì tiên đoán. Các lý thuyết này thiếu tính nghiêm khắc khoa học nhưng vẫn còn rất ích lợi. Lý thuyết của Freud là một ví dụ.

Phạm vi sử dụng thang MoCA và MMSE

Trong 40 năm qua, vô số đo lường sàng lọc nhận thức đã được phát triển và sử dụng, với mức độ hữu ích và chấp nhận khác nhau trong cả chăm sóc ban đầu và các chuyên khoa sâu khoa học thần kinh lâm sàng (Cordell và cộng sự, 2013; Lin và cộng sự, 2013a, 2013b). Trong số đó, Trắc nghiệm trạng thái tinh thần tối thiểu (MMSE; Folstein và cộng sự,1975) và Đánh giá nhận thức Montreal (MoCA; Nasreddine và cộng sự, 2005) được sử dụng rộng rãi nhất. Mặc dù mỗi trắc nghiệm này đều có ưu điểm và nhược điểm, nhưng cả hai đều là đo lường đơn chiều (Bernstein và cộng sự, 2011; Jones và Gallo 2000) — trái ngược với hình thức được đưa ra trong mỗi trắc nghiệm, bằng cách dán nhãn các mục thử nghiệm dưới các tiêu đề miền nhận thức biệt định. Ngoài ra, hiệu ứng trên cả hai trắc nghiệm bị ảnh hưởng mạnh mẽ bởi tuổi tác, giáo dục và ngôn ngữ / văn hóa (Crum và cộng sự 1993; Rossetti và cộng sự 2011), và việc giải thích hiệu ứng bằng cách sử dụng các giới hạn điểm thô thường được đề xuất đã mang lại tỷ lệ phân loại sai cao (Crum và cộng sự, 1993; Kenny và cộng sự 2013; Rossetti và cộng sự 2011). Ví dụ, điểm giới hạn thô thường được sử dụng là 26 trên MoCA phân loại sai hơn 66% người trưởng thành khỏe mạnh là bị suy giảm nhận thức (Rossetti và cộng sự, 2011).

Vì thế, các khuyến nghị của Ủy ban Nghiên cứu Hiệp hội Tâm thần kinh Hoa Kỳ (Malloy và cộng sự, 1997) về các công cụ sàng lọc nhận thức trong tâm thần kinh, áp dụng cho MMSE và mở rộng đến MoCA: các trắc nghiệm này chỉ đóng vai trò là đánh giá sàng lọc tối thiểu đối với suy giảm nhận thức, phải được giải thích bằng cách sử dụng các điều chỉnh quy chuẩn về tuổi tác và giáo dục, và nên được bổ sung bằng các trắc nghiệm biệt định phù hợp với biểu hiện lâm sàng của bất kỳ bệnh nhân cụ thể nào (ví dụ:  trí nhớ trì hoãn, chức năng thị giác không gian, chức năng điều hành). Các công cụ này (tức là MMSE hoặc MoCA cộng với các đánh giá bổ sung dành riêng cho miền) có thể cung cấp một thăm khám nhận thức ngắn gọn, định lượng và có thể lặp lại. Dữ liệu diễn giải dựa trên dân số có sẵn cho cả MMSE và MoCA (Crum và cộng sự 1993; Kenny và cộng sự 2013; Rossetti và cộng sự 2011; Mỗi cơ sở dữ liệu được rút ra từ các mẫu cộng đồng của hơn 2.600 cá nhân) trong đó điểm Z (tức là độ lệch chuẩn so với giá trị trung bình) có thể được tính toán và diễn giải hiệu ứng. Hiệu ứng ghi điểm z từ –2 trở xuống (tức là ≥2 độ lệch chuẩn dưới kỳ vọng, hiệu ứng được điều chỉnh theo độ tuổi và giáo dục) phản ánh suy giảm nhận thức ở mức độ nghiêm trọng phù hợp với rối loạn nhận thức thần kinh điển hình; Hiệu ứng ghi điểm Z từ -1 đến -2 (tức là độ lệch chuẩn khoảng -1-2 dưới mức kỳ vọng về độ tuổi và trình độ học vấn) phản ánh suy giảm nhận thức nhẹ ở mức phù hợp với rối loạn nhận thức thần kinh nhẹ (Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ 2013). Một ngưỡng bảo thủ hơn và được thiết lập theo kinh nghiệm đối với suy giảm nhận thức nhẹ là z = –1.5, thể hiện sự thỏa hiệp hợp lý để chẩn đoán suy giảm nhận thức nhẹ (hoặc rối loạn nhận thức thần kinh nhẹ) có ý nghĩa lâm sàng (Knopman và cộng sự, 2015), miễn là hiệu ứng chức năng hàng ngày cũng phù hợp với chẩn đoán đó.