Một số thuật ngữ trong thanh nhạc- tham khảo cho Ngôn ngữ trị liệu

  • Agility: Sự linh hoạt của giọng hát, ca sĩ có agility tốt có thể chạy note rất nhanh với độ tách note và sự chính xác về cao độ của note cao nhưng vẫn có thể đảm bảo độ mượt mà khi chuyển. 
  • Airy: Chỉ sự mất hoặc thiếu kết nối của dây thanh quản dẫn tới không khí đi ra theo giọng hát một cách đáng kể.
  • Breath control: Sự điều khiển và điều tiết làn hơi phóng ra, việc này xảy ở phía trên thanh quản. Ở blog này, mục Overall assessment mục đánh giá Breath control bao gồm đánh giá Breath support và Breath control.
  • Breath support: Sự tương tác giữa các nhóm cơ để điều khiển luồn không khí và làm run dây thanh quản, việc này xảy ra phía dưới thanh quản.
  • Chest dominant: Thuật ngữ này dùng cho mixed voice (giọng pha) ám chỉ người ca sĩ pha giọng ngực nhiều hơn giọng đầu. Một số ca sĩ có thói quen dùng chest dominant mix như Whitney Houston hay Lara Fabian để tạo ra những note belting dày, mạnh, với độ kịch tính cao.
  • Chest voice: Giọng ngực, giọng có khoảng vang nằm ở ngực. Đây là giọng chúng ta dùng để nói chuyện bình thường.
  • Chest voice muscles: Còn gọi là thyroarytenoid muscles, là nhóm cơ trong thanh quản và tạo thành phần thân của vocal cord. Thyroarytenoid muscles đóng một vai trò rất quan trọng trong điều chỉnh những âm thanh có tần số thấp, hay có thể hiểu là quãng giọng ngực của giọng hát.
  • Chesty: Như chest dominant, nhưng thường mang nghĩa xấu.
  • Closed throat: Chỉ việc ca sĩ với kỹ thuật thanh nhạc không phù hợp khiến cho các cơ cổ không có được sự thoải mái kèm theo vùng không gian ở yết hầu không được nới rộng, gây nên hiện tượng strain, high larynx,…
  • Consistency: Khả năng của người ca sĩ có thể sử dụng kỹ thuật thanh nhạc mình có để  tạo ra những màn trình diễn có chất lượng kỹ thuật không chênh lệch quá nhiều. Consistency cũng dùng để chỉ tính chất giọng hát, nghe chắc chắn, không bị rung rẩy hay mất ổn định.
  • Dynamic: Độ mạnh, lớn và rền của giọng hát.
  • Falsetto: Hay còn gọi là giọng gió, là một disconnected register (bên cạnh vocal fry và whistle),do mất kết nối dây thanh quản và breath control kém, âm thanh thường airy và không rõ ràng như head voice. Falsetto được hình thành khi vocal fold được kéo dài và rung động để tạo ra âm thanh nhưng chúng không chạm nhau một cách hoàn toàn (khác với head voice phần trên của vocal fold đóng lại chỉ chừa một phần nhỏ, đó chính là nơi vocal rung động tạo ra âm thanh). Người hát falsetto sẽ gặp khó khăn khi học mixed voice, và khó điều chỉnh dynamic. Có một lưu ý là falsetto cũng như whistle là một disconnected register nên nó không có placement, dĩ nhiên là thỉnh thoảng các vocalist cũng có thể có phần nào masked-placed fasetto hoặc head-placed fasettto nhưng độ rõ ràng của placement không thể nào bằng head voice hoặc các connected register khác.
  • Glissando: Là một kỹ thuật khó của Bel canto.  nghĩa là “glide”.Chỉ cách hát lướt note (thường là 2 note) trong một làn hơi. Mục đích dùng để nhấn mạnh note, tăng tích “dramatic” cho bài hát
  • Glotta tension: Tension xuất hiện ở phần thanh hầu, xảy ra do phần thanh hầu không được nới rộng đúng cách khi hát. Glotta tension có thể đi kèm với throat tension thường và xảy ra ở những vocalist hát với closed throat.
  • Flat: Từ dùng để chỉ cao độ, trái nghĩa với sharp, chỉ việc người ca sĩ hát hơi thấp hơn so với note gốc của bài hát.
  • Head dominant: Thuật ngữ này dùng cho mixed voice (giọng pha) ám chỉ người ca sĩ pha head voice nhiều hơn chest voice. Một số ca sĩ có khả năng sử dụng mixed voice thành thục có thể chuyển sang head dominant mix ở một số note để tạo thành light mixed voice, kỹ thuật khá quan trọng được sử dụng trong việc biểu đạt cảm xúc bài hát.
  • Head voice: Giọng đầu, một số gọi là giọng óc. Là giọng có khoảng vang ở vùng đầu, người ca sĩ biết cách kết nối vocal cord cũng như kỹ năng muscle coordination nếu không sẽ dễ bị chuyển thành falsetto. Head voice có thể place ở nhiều nơi, thường thì ở phần đỉnh trán, xoang mặt, một số lại có thể chuyển phần nào xuống ngực.
  • Head voice muscles: Còn gọi là cricothyroid muscles, là nhóm cơ nằm phía ngoài thanh quản. Nhóm cơ này chịu trách nhiệm điều khiển những âm thanh có tần số cao hay là falsetto register. Lưu ý rằng một mình head voice muscles và chest voice muscles không thể tạo thành mixed voice và head voice. Mixed voice được tạo thành nhờ có sự tham gia theo tỉ lệ 5/5 hoặc 6/4 hoặc 7/3 của 2 nhóm cơ, trong khi head voice được tạo thành với tỉ lệ 9/1 hoặc 8/2 (phần nhiều hơn thuộc về head voice muscles). 
  • Heady: như head dominant, nhưng thường mang nghĩa xấu.
  • High larynx: Còn gọi là cao thanh quản, thanh quản thường bị cao khi ca sĩ cố gắng một note cao với kỹ thuật thanh nhạc không phù hợp, một số ca sĩ ép thanh quản mình lên cao ngay cả quản trung để tạo ra âm sắc mỏng, nhẹ. Nguyên lý của high/low larynx như sau: Outer muscles thường thư giãn khi hát, nhưng khi vocal cord không có đủ air pressure để chạm nhau, outer muscles sẽ tham gia và tiến hành nâng/hạ thanh quản. 
  • Intonation: Sự chính xác về cao độ khi hát.
  • Jaw tension: Chỉ việc ca sĩ sử dụng kỹ thuật không phù hợp khi hát gây áp lực lên hàm của mình.
  • Legato: Kỹ thuật hát liền tiếng, liền từ âm này sang âm kia, đây là một kỹ thuật cơ bản nhưng rất quan trọng trong thanh nhạc, người ca sĩ có legato tốt sẽ tạo được sự mềm mại và mượt mà trong giọng hát.
  • Low larynx: Còn gọi là thấp thanh quản, thanh quản thường bị thấp khi ca sĩ hát note thấp, một số ca sĩ cố tình hạ thanh quản để làm giọng dày và tối hơn. Tuy nhiên, hạ thanh quản sẽ làm ca sĩ khó có thể phát triển quãng trầm, tonality bị mất và vocal projection suy giảm đáng kể.
  • Melisma: Gần giống như vocal run.
  • Mixed voice: Là giọng trung gian giữa chest voice và head voice, người hát mixed voice tốt có thể hát note cao dễ dàng mà không làm tổn hại nhiều đến thanh quản.
  • Nasal: Giọng mũi, nguyên do chủ yếu của giọng mũi là do hàm ếch không nhấc lên hoặc nhấc lên quá thấp, nhiều khi giọng mũi cũng có thể xuất hiện do ca sĩ có breath control quá kém hoặc vocal placement ở mũi. Người hát giọng mũi âm sắc sẽ không vang, hơi nghẹt, không lột tả hết được vẻ đẹp trong giọng hát.
  • Neutral larynx: Là vị trí tốt nhất của thanh quản khi hát, thanh quản ở vị trí thư giãn, không bị đẩy lên hay xuống. Hát với neutral larynx không những là cách tốt nhất để duy trì và bảo vệ giọng hát mà còn giúp cho người ca sĩ lên cao xuống thấp dễ dàng.
  • Note seperation: Dùng để chỉ sự phân tách và độ rõ ràng của note nhạc khi chạy một vocal run.
  • Open throat: Hiểu nôm na là mở cổ, chỉ việc người ca sĩ với hàm ếch được nhấc lên, các cơ cổ relax, neutral larynx, không gian ở vùng yết hầu nới rộng và có thể tạo được resonance tối ưu trong giọng hát.
  • Passaggio: Là một thuật ngữ quen thuộc trong thanh nhạc, gọi nôm na là điểm chuyển, là nơi chuyển giữa các register. Số lượng của passaggio ở giọng nam và nữ vẫn còn nhiều tranh cãi, theo lý thuyết thì có 3 passaggio là Primo passaggio, Secondo passaggio, và Zona di passaggio (Richard Miller), nhưng hiện tại thì chỉ có 2 passaggio đầu là được công nhận. Bạn có thể theo link sau để tìm hiểu thêm: https://en.wikipedia.org/wiki/Passaggio
  • Portamento: Là một kỹ thuật khó của Bel canto. Nghĩa là “carry”. Chỉ việc lướt qua một chùm note như thực hiện vocal run nhưng khác ở chỗ tốc độ nhanh hơn và sự phân tách giữa các note không rõ ràng lắm, tuy nhiên vẫn giữ được cao độ đúng của các note nhạc. Khác với glissando, portamento chỉ là hiệu ứng nhẹ và sử dụng chủ yếu tạo màu sắc cho bài hát.
  • Pianissimo: Là một kỹ thuật khó trong thanh nhạc, người ca sĩ làm giảm âm lượng đột ngột tạo ra âm thanh mỏng và nhẹ nhưng vẫn duy trì ở một note nhạc nào đó.
  • Pitchy: thiếu chuẩn xác về cao độ khi hát.
  • Placement: Nôm na là vị trí đặt âm thanh, nơi tập trung âm thanh khi hát, làm định hướng cho việc hướng âm khi hát. Nơi đặt vị trí âm thanh tốt nhất là ở xoang mặt, các nơi khác như cổ, mũi, hàm đều có thể gây căng thẳng và khiến cho support đúng nghĩa không xuất hiện. Tuy nhiên, người ca sĩ có thể kết hợp 2 vị trí đặt âm cùng lúc ví dụ như lúc hát trầm vocal placement nên ở xoang mặt và ngực, còn light mix thì ở xoang mặt và đỉnh trán.
  • Projection: Hiểu nôm na là sự “phóng âm thanh”, chỉ người ca sĩ với kỹ thuật thanh nhạc phù hợp có thể làm cho giọng hát nghe thoát ra, âm sắc rõ ràng và có độ bao trùm, không bị nghẹt, tù, bí.
  • Push: Là một thói quen xấu khi hát, chỉ việc người ca sĩ tống một lượng lớn không khi qua dây thanh quản cho âm thanh nghe tight và thiếu freedom. Lỗi này thường xuất hiện khi hát note cao.
  • Register: Khoảng âm, âm khu, con người có 4 quãng âm: Vocal fry register (rất trầm), Modal voice register (quãng âm thông thường, được dùng chủ yếu trong hát và nói), Falsetto register (giọng gió), Whistle register (giọng sáo) 
  • Relax(ed) – Relax(ing): Chỉ sự thư giãn của các cơ cổ hay của âm thanh khi hát của các sĩ.
  • Resonance: Hay còn gọi là cộng hưởng, được xem là “chiếc chìa khóa vàng khi belt note cao”, chỉ người ca sĩ với kỹ thuật thanh nhạc phù hợp tạo ra một khối âm thanh vang, tròn trịa, relax, tự nhiên, không bị tối quá hoặc sáng quá so với màu giọng vốn có.
  • Run: (Cũng như vocal run) Chạy một hoặc nhiều note trong một khoảng thời gian ngắn.
  • Sharp: Từ dùng để chỉ cao độ, chỉ việc người ca sĩ hát hơi cao hơn so với note gốc của bài hát.
  • Shouty: Là một lỗi thường gặp khi hát note cao, chỉ việc người ca sĩ strained quá nhiều cộng thêm sự mất support, push,… dẫn đến note cao âm thanh như tiếng hét. Nhiều lúc do sự thiếu breath support của ca sĩ cũng có thể dẫn đến hiện tượng shouty.
  • Soft palate: Vòm miệng mềm, nếu bạn đưa lưỡi chạm lên trên vòm miệng, bạn sẽ thấy một phần hơi cứng, từ đó trượt lưỡi ngược về phía họng bạn sẽ chạm phần mô mềm, đó là soft palate. Người ca sĩ khi hát nếu không nhấc soft palate sẽ bị giọng mũi, giọng bị nghẹt, vocal projection kém.
  • Staccato: Hát nảy âm, là một kỹ thuật cơ bản trong thanh nhạc. Trái với legato, ca sĩ hát staccato phải có độ nảy và sự phân tách note phải rõ ràng.
  • Stamina: Sức chịu đựng của giọng hát. Nếu ca sĩ có khả năng có thể hát những note cao treo liên tục hay hát nhiều bài hát mà ít hoặc hoàn toàn không có dấu hiệu mệt mỏi đồng nghĩa với stamina tốt.
  • Strain: Trái nghĩa với relax, chỉ việc ca sĩ với kỹ thuật thanh nhạc không phù hợp dẫn đến tạo ra âm thanh rất căng thẳng, thiếu kiểm soát và làm tổn thương giọng hát.
  • Style: một sự lựa chọn khi hát của ca sĩ, có thể hiểu một người ca sĩ thường có xu hướng thiên về vocal technique hoặc style, nếu thiên về vocal technique ca sĩ thường chú trọng kỹ thuật khi hát, thường hay hát những bài hát khó, thực hiện nhiều kỹ thuật hoa mỹ và phức tạp trong thanh nhạc, nếu thiên về style người ca sĩ thường chú trọng đến cảm xúc, âm sắc, tạo điểm nhấn, hay tạo phong cách riêng trong giọng hát. Ca sĩ tốt là một ca sĩ phải biết cân bằng giữa vocal technique và style. Ca sĩ thiên về vocal technique tiêu biểu ở Việt Nam như Thu Minh, Dương Hoàng Yến, Hương Tràm, Hoàng Hải,… ca sĩ thiên về style như Sơn Tùng MTP, Thùy Chi, Đàm Vĩnh Hưng, Phương Thanh, các ca sĩ hát dân ca, bolero,…, ca sĩ cân bằng khá tốt giữa vocal technique và style như Trần Thu Hà, Tùng Dương, Mỹ Linh,…    
  • Support: Chỉ việc ca sĩ sử dụng cơ hoành khi lấy hơi, breath control đầy đủ, vocal placement phù hợp, neutral larynx, nhấc soft palate,… để hát một hay một số note nhạc nào đó mà không bị strain và làm tổn thương giọng hát của người ca sĩ.
  • Supported range: Quãng mà người ca sĩ có thể support được trong quãng giọng của mình.
  • Tonality: Tone giọng, màu giọng. Trong blog thuật ngữ này dùng chỉ màu giọng gốc của ca sĩ.
  • Tight: Thường thấy khi ca sĩ hát quãng cao, chỉ sự thiếu thoải mái và gò bó của âm thanh, xảy ra do sự co thắt, bóp chặt của ít hay nhiều nhóm cơ cổ để ép vocal cords rung nhanh hơn. Tight thường kèm theo tension nhưng đôi khi tight xảy ra ngay cả trong những note có support.
  • Throat tension: Tension xuất hiện ở phần cổ của ca sĩ. Throat tension có thể xuất hiện do nhiều nguyên nhân, nguyên nhân thường gặp là do thiếu breath support, một số ca sĩ có thói quen squeeze các cơ cổ và tống một lượng lớn air pressure qua vocal cord để làm chúng rung động một cách không tự nhiên. Throat tension chính là căn nguyên của throaty sound.
  • Throaty: Chỉ việc người ca sĩ push quá mạnh không khí ra khỏi cổ cộng với sự thiếu breath support gây ra âm thanh rất strain và thiếu relax nơi cổ. Đôi khi do người ca sĩ thói quen đặt âm thanh ở cổ khi hát, hay thường gọi nôm na là “hát bằng cổ” cũng làm xuất hiện throaty sound.
  • Toungue tension: Chỉ sự căng thẳng ở phần lưỡi khi hát note cao, tongue tension thường xảy ra chủ yếu do sự căng thẳng của phần phần gốc của lưỡi, nhiều lúc khiến cho ta cảm giác như ca sĩ đang ngậm vật gì trong miệng khi hát hoặc tạo âm thanh nghe thiếu độ mềm mại, hơi cứng. 
  • Vibrato: Kỹ thuật rung giọng khi hát.
  • Healthy vibrato: Vibrato xuất phát từ lực cơ hoành và không làm cản trở support của ca sĩ.
  • Vocal connection: Thường dùng để chỉ sự kết nối giữa các connected register với nhau.
  • Vocal placement: Như placement.
  • Vocal range: Quãng giọng, tính từ note thấp nhất tới note cao nhất mà người ca sĩ có thể hát được.

Nói bụng- ventriloquism

Bởi: Martha Henriques Ngày 11 tháng 7 năm 2018. “How Ventriloquism Tricks the Brain”- NATURAL SCIENCE

Thuật nói bụng tác động lên não như thế nào
Nghiên cứu mới cho thấy bộ não của chúng ta đặt trọng tâm vào thị giác hơn là thính giác trong việc xác định nguồn gốc của âm thanh. Nhưng tại sao?
Hầu hết thời gian, bộ não con người hoạt động giống như một cỗ máy thông minh, ghép nối liền mạch (tri giác) những cảm giác từ các giác quan khác nhau tấn công chúng ta từ mọi góc độ trong suốt thời gian thức giấc. Năm giác quan chính của chúng ta—thị giác, thính giác, xúc giác, khứu giác và vị giác—nhận tín hiệu từ môi trường thông qua các tế bào chuyên biệt, gửi một dòng tín hiệu liên tục đến não. Bộ não thường làm rất tốt việc hiểu những cảm giác lộn xộn này, đôi khi quá tốt. Khi bộ não gặp phải “trục trặc” trong “ghép” thông tin mà nó nhận được từ môi trường xung quanh, mô hình bất thường này dẫn đến một số ảo tưởng kỳ dị.
Thuật nói bụng, khi chúng ta cảm nhận được âm thanh phát ra từ một vật thể mà thực tế là im lặng, là một ví dụ kinh điển về ảo tưởng này, với một biểu diễn trên sân khấu múa rối, giữa con rối và người biểu diễn điều khiển nó. Người biểu diễn nói trong khi cử động môi ít nhất có thể, đồng thời thực hiện các chuyển động rõ ràng hơn ở miệng của con rối. Kết quả là con rối vô tri dường như là người tạo ra những câu châm biếm và pha trò chứ không phải người nói bụng.
Sai lầm (của ảo tưởng) trong thủ thuật này liên quan đến việc người biểu diễn, bằng cách nào đó “ném” giọng nói của họ thông qua một thủ thuật thông minh. Trên thực tế, chính bộ não của khán giả mới thực hiện ảo tưởng này.
“Hãy tưởng tượng bạn nghe thấy một âm thanh lớn, đồng thời có sự xuất hiện đột ngột của một thứ gì đó. Sau đó, tự động – do sự trùng hợp về thời gian – bạn sẽ có xu hướng liên kết hai sự kiện này có cùng nguồn gốc,” Salvador Soto-Faraco, Giáo sư Nghiên cứu ICREA tại Đại học Pompeu Fabra ở Tây Ban Nha, người nghiên cứu về nhận thức và khả năng nói bụng, cho biết. “Đó là suy luận xảy ra trong ảo tưởng của người nói bụng.”
Trong cuộc sống đời thường, việc cho rằng âm thanh và chuyển động đi đôi với nhau là một điều rất hợp lý. Một tiếng nổ lớn và một tia sáng xảy ra cùng lúc thường là hậu quả của một sự kiện duy nhất—chẳng hạn như tiếng xèo xèo và tia lửa điện từ phích cắm hoặc tiếng còi báo động và đèn nhấp nháy của xe cứu thương. Điều quan trọng là hai sự kiện thị giác và thính giác phải xảy ra gần như cùng lúc để thủ thuật này phát huy tác dụng.
Soto-Faraco cho biết: “Ảo tưởng nói bụng có thể được tạo ra mạnh mẽ hơn hoặc yếu hơn, tùy thuộc vào thời điểm giữa ánh sáng nháy và âm thanh”. “Nếu có một khoảng cách dài hơn thì đột nhiên ảo tưởng không còn mạnh nữa.”
Thính giác của chúng ta báo cáo thông tin về vị trí của âm thanh theo một cách rất khác so với thị giác của chúng ta. Đối với chúng ta, việc xác định vị trí của một vật thể trong không gian là điều cực kỳ dễ dàng, nhưng cố gắng xác định chính xác nơi âm thanh phát ra chỉ nhờ thính giác – tức là khi nhắm mắt – thì khó hơn rất nhiều. Hãy nghĩ xem việc bịt mắt sẽ khó khăn hơn nhiều khi chơi bóng đá. Bạn có thể nghe thấy, nhưng thực tế bạn không thể nhìn thấy chính xác vị trí của quả bóng.
Soto-Faraco cho biết: “Ở đây chúng ta có hai phương thức cảm giác khác nhau cung cấp thông tin về vị trí không gian, nhưng theo những cách rất khác nhau”. “Chúng tôi có thể nghĩ ra các loại tiền tệ khác nhau. Chúng không thể được sử dụng trực tiếp cùng nhau. Họ phải được chuyển đổi.”
Trong chuyển đổi này, não đặt trọng tâm vào thị giác hơn là thính giác. Điều này là do thị giác có xu hướng chính xác hơn nhiều. Soto-Faraco cho biết: “Trong 99,9% tình huống trong cuộc sống hàng ngày, điều này đáng tin cậy và không dẫn đến ảo tưởng – nếu không chúng ta sẽ hoàn toàn bối rối ”.
Nhưng đây chính là khoảng mà ảo ảnh nói bụng khiến não bộ bị kích động: thông tin cảm giác từ thị giác không đáng tin cậy. Miệng con rối đang cử động nhưng không có âm thanh nào phát ra. Thính giác bị chi phối bởi thị giác. Kết quả là, chúng ta thực sự thấy giọng nói của người biểu diễn rối đang phát ra từ miệng con rối.
Trên thực tế, có một quy luật cực kỳ đơn giản về cách não cân nhắc thông tin mà nó nhận được từ các nguồn cảm giác khác nhau. Nó dường như hoạt động theo một mô hình được gọi là “lý thuyết tích hợp tối ưu”. Lý thuyết này có thể được mô tả bằng một công thức toán học để quyết định mức độ tin cậy đối với bất kỳ thông tin cảm giác cụ thể nào tại một thời điểm nhất định. Vì vậy, nói cách khác, ảo tưởng nói bụng xảy ra khi não tính toán đúng, nhưng câu trả lời lại hơi sai do sắp đặt cố tình lừa dối trong môi trường.

Khung lý thuyết cho Ngôn ngữ trị liệu

Vào năm mới 2024, mình dự kiến sẽ triển khai các nội dung kiến thức cho mảng hoạt động Ngôn ngữ trị liệu, thông qua việc soạn tài liệu và hệ thống hóa kiến thức cho các bạn đã là nhà chuyên môn hoạt động trong lĩnh vực này.

Việc làm này, xét về mặt lý thì có vẻ không ổn lắm. Vì thế nào mình cũng bị hỏi là “theo chuẩn nào”, một câu hỏi rất khó trả lời khi mà bản thân lĩnh vực này có sự tham gia của rất nhiều nhà chuyên gia, từ nhiều lĩnh vực nghề nghiệp khác.

Vì vậy, việc làm của mình, xuất phát từ góc nhìn của nhà Tâm thần học về ngành nghề này, và trả lời câu hỏi “kiến thức nào cần để nhà Ngôn ngữ trị liệu thực hành nghề và tự cập nhật kiến thức ?)

Điều dưỡng làm gì?

Năm 2002 Hội đồng điều dưỡng quốc tế ICM đã ban hành định nghĩa cập nhật về điều dưỡng. Điều dưỡng bao gồm sự chăm sóc tự chủ và hợp tác của các cá nhân ở mọi lứa tuổi, gia đình, nhóm và cộng đồng, dù ốm đau hay khỏe mạnh và trong mọi môi trường. Điều dưỡng bao gồm việc nâng cao sức khỏe; phòng ngừa bệnh tật; và chăm sóc người bệnh, người khuyết tật, và người cuối đời. Vận động chính sách, thúc đẩy môi trường an toàn nghiên cứu, tham gia xây dựng chính sách y tế quản lý bệnh nhân và hệ thống y tế cũng như giáo dục, là những vai trò quan trọng của điều dưỡng

Định nghĩa mới này cung cấp một số chìa khóa để hiểu rõ về hệ thống chăm sóc sức khỏe hoặc điều dưỡng hiện đại ngày nay bao gồm những điều sau

  • Phạm vi từ lúc sinh đến lúc già hoặc cuối đời
  • Tình trạng sức khỏe của người được chăm sóc nâng cao sức khỏe phòng bệnh chăm sóc bệnh tật chăm sóc người khuyết tật hoặc người cuối đời
  • Phạm vi vai trò của điều dưỡng bao gồm thực hành lâm sàng, chăm sóc môi trường, vận động khách hàng, nghiên cứu quản lý khách hàng, quản lý hệ thống y tế, chính sách giáo dục và y tế
  • Phạm vi của các mối quan hệ điều dưỡng chăm sóc khách hàng, hợp tác chăm sóc gia đình, hợp tác nội bộ và liên chuyên môn, và tất cả các biến thể của những mối quan hệ này

Một lưu ý về miên hành

Rối loạn hành vi giấc ngủ REM tách biệt (iRBD) được đặc trưng bởi các hành vi thực hiện giấc mơ, chẳng hạn như đá và đấm khi đang ngủ và những giấc mơ sống động/bạo lực. Hiện nay nó được thừa nhận là giai đoạn báo trước của bệnh thoái hóa thần kinh – khoảng 80% số người mắc iRBD sẽ phát triển sa sút trí tuệ với bệnh Lewy Bodies, bệnh Parkinson hoặc một bệnh thoái hóa não khác trong vòng 10 năm.

Tuy nhiên, việc chẩn đoán có thể gặp khó khăn về mặt lâm sàng do nhiều lý do, bao gồm cả việc chuyển viện chậm, triệu chứng trùng lặp với các rối loạn khác và sự không chắc chắn về cách xác nhận chẩn đoán. Hiện có một số phương pháp đánh giá, chẳng hạn như phỏng vấn lâm sàng, bảng câu hỏi sàng lọc và ghi lại giấc ngủ bằng video hoặc ‘nghiên cứu về giấc ngủ’.

Các giai đoạn phát âm liên quan đến giấc ngủ và/hoặc hành vi vận động phức tạp lặp đi lặp lại; những hành vi này được ghi lại bằng kỹ thuật đo đa kí giấc ngủ (PSG) xảy ra trong giấc ngủ REM hoặc dựa trên lịch sử lâm sàng về việc thực hiện giấc mơ, được cho là xảy ra trong giấc ngủ REM; Bản ghi PSG thể hiện giấc ngủ REM không mất trương lực cơ (RSWA); và sự xáo trộn không thể được giải thích tốt hơn bởi một rối loạn giấc ngủ, rối loạn tâm thần, lạm dụng thuốc hoặc chất gây nghiện khác” American Academy of Sleep Medicine (2014)

Bị nghi ngờ iRBD

Nghi ngờ ban đầu về iRBD thường do người ngủ chung giường đưa ra, người này nhận thấy những hành vi bất thường trong khi ngủ. Hành vi thường bao gồm la hét, đá, đấm và những hành động phức tạp hơn, chẳng hạn như di chuyển đồ đạc quanh phòng. Điều này có thể khiến cá nhân phải hẹn gặp bác sĩ đa khoa để điều tra, nhưng cũng có thể bị bỏ mặc trong nhiều năm, đặc biệt nếu các triệu chứng iRBD dao động, được coi là không quan trọng về mặt y tế hoặc nếu không có bạn tình cùng giường. Ngay cả khi đến cơ sở chăm sóc sức khỏe ban đầu, chẩn đoán sai có thể xảy ra do thiếu nhận thức về iRBD trong y học tổng quát và/hoặc các triệu chứng giống với các rối loạn giấc ngủ thông thường khác. Ví dụ, chuyển động của cơ thể iRBD có thể bị chẩn đoán nhầm là rối loạn vận động chân tay định kỳ (PLMD) hoặc chứng ngưng thở khi ngủ do tắc nghẽn (OSA) có thể bị chẩn đoán nhầm khi iRBD biểu hiện thường xuyên thức giấc về đêm. RBD có thể liên quan đến việc sử dụng thuốc chống trầm cảm kéo dài, với một số loại thuốc chống trầm cảm được phát hiện là gây ra các triệu chứng RBD. Đặc biệt, các chất ức chế tái hấp thu serotonin có chọn lọc (SSRI) có liên quan đến sự khởi phát các triệu chứng RBD, trong khi mối liên quan chưa được tìm thấy với việc sử dụng thuốc chống trầm cảm ba vòng. RBD thứ cấp cũng là một đặc điểm đã biết của bệnh teo đa hệ thống (MSA) và có thể xảy ra trong bệnh đa xơ cứng (MS) và các trường hợp đột quỵ. Tuy nhiên, với RBD thứ phát, điều quan trọng là phải phân biệt được RBD trong bối cảnh bệnh lý synuclein (trong đó bệnh này rất thường gặp ở 50% bệnh nhân PD, 80% bệnh nhân DLB và tới 100% bệnh nhân MSA) và các bệnh thần kinh khác (MS và đột quỵ), đây là một biểu hiện hiếm gặp. Những điểm tương đồng này với các tình trạng khác và các yếu tố liên quan cho thấy nghi ngờ ban đầu về iRBD có thể bị bỏ sót như thế nào, vì việc điều tra các rối loạn giấc ngủ hiếm gặp và giới thiệu đến các dịch vụ chuyên khoa (chẳng hạn như thần kinh hoặc đơn vị ngủ) hiếm khi được xem xét ở các cơ sở chăm sóc ban đầu.

Sự thiếu nhận thức của các nhà thần kinh học và các chuyên gia khác cũng có thể góp phần gây ra sự chậm trễ trong chẩn đoán, với một nghiên cứu cho thấy 31% bệnh nhân không nhận được chẩn đoán iRBD kịp thời (chậm trễ trung bình 8,7 năm kể từ khi khởi phát triệu chứng) do bác sĩ chuyên khoa của họ không thành công (bao gồm cả các nhà thần kinh học) để nhận biết các triệu chứng. Nghiên cứu sâu hơn cho thấy rằng ngay cả những bệnh nhân có lo lắng về giấc ngủ cũng hiếm khi được hỏi về triệu chứng iRBD cụ thể, với phần lớn các PSG dương tính với iRBD được yêu cầu vì các lý do khác, chẳng hạn như nghi ngờ rối loạn nhịp thở khi ngủ hoặc mất ngủ. Những phát hiện này cho thấy tầm quan trọng của việc đánh giá lâm sàng kỹ lưỡng khi bệnh nhân có triệu chứng iRBD, vì việc thiếu nhận biết ban đầu có thể cản trở quá trình chẩn đoán và làm giảm cơ hội quản lý bệnh, đặc biệt là xác định ND sớm và điều trị tiềm năng.

Câu hỏi tìm hiểu cho phân môn Tâm thần năm học 2023- 2024

Tên bàiSố tiết
1Đại cương
Các rối loạn tâm thần thực tổn (chương 1)
Một số cập nhật về Tâm thần kinh học, Khoa học thần kinh và xu thế can thiệp đa ngành
04
2–  Các rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng chất tác động tâm thần (chương 2)
– Các rối loạn loạn thần (chương 3)
– Các rối loạn khí sắc (chương 4)    
– Tác động không xâm lấn
04
3– Các rối loạn liên quan đến stress (chương 5)
– Hội chứng hành vi kết hợp với các rối loạn sinh lý (chương 6)
– Liệu pháp tâm lý
  04
4Các rối loạn tâm thần ở trẻ em và vị thành niên (chương 7)
Hóa dược điều trị các rối loạn tâm thần
04

Sinh viên chuẩn bị: viết thuyết trình các bài học theo buổi học, lưu ý

  • Mỗi bài do 1 nhóm chuẩn bị, phân công ít nhất 2 bạn trình bày, đề phòng có việc đột xuất. Một nhóm không được kiêm 2 bài trình bày trong 1 buổi học.
  • Slide trình chiếu ghi dưới dạng các từ khóa. Không copy đoạn văn bản dài.
  • Trình bày trong vòng 5-10 phút, không liệt kê các mục vì đã có sẵn tài liệu. Hãy trình bày về việc đọc hiểu bài học.
  • Cần trao đổi trước buổi trình bày liên hệ zalo 0988366618 hoặc zalo 0372776527. Các bạn học lại, cải thiện liên hệ BSNT Quỳnh số 0985728210.
  • Tài liệu là Sức khỏe tâm thần tập 2

Bài cập nhật trong buổi 1 tham khảo ở đây về dàn bài và viết thuyết trình với kiến thức đã học trong năm 3. Giảng viên có trình bày ngắn về cập nhật sau đó.

Các tóm tắt để tìm hiểu bài giảng năm 2021-2022 ở đây

https://adongclinic.vn/chuyen-muc/than-kinh-tam-ly-hoc

Tham khảo một số video ở đây

https://thuvienadong.com/video/

TTTên bàiSố tiết
1– Đại cương về tâm lý học
– Các phương pháp nghiên cứu tâm lý học
– Ý thức- Chú ý
– Nhận thức và trí tuệ
– Cảm giác và tri giác
  04
2– Tư duy
– Trí nhớ
– Học tập
– Ngôn ngữ
– Nhân cách
04
3– Động lực- Thúc đẩy
– Cảm xúc
– Tâm lý xã hội học (Xã hội tính)
– Các giai đoạn của cuộc đời (Tâm lý phát triển)
– Khoa học thần kinh (chương 3)
  04
4– Rối loạn hành vi
– Rối loạn vận động và phối hợp vận động
– Rối loạn tri giác
– Rối loạn tư duy
– Rối loạn cảm xúc
-Rối loạn nhận thức, ý thức
04

Tài liệu là Sức khỏe tâm thần tập 1

Phần chuẩn bị bài giống với hướng dẫn cho sinh viên Y5

Hướng dẫn thực hành

Số buổi thực hành: 2

Thời gian thực hành: tương đương 4 tiết/ buổi

Chuẩn bị thực hành: mỗi tổ chia 4 nhóm. Chuẩn bị thực hành như sau:

Buổi 1: chuẩn bị 4 bài thuyết trình

Nhóm 1: bài Giao tiếp

Nhóm 2: Kĩ năng hỏi bệnh sử và tiền sử

Nhóm 3: Kĩ năng cung cấp thông tin

Nhóm 4: Kĩ năng thông báo tin xấu                                      

Buổi 2: Thuyết trình và Thực hành đóng vai tình huống giao tiếp mẫu.

Nhóm 1 bình luận bài Bị tử vong theo hướng dẫn và trình chiếu

Đọc bài viết “Bị tử vong”

 (lưu ý, đây không phải thể loại văn chứng minh, mà là áp dụng lý thuyết vào thực tế)

  • Phân tích tình huống theo cách tiếp cận trong bài Xã hội tính của con người
  • Phân tích tình huống theo cách tiếp cận Tâm lý phát triển
  • Phân tích tình huống theo cách tiếp cận Stress và ứng phó (bài đã được trình bày trong môn Tâm lý y đức, hoặc xem bài Tâm lý học sức khỏe trong tài liệu)
  • Phân tích tình huống theo cách tiếp cận Nhân cách
  • Phân tích tình huống theo cách tiếp cận Giao tiếp “thày thuốc và bệnh nhân”

Nhóm 2 Kĩ năng hỏi bệnh sử, tiền sử

Nhóm 3 Kĩ năng cung cấp thông tin

Nhóm 4 Kĩ năng thông báo tin xấu Phần thực hành sẽ dùng để đánh giá điều kiện thi – không đạt tương đương vắng 2 buổi lý thuyết

Hoạt động có ý thức với sự hiểu biết các mạch thần kinh

Hệ thần kinh ngoại vi đã có những hoạt động cực kì phức tạp để đảm bảo các cảm giác- vận động và các phản ứng sinh lý bên trong cơ thể đáp ứng phù hợp với môi trường. Hệ thần kinh trung ương lại còn hoạt động phức tạp hơn thế bởi vì nó phải đảm nhiệm các hoạt động tinh thần, cả vô thức và có ý thức. Ở thần kinh ngoại vi, chúng ta nhận thức về các dây thần kinh và các trung khu, còn ở thần kinh trung ương, chúng ta phải hiểu biết các mạch thần kinh.

Phần mô tả sau đây trích từ Sách giáo khoa Tâm thần học của Mỹ, “Kaplan and Sadock’s Comprehensive Textbook of Psychiatry”, phiên bản 2017, chương 1, phần 2 “Giải phẫu thần kinh chức năng” của DARLENE SUSAN MELCHITZKY, M.S., và DAVID A. LEWIS, M.D.- phần nói về “Mạch chức năng”.

KẾT NỐI VỎ-VỎ. Kết nối vỏ não bao gồm phần lớn các kết nối nội tại vỏ não và có thể được chia thành ba loại cơ bản: (1) nội vùng — kết nối trong một vùng vỏ não, (2) liên hiệp — kết nối giữa các vùng vỏ não trong cùng một bán cầu, và (3) liên bán cầu- kết nối giữa các vùng vỏ não ở các bán cầu khác nhau. Các kết nối nội vùng được hình thành bởi các sợi trục hệ phụ của tế bào tháp, trong khi các kết nối liên hiệp và liên bán cầu được hình thành bởi các sợi trục chính của tế bào tháp.

Các kết nối vỏ- vỏ chịu trách nhiệm về hoạt động phối hợp của các nhóm lớn tế bào thần kinh phân bố trong và khắp các vùng vỏ não. Sự đồng bộ của hoạt động này dường như liên quan đến phần lớn các chức năng tri giác và nhận thức của vỏ não.

Hoạt động thần kinh đồng bộ hay dao động của các nhóm tế bào thần kinh được kết nối này tạo ra các dạng hoạt động điện đặc trưng có thể được ghi lại bằng điện não đồ (EEG). Số lượng tế bào thần kinh dao động cùng nhau ở một tần số cụ thể càng lớn, thì biên độ của tín hiệu điện não đồ càng tăng cao trên nền nhiễu xung quanh. Các dao động này được nhóm thành các dải tần số khác nhau như θ (4 đến 8 Hz), α (8 đến 12 Hz) và γ (30 đến 80 Hz). Hoạt động dao động trong tất cả các dải tần số được cho là phát sinh từ mạng lưới các neuron ức chế, GABAnergic, mà đầu ra của chúng điều chỉnh hoạt động của các tế bào tháp.

Dao động tần số cao đã được đề xuất như một cơ chế khả dĩ để tích hợp các mạng lưới thần kinh phân tán liên quan đến một loạt các quá trình tâm thần như tri giác, chú ý và nhận thức. Các dao động dải γ-Band trong DLPFC (vỏ não trán trước lưng ngoài) được cho là nền tảng thần kinh quan trọng để nhận thức. Hơn nữa, các kết nối synap giữa phân lớp tế bào giỏ parvalbumin của neuron GABA và tế bào tháp ở trán trước lưng ngoài dường như tạo ra hoạt động dao động này. Điều thú vị là những người bị tâm thần phân liệt thể hiện sự thấp hơn của dao động γ được ghi lại từ DLPFC khi thực hiện các nhiệm vụ nhận thức, có lẽ là hậu quả của những bất thường trong hệ thống GABAergic, bao gồm neuron PV, được quan sát thấy trong DLPFC sau khi chết ở những người bị tâm thần phân liệt.

MẠNG LƯỚI CÁC MẠCH VỎ-VỎ. Việc nghiên cứu các kết nối vỏ-vỏ trước đây chỉ có thể thực hiện được ở động vật với việc sử dụng các phương pháp dò đường. Mặc dù những cải tiến trong các phương pháp này đã tinh chỉnh và đào sâu kiến thức của chúng ta về các truyền dẫn giữa các vùng vỏ não khác nhau, các mối liên hệ được tiết lộ bởi phương pháp này chỉ có thể được suy ra là giống với người. Trong 20 năm qua, các nghiên cứu hình ảnh thần kinh đã mở rộng kiến thức của chúng ta về khả năng kết nối vỏ-vỏ ở người. Tuy nhiên, điều quan trọng cần lưu ý là hầu hết các nghiên cứu hình ảnh thần kinh này đã xác định kết nối chức năng (tức là các vùng não được kích hoạt trong một nhiệm vụ cụ thể) chứ không phải kết nối vật lý giữa các vùng. Bằng chứng về các kết nối trực tiếp về cấu trúc giải phẫu trong não người rất thưa thớt, mặc dù các kỹ thuật hình ảnh mới hơn như DTI cung cấp một số chi tiết về cấu trúc. Mạng lưới vỏ -vỏ quy mô lớn liên kết các khu vực phân tán tổ chức các chức năng biệt định, chẳng hạn như sự chú ý hoặc trí nhớ, đã được đề xuất từ lâu và hiện đang được nghiên cứu dễ dàng hơn với các kỹ thuật hình ảnh thần kinh nói trên. Nhiều mạng đã được mô tả, nhưng ba mạng cụ thể nhận được sự tập trung lớn nhất.

Mạng điều hành trung tâm bao gồm DLPFC và nhiều vùng của vỏ não đỉnh sau ngoài và tham gia vào một số chức năng nhận thức như chú ý, trí nhớ làm việc và ra quyết định (Bảng) .

Mạng nổi bật, bao gồm vỏ não đai trước (ACC), vỏ não trán trước bụng trong (VMPFC) và thùy đảo, phản ứng với mức độ nổi bật của thông tin nhận thức, cân bằng nội môi hoặc cảm xúc (Bảng).

Có lẽ mạng có tính nội tại nhất đã được mô tả là mạng chế độ mặc định, được hình thành bởi vỏ não trán trước trong, vỏ não đai sau và các vùng bên trong của vỏ não đỉnh sau. Các vùng não của mạng chế độ mặc định hoạt động khi một người đang nghỉ ngơi và không tham gia vào một nhiệm vụ do bên ngoài gợi ý, khiến các nhà nghiên cứu đưa ra giả thuyết rằng mạng này liên quan đến các chế độ nhận thức bên trong bao gồm nhớ lại trải nghiệm cá nhân, hình dung tương lai và lý thuyết tâm trí (Bảng ).

Các nghiên cứu gần đây cho thấy rằng ba mạng này tương tác với nhau, với mạng nổi bật hoạt động như một công tắc giữa mạng điều hành trung tâm tích cực với nhiệm vụ và mạng chế độ mặc định phủ định nhiệm vụ. Vùng trán-đảo của mạng nổi bật dường như đóng một vai trò quan trọng trong việc chuyển đổi giữa chế độ mặc định và mạng điều hành trung tâm. Thật thú vị, lớp tế bào thần kinh von Economo đặc trưng của người chỉ được tìm thấy ở vỏ não trán-đảo và có ý kiến ​​cho rằng những tế bào thần kinh này chịu trách nhiệm về khả năng chuyển đổi của mạng nổi bật.

Bảng . Mạng chức năng trong vỏ não

Mạng lướiVùng não liên quanChức năng
Điều hành trung tâmDLPFC
Vỏ não đỉnh sau ngoài
Chú ý
Trí nhớ làm việc
Ra quyết định
Nổi bậtVỏ não đai trước
VMPFC
Thùy đảo
Kiểm soát kích thích đến
Mặc địnhVỏ não trán trước trong
Vỏ não đai sau
Vỏ não đỉnh sau trong
Nhận thức bên trong
Thuyết tâm trí

Cho rằng các mạng lưới này liên quan đến việc xử lý thông tin nhận thức và cảm xúc, không có gì ngạc nhiên khi sự rối loạn chức năng của chúng có liên quan đến nhiều loại rối loạn tâm thần kinh. Ví dụ, những người bị trầm cảm có khả năng kết nối chức năng cao bất thường trong mạng chế độ mặc định và giảm khả năng kết nối giữa các khu vực liên quan đến mạng điều hành trung tâm. Trong bệnh tâm thần phân liệt, sự kết nối chức năng qua chế độ mặc định, mạng điều hành trung tâm và mạng nổi bật ít được tổ chức hơn. Đặc biệt, rối loạn chức năng mạng nổi bật, có lẽ do giảm chất xám trong thùy đảo và / hoặc hồi đai trước, dẫn đến sự mất cân bằng giữa mạng chế độ mặc định và mạng điều hành trung tâm. Sự cố kết nối mạng này có thể dẫn đến sự gián đoạn khả năng phân biệt giữa thế giới bên ngoài và những suy nghĩ và cảm nhận bên trong, biểu hiện dưới dạng các triệu chứng rối loạn tâm thần như hoang tưởng và ảo giác.

Lời nói đầu cho DSM 5- trong bản DSM 5- TR năm 2022

Những văn bản thế này trong một cuốn sách thường cung cấp những góc nhìn khái quát cần có trước khi đi vào nội dung. Nó cung cấp các giới thiệu, các so sánh, thậm chí các hướng tham khảo thêm cho người đọc. Vì vậy, tôi trích dịch ở đây phần lời nói đầu này, dù rằng được viết cho DSM5, ra đời năm 2013, nhưng ở trong cuốn DSM5- TR ra đời năm 2022, hẳn sẽ cung cấp cho các nhà lâm sàng cũng như các nhà nghiên cứu những thông tin cần thiết cho việc sử dụng DSM.

Cũng có thể tham khảo thêm ở ( đây ) về sự thay đổi trong DSM5, so với DSM IV- TR, để hiểu các cập nhật kiến thức trong các lĩnh vực rối loạn tâm thần.

Đặc biệt thú vị là thông tin về cách sắp xếp các chương trong DSM5 đi theo thứ tự vòng đời con người- một cách tiếp cận rất ‘tâm lý học‘.

Lời tựa cho DSM-5

Cẩm nang Chẩn đoán và Thống kê Rối loạn Tâm thần (DSM) của Hiệp hội Tâm thần Hoa Kỳ là một phân loại các rối loạn tâm thần với các tiêu chí liên quan được thiết kế để tạo điều kiện chẩn đoán đáng tin cậy hơn cho các rối loạn này. Với những lần xuất bản liên tiếp trong hơn 60 năm qua, nó đã trở thành tài liệu tham khảo tiêu chuẩn cho thực hành lâm sàng trong lĩnh vực sức khỏe tâm thần. Do không thể mô tả đầy đủ các quá trình bệnh lý cơ bản đối với hầu hết các rối loạn tâm thần, điều quan trọng là phải nhấn mạnh rằng các tiêu chuẩn chẩn đoán hiện tại là mô tả tốt nhất hiện có về cách các rối loạn tâm thần được biểu hiện và có thể được các bác sĩ lâm sàng được đào tạo nhận ra. DSM nhằm mục đích phục vụ như một hướng dẫn thực tế, chức năng và linh hoạt để sắp xếp thông tin có thể hỗ trợ chẩn đoán và điều trị chính xác các rối loạn tâm thần. Nó là một công cụ cho các bác sĩ lâm sàng, một tài nguyên giáo dục cần thiết cho sinh viên và các học viên, đồng thời là tài liệu tham khảo cho các nhà nghiên cứu trong lĩnh vực này.

Mặc dù phiên bản DSM này trước hết được thiết kế để trở thành một hướng dẫn hữu ích cho thực hành lâm sàng, nhưng với tư cách là một danh pháp chính thức, nó phải được áp dụng trong nhiều ngữ cảnh khác nhau. DSM đã được sử dụng bởi các bác sĩ lâm sàng và các nhà nghiên cứu từ các định hướng khác nhau (sinh học, tâm động học, nhận thức, hành vi, giữa các cá nhân, gia đình/hệ thống), tất cả đều cố gắng đạt được một ngôn ngữ chung để truyền đạt các đặc điểm thiết yếu của các rối loạn tâm thần mà bệnh nhân của họ thể hiện. Thông tin này có giá trị đối với tất cả các chuyên gia liên quan đến các khía cạnh khác nhau của chăm sóc sức khỏe tâm thần, bao gồm bác sĩ tâm thần, bác sĩ khác, nhà tâm lý học, nhân viên xã hội, y tá, cố vấn, chuyên gia pháp y và pháp lý, nhà hoạt động trị liệu và phục hồi chức năng cũng như các chuyên gia y tế khác. Các tiêu chí ngắn gọn, rõ ràng và nhằm mục đích tạo thuận lợi cho việc đánh giá khách quan các biểu hiện triệu chứng trong nhiều môi trường lâm sàng – bệnh nhân nội trú, ngoại trú, bệnh viện bán phần, tư vấn-liên lạc, lâm sàng, hành nghề tư nhân và chăm sóc ban đầu – cũng như trong các nghiên cứu dịch tễ học cộng đồng nói chung của rối loạn tâm thần. DSM-5 cũng là một công cụ để thu thập và truyền đạt các số liệu thống kê y tế công cộng chính xác về tỷ lệ mắc và tử vong do rối loạn tâm thần. Cuối cùng, các tiêu chí và văn bản tương ứng đóng vai trò là sách giáo khoa dành cho sinh viên mới vào nghề, những người cần một cách thức có cấu trúc để hiểu và chẩn đoán các rối loạn tâm thần cũng như cho các chuyên gia dày dặn kinh nghiệm lần đầu tiên gặp phải các rối loạn hiếm gặp. May mắn thay, tất cả những cách sử dụng này đều tương thích lẫn nhau.

Những nhu cầu và lợi ích đa dạng này đã được xem xét khi lập kế hoạch DSM-5. Việc phân loại các rối loạn được hài hòa với Phân loại Quốc tế về Bệnh tật của Tổ chức Y tế Thế giới (ICD), hệ thống mã hóa chính thức được sử dụng ở Hoa Kỳ, để tiêu chí DSM xác định các rối loạn được xác định bằng tên và mã số chẩn đoán của ICD. Trong DSM-5, cả hai mã ICD-9-CM và ICD-10-CM (mã sau dự kiến được thông qua vào tháng 10 năm 2015) đều được gắn với các rối loạn liên quan trong phân loại.

Mặc dù DSM-5 vẫn là một phân loại cụ thể của các rối loạn riêng biệt, nhưng chúng tôi nhận ra rằng các rối loạn tâm thần không phải lúc nào cũng hoàn toàn phù hợp với ranh giới của một rối loạn đơn lẻ. Một số lĩnh vực triệu chứng, chẳng hạn như trầm cảm và lo lắng, liên quan đến nhiều loại chẩn đoán và có thể phản ánh các lỗ hổng cơ bản phổ biến đối với một nhóm rối loạn lớn hơn. Để công nhận thực tế này, các rối loạn có trong DSM-5 đã được sắp xếp lại thành một cấu trúc tổ chức sửa đổi nhằm kích thích các quan điểm lâm sàng mới. Cấu trúc mới này tương ứng với sự sắp xếp tổ chức các rối loạn được lên kế hoạch cho ICD-11 dự kiến phát hành vào năm 2015. Các cải tiến khác đã được giới thiệu để thúc đẩy tính dễ sử dụng trên tất cả các cài đặt:

• Trình bày các vấn đề phát triển liên quan đến chẩn đoán. Sự thay đổi trong cách sắp xếp chương phản ánh tốt hơn cách tiếp cận tuổi thọ, với các rối loạn được chẩn đoán thường xuyên hơn ở thời thơ ấu (ví dụ: rối loạn phát triển thần kinh) ở phần đầu của sách hướng dẫn và các rối loạn phù hợp hơn với tuổi trưởng thành (ví dụ: rối loạn nhận thức thần kinh) ở phần cuối của sách hướng dẫn. Ngoài ra, trong văn bản, các tiêu đề phụ về phát triển và tiến triển, cung cấp các mô tả về cách các biểu hiện rối loạn có thể thay đổi trong suốt vòng đời. Các yếu tố liên quan đến tuổi đặc trưng cho chẩn đoán (ví dụ: biểu hiện triệu chứng và sự khác biệt về tỷ lệ mắc bệnh ở các nhóm tuổi nhất định) cũng được đưa vào văn bản. Để nhấn mạnh thêm, các yếu tố liên quan đến tuổi tác này đã được thêm vào chính các tiêu chí khi áp dụng (ví dụ: trong bộ tiêu chí về rối loạn mất ngủ và rối loạn căng thẳng sau chấn thương, các tiêu chí cụ thể mô tả cách các triệu chứng có thể biểu hiện ở trẻ em). Tương tự như vậy, các vấn đề về giới tính và văn hóa đã được lồng ghép vào các rối loạn nếu có.

• Tích hợp các phát hiện khoa học từ nghiên cứu mới nhất về di truyền học và hình ảnh học thần kinh. Cấu trúc chương sửa đổi đã được thông báo bởi nghiên cứu gần đây về khoa học thần kinh và bởi các mối liên kết di truyền mới phát hiện giữa các nhóm chẩn đoán. Các yếu tố rủi ro về di truyền và sinh lý, các chỉ số tiên lượng và một số dấu hiệu chẩn đoán giả định được đánh dấu trong văn bản. Cấu trúc mới này sẽ cải thiện khả năng của bác sĩ lâm sàng trong việc xác định chẩn đoán trong phổ rối loạn dựa trên mạch thần kinh thông thường, tính dễ bị tổn thương di truyền và phơi nhiễm môi trường.

• Tổng hợp rối loạn tự kỷ, rối loạn Asperger và rối loạn phát triển lan tỏa thành rối loạn phổ tự kỷ. Các triệu chứng của các rối loạn này đại diện cho một chuỗi suy giảm từ nhẹ đến nặng trong hai lĩnh vực giao tiếp xã hội và các hành vi/sở thích hạn chế lặp đi lặp lại hơn là các rối loạn riêng biệt. Thay đổi này được thiết kế để cải thiện độ nhạy và độ đặc hiệu của các tiêu chí chẩn đoán rối loạn phổ tự kỷ và để xác định các mục tiêu điều trị tập trung hơn cho các khiếm khuyết cụ thể được xác định.

• Phân loại hợp lý các rối loạn lưỡng cực và trầm cảm. Rối loạn lưỡng cực và trầm cảm là những tình trạng được chẩn đoán phổ biến nhất trong tâm thần học. Do đó, điều quan trọng là hợp lý hóa việc trình bày các rối loạn này để tăng cường sử dụng cả về lâm sàng và giáo dục. Thay vì tách định nghĩa về các giai đoạn hưng cảm, hưng cảm nhẹ và trầm cảm điển hình khỏi định nghĩa về rối loạn lưỡng cực I, rối loạn lưỡng cực II và rối loạn trầm cảm điển hình như trong ấn bản trước, chúng tôi đưa tất cả các tiêu chí thành phần vào tiêu chí tương ứng cho từng rối loạn. . Cách tiếp cận này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc chẩn đoán và điều trị các rối loạn quan trọng này. Tương tự như vậy, các ghi chú giải thích để phân biệt mất người thân và rối loạn trầm cảm điển hình sẽ cung cấp hướng dẫn lâm sàng lớn hơn nhiều so với trước đây được cung cấp trong tiêu chí loại trừ việc mất người thân đơn giản. Các dấu hiệu mới của tình trạng đau khổ do lo âu và các đặc điểm hỗn hợp hiện được mô tả đầy đủ trong phần tường thuật về các biến thể của dấu hiệu xác định đi kèm với các tiêu chí cho các rối loạn này.

• Cơ cấu lại các rối loạn sử dụng chất gây nghiện để có sự nhất quán và rõ ràng. Các loại lạm dụng chất gây nghiện và lệ thuộc chất gây nghiện đã bị loại bỏ và thay thế bằng một loại mới bao quát các rối loạn sử dụng chất gây nghiện – với chất cụ thể được sử dụng xác định các rối loạn cụ thể. “Sự phụ thuộc” rất dễ bị nhầm lẫn với thuật ngữ “nghiện” khi trên thực tế, sự dung nạp và cai nghiện mà sự phụ thuộc được xác định trước đó thực sự là những phản ứng rất bình thường đối với các loại thuốc được kê đơn ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung ương và không nhất thiết chỉ ra sự hiện diện của nghiện . Bằng cách sửa đổi và làm rõ các tiêu chí này trong DSM-5, chúng tôi hy vọng sẽ giảm bớt một số hiểu lầm phổ biến về những vấn đề này.

• Nâng cao tính đặc hiệu đối với các rối loạn nhận thức thần kinh nặng và nhẹ. Với sự bùng nổ của khoa học thần kinh, tâm lý học thần kinh và hình ảnh não bộ trong 20 năm qua, điều quan trọng là phải truyền tải công nghệ tiên tiến nhất hiện nay trong chẩn đoán các loại rối loạn cụ thể mà trước đây được gọi là “chứng mất trí nhớ” hoặc bệnh não thực thể. Các dấu hiệu sinh học được xác định bằng hình ảnh đối với các rối loạn mạch máu và chấn thương não cũng như các phát hiện di truyền phân tử cụ thể đối với các biến thể hiếm gặp của bệnh Alzheimer và bệnh Huntington đã đưa ra các chẩn đoán lâm sàng tiên tiến hơn rất nhiều, và các rối loạn này cũng như các rối loạn khác hiện đã được phân tách thành các thể bệnh biệt định.

• Chuyển tiếp trong khái niệm rối loạn nhân cách. Mặc dù những lợi ích của cách tiếp cận nhiều chiều hơn đối với rối loạn nhân cách đã được xác định trong các ấn bản trước, nhưng việc chuyển đổi từ hệ thống chẩn đoán phân loại các rối loạn cá nhân sang hệ thống dựa trên sự phân bố tương đối của các đặc điểm tính cách đã không được chấp nhận rộng rãi. Trong DSM-5, các rối loạn nhân cách phân loại hầu như không thay đổi so với phiên bản trước. Tuy nhiên, một mô hình “kết hợp” thay thế đã được đề xuất trong Phần III để hướng dẫn nghiên cứu trong tương lai, phân tách các đánh giá về chức năng giữa các cá nhân và biểu hiện của các đặc điểm nhân cách bệnh lý đối với sáu rối loạn cụ thể. Một hồ sơ đa chiều hơn về biểu hiện đặc điểm tính cách cũng được đề xuất cho cách tiếp cận đặc điểm.

• Phần III: các rối loạn và đặc điểm mới. Một phần mới (Phần III) đã được thêm vào để làm nổi bật các rối loạn cần nghiên cứu thêm nhưng chưa được thiết lập đầy đủ để trở thành một phần của phân loại chính thức các rối loạn tâm thần để sử dụng lâm sàng thông thường. Các biện pháp đo lường mức độ nghiêm trọng của triệu chứng trong 13 lĩnh vực triệu chứng cũng đã được kết hợp để cho phép đo lường mức độ nghiêm trọng khác nhau của triệu chứng trên tất cả các nhóm chẩn đoán. Tương tự như vậy, Lịch đánh giá tình trạng khuyết tật của WHO (WHODAS), một phương pháp tiêu chuẩn để đánh giá mức độ khuyết tật toàn thể đối với các rối loạn tâm thần dựa trên Bảng phân loại quốc tế về chức năng, khuyết tật và sức khỏe (ICF) và được áp dụng trong tất cả các ngành y, đã được cung cấp cho thay thế cho cái hạn chế hơn,  là thang đo Đánh giá Hoạt động Toàn thể. Chúng tôi hy vọng rằng khi các biện pháp này được triển khai theo thời gian, chúng sẽ mang lại độ chính xác và tính linh hoạt cao hơn trong mô tả lâm sàng về các biểu hiện triệu chứng của từng cá nhân và tình trạng khuyết tật liên quan trong quá trình đánh giá chẩn đoán.

• Cải tiến trực tuyến. DSM-5 có thông tin bổ sung trực tuyến. Các biện pháp chẩn đoán mức độ nghiêm trọng và xuyên suốt bổ sung có sẵn trực tuyến (www.psychiatry.org/dsm5), được liên kết với các rối loạn liên quan. Ngoài ra, Phỏng vấn Sự hình thành Văn hóa, Phiên bản Phỏng vấn Sự hình thành Văn hóa-Người cung cấp thông tin, và các module bổ sung cho Cuộc phỏng vấn Sự hình thành Văn hóa cốt lõi cũng được đưa vào trực tuyến tại http://www.psychiatry.org/dsm5.

Những đổi mới này được thiết kế bởi các cơ quan hàng đầu về rối loạn tâm thần trên thế giới và được thực hiện trên cơ sở đánh giá của chuyên gia, bình luận công khai và đánh giá ngang hàng độc lập của họ. 13 nhóm làm việc, dưới sự chỉ đạo của Nhóm đặc nhiệm DSM-5, kết hợp với các cơ quan đánh giá khác và cuối cùng là Hội đồng quản trị APA, đại diện chung cho chuyên môn toàn cầu của chuyên ngành. Nỗ lực này được hỗ trợ bởi một cơ sở rộng lớn gồm các cố vấn và bởi đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp của Phòng Nghiên cứu APA; tên của tất cả những người liên quan có quá nhiều để đề cập ở đây nhưng được liệt kê trong Phụ lục. Chúng tôi vô cùng cảm ơn những người đã dành vô số thời gian và kinh nghiệm chuyên môn vô giá cho nỗ lực này nhằm cải thiện việc chẩn đoán các rối loạn tâm thần.

Chúng tôi đặc biệt muốn cảm ơn những người chủ trì, điều phối viên văn bản và các thành viên của 13 nhóm làm việc, được liệt kê ở phần đầu của sổ tay hướng dẫn, những người đã dành nhiều giờ cho nỗ lực tình nguyện này nhằm cải thiện cơ sở khoa học của thực hành lâm sàng trong suốt 6 năm bền vững. Giai đoạn. Susan K. Schultz, M.D., từng là người soạn thảo văn bản, đã làm việc không mệt mỏi với Emily A. Kuhl, Tiến sĩ, nhà văn khoa học cấp cao và nhân viên soạn thảo văn bản DSM-5, để phối hợp nỗ lực của các nhóm làm việc thành một tổng thể gắn kết. William E. Narrow, M.D., M.P.H., đã lãnh đạo nhóm nghiên cứu phát triển chiến lược nghiên cứu tổng thể cho DSM-5, bao gồm cả các thử nghiệm thực địa, giúp tăng cường đáng kể cơ sở bằng chứng cho bản sửa đổi này. Ngoài ra, chúng tôi rất biết ơn những người đã đóng góp rất nhiều thời gian cho việc đánh giá độc lập các đề xuất sửa đổi, bao gồm Kenneth S. Kendler, M.D., và Robert Freedman, M.D., đồng chủ tịch của Ủy ban Đánh giá Khoa học; John S. McIntyre, M.D., và Joel Yager, M.D., đồng chủ tịch của Ủy ban Y tế Công cộng và Lâm sàng; và Glenn Martin, M.D., chủ tịch quá trình xem xét của Hội đồng APA. Xin gửi lời cảm ơn đặc biệt đến Helena C. Kraemer, Ph.D., vì sự tư vấn chuyên môn về thống kê của cô ấy; Michael B. First, M.D., vì những đóng góp có giá trị của ông về việc mã hóa và xem xét các tiêu chí; và Paul S. Appelbaum, M.D., để nhận phản hồi về các vấn đề pháp y. Maria N. Ward, M.Ed., RHIT, CCS-P, cũng giúp xác minh tất cả mã hóa ICD. Nhóm Summit, bao gồm các chuyên gia tư vấn này, chủ tịch của tất cả các nhóm đánh giá, chủ tịch lực lượng đặc nhiệm và các quan chức điều hành APA, do Dilip V. Jeste, M.D. làm chủ tịch, đã cung cấp khả năng lãnh đạo và tầm nhìn trong việc giúp đạt được sự thỏa hiệp và đồng thuận. Mức độ cam kết này đã góp phần tạo nên sự cân bằng và khách quan mà chúng tôi cảm thấy là đặc điểm nổi bật của DSM-5.

Chúng tôi đặc biệt mong muốn ghi nhận các nhân viên xuất sắc của Phòng Nghiên cứu APA – được xác định trong danh sách Nhóm Công tác và Lực lượng Đặc nhiệm ở phía trước sổ tay hướng dẫn này – những người đã làm việc không mệt mỏi để tương tác với lực lượng đặc nhiệm, các nhóm làm việc, cố vấn và người đánh giá để giải quyết các vấn đề, đóng vai trò là người liên lạc giữa các nhóm, chỉ đạo và quản lý các thử nghiệm thực địa lâm sàng thông thường và học thuật, đồng thời ghi lại các quyết định trong quy trình quan trọng này. Đặc biệt, chúng tôi đánh giá cao sự hỗ trợ và hướng dẫn của James H. Scully Jr., M.D., Giám đốc Y tế kiêm Giám đốc điều hành của APA, trong suốt nhiều năm và những khó khăn của quá trình phát triển. Cuối cùng, chúng tôi cảm ơn đội ngũ biên tập và sản xuất của Nhà xuất bản Tâm thần Hoa Kỳ – cụ thể là Nhà xuất bản Rebecca Rinehart; John McDuffie, Giám đốc biên tập; Ann Eng, Biên tập viên cao cấp; Greg Kuny, Tổng biên tập; và Tammy Cordova, Giám đốc thiết kế đồ họa – để được hướng dẫn trong việc kết hợp tất cả những điều này lại với nhau và tạo ra sản phẩm cuối cùng. Đó là nỗ lực đỉnh cao của nhiều cá nhân tài năng, những người đã dành thời gian, chuyên môn và niềm đam mê của họ để biến DSM-5 thành hiện thực.

David J. Kupfer, M.D. Chủ tịch Nhóm  Đặc nhiệm DSM-5 Darrel A. Regier, M.D., M.P.H. Phó Chủ tịch Nhóm  Đặc nhiệm DSM-5 19 Tháng mười hai, 2012

CÁC MÔ HÌNH GIÁO DỤC ĐẶC BIỆT

Bài viết dựa trên cuốn sách “Hướng dẫn chăm sóc trẻ tự kỉ tại nhà”- một công trình do PNJ tài trợ cho một nhóm tác giả. Tuy vậy, nội dung sách không được thống nhất và chưa nổi bật được các yếu tố “tại nhà”. Và việc mô tả các mô hình giáo dục đặc biệt sau cần nhấn mạnh rằng, nó được tổ chức cho các dạng khuyết tật phát triển nói chung, do sự liên quan lẫn nhau của các dạng khuyết tật. Với từng dạng khuyết tật biệt định, cần có hướng dẫn cụ thể riêng. Và sách thì cũng chưa nhấn mạnh được hướng dẫn cụ thể riêng cho trẻ tự kỉ.

Các mô hình giáo dục học sinh các dạng khuyết tật, tuy có nhiều dạng khuyết tật khác nhau nhưng tựu chung có thể quy về ba dạng cơ bản, gồm Chuyên biệt, Hội nhập Hòa nhập. Giáo dục hòa nhập là mục tiêu cao nhất mà trẻ rối loạn phổ tự kỷ hướng đến. Song không phải trẻ nào cũng có thể học hòa nhập. Và mỗi mô hình giáo dục đều có những điểm tích cực và hạn chế riêng. Cha mẹ nên dựa trên khả năng của con và ưu nhược điểm của các mô hình giáo dục mà lựa chọn mô hình giáo dục phù hợp cho con.

Mô hình giáo dục chuyên biệt 

Mô hình giáo dục chuyên biệt cho trẻ rối loạn phổ tự kỷ là phương thức giáo dục tách biệt trẻ rối loạn phổ tự kỷ vào cơ sở giáo dục riêng theo các chương trình giáo dục riêng. Mô hình giáo dục chuyên biệt thường được xác định là phù hợp với trẻ rối loạn phổ tự kỷ mức độ nặng hoặc có hành vi không thể hòa nhập. Mô hình này cũng phù hợp với trẻ rối loạn phổ tự kỷ có khả năng đặc biệt, cần được giáo dục theo chương trình riêng để phát huy khả năng đặc biệt của mình.

Về cơ bản mô hình giáo dục chuyên biệt cho trẻ rối loạn phổ tự kỷ hướng đến các mục tiêu chính sau:

(1) Mục tiêu nhân đạo- trẻ rối loạn phổ tự kỷ là đối tượng trợ giúp của các tấm lòng hảo tâm, tuy nhiên rối loạn phổ tự kỷ trong quan niệm thường được xem là ‘bệnh của nhà giàu’ do vậy mục tiêu này không rõ như ở mô hình giáo dục chuyên biệt dành cho các dạng khuyết tật khác;

(2) Mục tiêu chăm sóc, giáo dục, phục hồi chức năng- đây là mục tiêu chính với trẻ rối loạn phổ tự kỷ, tùy vào mức độ khuyết tật mà việc xác định các mục tiêu chăm sóc giáo dục phục hồi chức năng khác nhau;

(3) Mục tiêu giám sát, quản lý- mô hình giáo dục chuyên biệt đáp ứng việc tách biệt và giám sát trẻ rối loạn phổ tự kỷ, ở nhiều nơi mục tiêu này trở thành mục tiêu chính, trẻ rối loạn phổ tự kỷ, đặc biệt nhóm nặng, khi đến tuổi vị thành niên mà không có khả năng học hòa nhập thường được đưa vào các trường chuyên biệt với mục tiêu giám sát quản lý. Mô hình “ngôi nhà dành cho người rối loạn phổ tự kỷ” với tính chất tương tự như mô hình giáo dục chuyên biệt, dành cho tuổi trưởng thành, khá phổ biến ở những nước phát triển.

Ưu điểm của mô hình giáo dục chuyên biệt là có thể đáp ứng đặc điểm của rối loạn phổ tự kỷ và từng cá nhân trẻ rối loạn phổ tự kỷ với chương trình giáo dục riêng thông qua kế hoạch giáo dục cá nhân. Điều kiện giáo dục tại mô hình giáo dục chuyên biệt được xây dựng phù hợp với trẻ rối loạn phổ tự kỷ (trình độ chuyên môn của giáo viên, tỷ lệ giáo viên/học sinh, cơ sở vật chất và phương tiện dạy học…) Quy trình tổ chức các hoạt động giáo dục của trường chuyên biệt phù hợp với trẻ rối loạn phổ tự kỷ. Các trẻ được đánh giá thường xuyên và lập kế hoạch giáo dục cá nhân theo định kỳ. Hoạt động giáo dục ở trường chuyên biệt khá mở và phù hợp với nhóm, hoặc từng học sinh. Trẻ rối loạn phổ tự kỷ được đánh giá theo kế hoạch giáo dục cá nhân do vậy không quá tạo áp lực lên trẻ và giáo viên.

Nhược điểm của mô hình giáo dục chuyên biệt là sự giáo dục tách biệt sẽ mang lại cho trẻ rối loạn phổ tự kỷ những mặc cảm, tự ti và những cản trở cho các em phát triển hết khả năng của mình. Hơn nữa sự tách biệt về giáo dục dẫn đến sự tách biệt trẻ rối loạn phổ tự kỷ ra khỏi cộng đồng sau này. Từ nhỏ đã không được hưởng sự bình đẳng về học tập thì khi lớn lên, trưởng thành, trẻ không thể trở thành những thành viên bình đẳng ngoài xã hội. Nhiều học sinh sau khi kết thúc chương trình học lại phải bắt đầu lại từ đầu việc tái hòa nhập xã hội. Ngoài ra, mô hình giáo dục chuyên biệt rất tốn kém, chi phí cao cho xây dựng cơ sở vật chất, đào tạo đội ngũ giáo viên riêng và khó huy động được các lực lượng giáo dục khác tham gia vào giáo dục.

Mô hình giáo dục hội nhập

Giáo dục hội nhập trẻ rối loạn phổ tự kỷ là phương thức giáo dục trẻ rối loạn phổ tự kỷ trong lớp chuyên biệt, được đặt trong các trường bình thường. Trong quá trình giáo dục, trẻ rối loạn phổ tự kỷ nào có đủ điều kiện sẽ được học chung một số môn hoặc tham gia một số hoạt động cùng các bạn khác.

Mục tiêu chăm sóc, giáo dục, phục hồi chức năng cũng là mục tiêu chính với trẻ rối loạn phổ tự kỷ. Tùy vào mức độ khuyết tật mà việc xác định các mục tiêu chăm sóc, giáo dục, phục hồi chức năng khác nhau. Tuy nhiên mục tiêu chăm sóc và phục hồi chức năng có phần giảm nhẹ so với mô hình giáo dục chuyên biệt. Chương trình giáo dục cho trẻ rối loạn phổ tự kỷ cũng hướng đến chương trình giáo dục chung mặc dù hướng tiếp cận cá nhân hóa vẫn được chú trọng.

Mục tiêu giám sát, quản lý cũng ít được chú trọng như ở mô hình giáo dục chuyên biệt. Việc các em được giáo dục chủ yếu trong lớp chuyên biệt và chỉ được tham gia một phần vào hoạt động của trường, cũng như các lớp hòa nhập, vẫn thể hiện rõ mục tiêu giám sát và quản lý của mô hình giáo dục này. Trẻ rối loạn phổ tự kỷ vốn gặp nhiều khó khăn về giao tiếp xã hội cũng như điều chỉnh hành vi cá nhân của mình, có thể gây ảnh hưởng đến hoạt động chung của lớp học hòa nhập. Mô hình giáo dục hội nhập vì vậy mà thường được xem là hòa nhập ở mức độ trung gian giữa hai mô hình giáo dục chuyên biệt và hòa nhập.

Ưu điểm của mô hình giáo dục hội nhập là giáo viên tiểu học và giáo viên được đào tạo về dạy trẻ rối loạn phổ tự kỷ cùng tham gia công tác chăm sóc và giáo dục trẻ rối loạn phổ tự kỷ. Do vậy các em được hỗ trợ nhiều hơn từ những thế mạnh của hai nhóm giáo viên này. Trẻ rối loạn phổ tự kỷ tham gia mô hình giáo dục hội nhập, vừa được hỗ trợ cá nhân hóa một cách thường xuyên (lợi điểm của mô hình giáo dục chuyên biệt), vừa được tham gia một cách tích cực và bình đẳng vào các hoạt động giáo dục chung của trẻ không khuyết tật (lợi điểm của mô hình giáo dục hòa nhập).

Hạn chế của mô hình giáo dục hội nhập là trẻ rối loạn phổ tự kỷ chưa thực sự hòa nhập với các bạn trong mọi hoạt động. Việc học tập của trẻ rối loạn phổ tự kỷ trong lớp chuyên biệt theo một chương trình riêng, không trùng lặp với chương trình giáo dục chung, nên các em cũng gặp nhiều khó khăn trong quá trình hòa nhập. Nhiều trẻ rối loạn phổ tự kỷ bị ức chế tâm lý không muốn học trong lớp chuyên biệt, vì giữa các em và trẻ không khuyết tật vẫn còn quá nhiều khoảng cách.

Mô hình giáo dục hòa nhập 

Giáo dục hòa nhập trẻ rối loạn phổ tự kỷ là phương thức giáo dục mọi học sinh trong đó trẻ rối loạn cổ tự kỷ cũng được học như các trẻ khác trong trường bình thường. 

Mục tiêu giáo dục được chú trọng, trong khi các mục tiêu về chăm sóc, phục hồi chức năng có thể không được chú ý. Do vậy mô hình giáo dục hòa nhập chỉ thực sự phù hợp với những trẻ rối loạn phổ tự kỷ không có các nhu cầu đặc biệt về chăm sóc và phục hồi chức năng.

Mục tiêu giám sát và quản lý cũng không phải là trọng tâm của mô hình giáo dục này. Trẻ rối loạn phổ tự kỷ cần có các kỹ năng kiểm soát hành vi và thích ứng cá nhân để có thể độc lập trong các hoạt động tại trường. Trong một số trường hợp, mục tiêu hòa nhập xã hội cho trẻ rối loạn phổ tự kỷ còn được chú trọng hơn các mục tiêu về giáo dục.

Ưu điểm của mô hình giáo dục hòa nhập chính là sự phát huy tối đa quan điểm bình thường hóa hoạt động giáo dục trẻ rối loạn phổ tự kỷ trên nhiều phương diện (chương trình giáo dục, đối tượng tương tác là các trẻ không khuyết tật cùng độ tuổi…). Sự thành công trong môi trường giáo dục hòa nhập của trẻ rối loạn phổ tự kỷ giúp các em gắn với cơ hội hòa nhập ở các môi trường khác. Việc tiếp cận với các lớp học hòa nhập với trẻ rối loạn phổ tự kỷ cũng thuận lợi hơn về mặt địa lý và bản thân gia đình các em cũng giảm các áp lực về tâm lý, tài chính. 

Hạn chế của mô hình giáo dục hòa nhập chính là sự hạn chế về cơ hội tiếp cận cá nhân hóa trẻ rối loạn phổ tự kỷ. Điều đó khiến cho không chỉ khả năng của cá nhân mỗi trẻ rối loạn phổ tự kỷ không được phát huy, mà còn ảnh hưởng đến cơ hội hòa nhập của các em. Những trẻ rối loạn phổ tự kỷ có những hành vi bất thường không chỉ gây ra cản trở cơ hội hòa nhập của cá nhân các em mà còn có thể ảnh hưởng đến không khí chung của lớp học hòa nhập.

Việc tham chiếu trong chẩn đoán lâm sàng trẻ có khuyết tật phát triển

Khái niệm tham chiếu hàm ý kết quả của các hoạt động tham gia đóng góp của các ngành lâm sàng nhau. Trong các tài liệu thường thấy hiện nay, có lẽ do việc marketing và quảng cáo, các nhà chuyên môn trong ngành lâm sàng thường được gọi là bác sĩ. Điều này có vẻ nâng cao vị thế cho các nhà nhà chuyên môn. Nhưng quả thực, nó gây nhầm lẫn không đáng có, vì bản chất hoạt động đa ngành luôn tôn trọng các nhà chuyên môn cho dù ở ngành nào. Việc phân biệt nên làm đúng vai trò của nó là giúp quá trình nhận thức khái niệm hóa chính xác và lập luận xác đáng.

Đơn giản hóa, các bác sĩ thì được kê đơn thuốc- các nhà lâm sàng khác có thể can thiệp, mà không kê đơn thuốc, trừ một số ngoại lệ có quy định bằng văn bản. Vậy mà không phải rối loạn bệnh tật nào cũng có thuốc điều trị để mà kê đơn. Cho nên, không cần làm rối khái niệm.

Phần sau đây trích dịch từ Neuropsychological Evaluation of the Child của Baron, Nhà xuất bản Đại học Oxford, có biên soạn và bổ sung thông tin.

LẬP LUẬN THAM CHIẾU

Việc giới thiệu đến nhà tâm lý thần kinh trẻ em là phù hợp vì các lý do lâm sàng, nghiên cứu và/hoặc học thuật khác nhau. Đánh giá tâm lý thần kinh đã tiến bộ đáng kể so với các đánh giá “tính thực thể” đã lỗi thời, khi mà một công cụ kiểm tra duy nhất nào đó thường được coi là một sàng lọc đầy đủ cho tổn thương não. Sự không chính xác của giả định đó hiện đã được hầu hết các nhà lâm sàng công nhận (Bigler và Ehrfurth, 1981), cùng với những hạn chế cố hữu trong việc sử dụng đơn lẻ bất kỳ một dụng cụ xét nghiệm nào. Thay vì các mối tương quan giữa kết quả xét nghiệm và hình ảnh giải phẫu não, là hồ sơ tổng thể xuất hiện trong một đánh giá bao gồm các kết quả test như một thành phần quan trọng (xem phần thảo luận về phân tích hồ sơ tổng hợp bên dưới). Kết quả xét nghiệm được xem xét, cùng với việc xem xét bệnh sử cẩn thận, quan sát lâm sàng sắc sảo và tôn trọng bối cảnh văn hóa xã hội, để hiểu rõ nhất chức năng nhận thức thần kinh của cá nhân. Quá trình đánh giá nhiều bước này đặc biệt quan trọng vì đánh giá tâm lý thần kinh có giá trị tiên đoán cho trẻ và thường sẽ là cơ sở cho các quyết định học tập hoặc nghề nghiệp cũng như thực hiện các lựa chọn trị liệu.

Thường gặp trong thực hành lâm sàng là các yêu cầu cung cấp thông tin về hoạt động hành vi và cảm xúc của trẻ để hiểu các vấn đề về hành vi hoặc học tập hiện có, và để phát triển một kế hoạch điều trị và/hoặc chiến lược can thiệp giáo dục. Có thể yêu cầu đánh giá để ghi lại liệu có tồn tại tiền sử rối loạn hệ thần kinh trung ương hay không, hoặc để dự đoán những tác động muộn của một tổn thương đã biết. Quá trình bệnh sử mà một trẻ mắc bệnh hoặc rối loạn, hoặc cách điều trị, có thể ảnh hưởng khác nhau đến chức năng của não ở các giai đoạn phát triển khác nhau, cần được thiết lập bằng một đánh giá cơ bản và được theo dõi theo thời gian. Quan tâm đến việc tiến hành một thực hành lâm sàng hoặc theo dõi theo chiều dọc sự phát triển trưởng thành thì có thể bắt đầu một loạt các tham chiếu.

Trong thực hành lâm sàng, nên ưu tiên xác định điểm mạnh cũng như điểm yếu của trẻ để (1) đưa ra các khuyến nghị thiết thực và có ý nghĩa nhằm cải thiện vấn đề hiện tại và (2) giáo dục tốt hơn trong nhà trường và gia đình với tình trạng của trẻ. Mặc dù các lý do tham chiếu hiếm gặp có thể xuất hiện trong quá trình hành nghề của một nhà lâm sàng, nhưng những lý do được chỉ định dưới đây phát sinh đối với bệnh nhân nội trú hoặc bệnh nhân ngoại trú và đặc biệt phổ biến ở nhiều cơ sở hành nghề:

Tham chiếu từ trường học

Trẻ em gặp các vấn đề về học tập hoặc hành vi trong môi trường học thuật đại diện cho một số lượng đáng kể các bệnh nhân ngoại trú được giới thiệu đến khoa tâm lý thần kinh trẻ em. Những đứa trẻ này thường được trưng cầu thông tin khi các cuộc tư vấn y tế và/hoặc tâm lý trước đó không giải thích đầy đủ hành vi quan sát được của chúng. Đôi khi, phụ huynh miễn cưỡng chấp nhận lời giải thích của hội đồng nhà trường và yêu cầu một cuộc tư vấn độc lập, hoặc ý kiến bổ sung, trước khi chấp nhận quyết định của nhà trường. Vào những thời điểm khác, bác sĩ thần kinh có thể là một trong những người đầu tiên được trưng cầu tư vấn khi nhiều yếu tố căn nguyên tiềm ẩn vẫn chưa được xem xét. Sau đó, việc giúp cha mẹ lựa chọn các cuộc tư vấn cần thiết và hỗ trợ hiệu quả cho con họ sẽ thuộc phạm vi hoạt động của nhà tâm lý học thần kinh, người hiện đang ở vị trí hướng dẫn gia đình tìm đến các nguồn lực sẽ giải quyết tốt nhất các vấn đề được nêu ra trong quá trình đánh giá.

Rõ ràng, các vấn đề ở trường học có thể xảy ra vì những lý do rất đa dạng. Không phải tất cả những điều này chủ yếu là tâm lý thần kinh về bản chất, nhưng đánh giá tâm lý thần kinh thường góp phần hiểu rõ hơn về nguyên nhân thực sự. Ví dụ, sự thất bại trong học tập quan sát được, hoặc các biểu hiện hành vi có vẻ khác thường so với độ tuổi theo thời gian, và hoàn cảnh theo ngữ cảnh của trẻ, có thể bắt đầu xem xét để xác nhận hoặc bác bỏ giả định về tình trạng khuyết tật học tập (LD). Nhà tâm lý học thần kinh có các kĩ thuật để xem xét chẩn đoán LD giả định trong khi xác định liệu một lời giải thích khác có ý nghĩa hơn hay không. Theo kết luận của cuộc đánh giá, nhà tâm lý học thần kinh có thể đặt đứa trẻ theo một chuỗi liên tục, từ chức năng nguyên vẹn và không có dấu hiệu LD nào, ở một cực này, đến những phát hiện tinh tế đặc trưng của trẻ mắc LD, đến LD rõ ràng và biệt định, đến khuyết tật học tập phức tạp hoặc đa dạng, ở cực kia. Thậm chí quan trọng hơn, việc mà đánh giá đã bác bỏ LD như một lời giải thích, có khả năng cung cấp một khuôn khổ thay đổi để hiểu đứa trẻ, một khuôn khổ có thể không phù hợp với lý do khi trưng cầu nhưng phù hợp với các hành vi đã đưa đứa trẻ đến sự chú ý của nhà lâm sàng.

Người ta phải tiến hành thận trọng khi trưng cầu, bao gồm chẩn đoán giả định chỉ dựa trên hành vi được quan sát. Hành vi công khai có thể che giấu một vấn đề góp phần có liên quan khác, sẽ được bộc lộ khi xem xét cẩn thận tất cả các yếu tố cá nhân, lịch sử, bối cảnh và tình trạng y tế có liên quan. Vì vậy, trong khi chẩn đoán hiếm khi là mục đích của việc đánh giá tâm lý thần kinh trẻ em, nó có thể mang lại kết quả tốt. Ví dụ, một bệnh nhân được cho là LD, trên thực tế có thể chỉ là triệu chứng của một căn nguyên tâm thần kinh cơ bản khác, chưa được phụ huynh hoặc giáo viên xem xét.

Ca lâm sàng: J. S. là một cậu bé 11 tuổi được giáo viên trưng cầu vì “khuyết tật học tập”. Bệnh án thần kinh rõ ràng là bất thường và cho thấy rối loạn chức năng khu trú bán cầu não phải , với chức năng thùy đỉnh cùng bên bị suy giảm rõ rệt. Do đó, chụp cộng hưởng từ (MRI) não đã được khuyến nghị, và nó cho thấy tình trạng bất ổn vỏ não đỉnh bên phải, có thể là do nguyên nhân thiếu máu cục bộ cũ. Do đó, trong trường hợp này, dữ liệu tâm lý học thần kinh buộc phải điều tra thêm và dẫn đến việc công nhận một tình trạng khuyết tật, trước đây đã không được xem xét, do tình trạng thần kinh ảnh hưởng tiêu cực đến kết quả học tập. “Chẩn đoán” bệnh LD có vẻ rõ ràng do giáo viên của cậu bé đưa ra, thực ra là triệu chứng hành vi của một tình trạng thần kinh chưa biết, nhưng có khả năng xảy ra, do đó, ảnh hưởng rất rõ rệt đến các khả năng biệt định đối với kết quả học tập.

Những đứa trẻ có hành vi không điển hình trong lớp học hoặc có phong cách riêng biệt, khiến giáo viên hoặc phụ huynh bối rối, cũng như chống lại những nỗ lực có cấu trúc thông thường để sửa đổi hành vi của chúng, thường được đưa ra để đánh giá. Chắc chắn kết quả nào đó sẽ có thể chịu trách nhiệm cho việc điều chỉnh cảm xúc không đúng cách hoặc rối loạn cảm xúc nguyên phát. Tuy nhiên, một giả định về căn nguyên cảm xúc cơ bản có thể không thỏa đáng hoặc không đầy đủ. Việc trưng cầu là phù hợp để xoa dịu mối lo ngại về những lý do liên quan đến các vấn đề học tập, thành tích kém hoặc hành vi bất thường. Điều quan trọng là phải làm rõ điểm mạnh và điểm yếu về nhận thức của trẻ để giải thích rõ hơn hành vi không điển hình của trẻ.

Tham chiếu từ gia đình

Hành vi bối rối, thể hiện ở nhà hoặc trong các bối cảnh môi trường khác, nhưng không được quan sát thấy ở trường, có thể khiến cha mẹ tìm kiếm sự đánh giá tâm lý thần kinh. Việc đánh giá rất hữu ích để kiểm tra tính toàn vẹn của chức năng tâm lý thần kinh, các yếu tố tâm lý cơ bản, việc đạt được các mốc phát triển và mức độ trưởng thành, hoặc hiệu quả của kỹ năng nuôi dạy con cái. Nó nhạy cảm với những sai lệch so với mong đợi. Ví dụ, một đánh giá có thể gợi ý rối loạn co giật, rối loạn khí sắc nghiêm trọng, chậm phát triển tâm thần hoặc ảnh hưởng muộn của tình trạng mắc phải như chấn thương sọ não trước đó. Nó cũng có thể làm nổi bật sự không nhất quán giữa các bậc cha mẹ trong việc đặt ra các giới hạn đối với hành vi của trẻ, đã góp phần gây ra vấn đề.

Mặc dù không phải là hiếm, nhưng sự khác biệt giữa báo cáo của phụ huynh và giáo viên cần được làm rõ. Sự khác biệt thực sự có thể tồn tại trong mỗi môi trường, nhưng thông thường, phụ huynh và giáo viên xem các hành vi tương tự khá khác nhau. Hai thiết lập rất khác nhau có thể tạo ra các bản trình bày hành vi hoàn toàn khác nhau. Các yếu tố như trình độ môn học, tuổi theo thời gian, quy mô lớp học hoặc tính khí của trẻ ảnh hưởng đến mối quan hệ giữa các cá nhân và phong cách học tập có thể ảnh hưởng đến nhận thức của giáo viên. Ví dụ, một đứa trẻ kém tính toán có thể cư xử tốt hơn trong lớp tiếng Anh so với trong lớp toán; hành vi gây rối của một đứa trẻ cấp hai có thể được cho là do “hormon hoành hành” và được giảm thiểu một cách không phù hợp; các hành vi xâm nhập của một đứa trẻ có thể được chấp nhận tốt hơn trong một lớp học nhỏ, nơi có nhiều sự chú ý đến từng người hơn là trong một lớp học lớn không có giáo viên phụ trợ; hoặc, một đứa trẻ hướng nội, nhưng không có khả năng học tập, có thể thoát khỏi sự chú ý trong khi những trò hề của một đứa trẻ hiếu động, nhưng trưởng thành bình thường, có thể gây ra sự chú ý không hợp lý .

Các biến điều chỉnh bổ sung phải được xem xét khi diễn giải hành vi của trẻ trong bất kỳ môi trường nào. Chúng bao gồm tuổi tác, hoàn cảnh gia đình và sự năng động (Yeates, Taylor và cộng sự, 1997; Taylor, Yeates và cộng sự, 2001; Taylor, Wade và cộng sự, 2002); tình trạng văn hóa và kinh tế xã hội (Broman, Nichols et al., 1987; Pérez- Arce, 1999; Kirkwood, Janusz et al., 2000); chấn thương hoặc yếu tố gây stress có thể xác định được, mức độ trưởng thành phát triển, tình trạng y tế, trí thông minh và khả năng thích ứng tổng thể. Ví dụ, một đứa trẻ nhỏ có thể không dễ dàng đáp ứng yêu cầu của giáo viên là ngồi yên tại chỗ, tuân theo cấu trúc của các quy tắc đã đặt ra hoặc tham gia một nhóm một cách hợp tác là do vai trò thông thường của đứa trẻ trong môi trường gia đình có thể được chuyển sang môi trường học đường một cách không phù hợp.

Một đứa trẻ sống trong cảnh nghèo khó và một đứa trẻ từ một gia đình giàu có, có quá trình trải nghiệm khá khác nhau và những tác động nhận thức liên quan, có thể khác nhau. Chấn thương cảm xúc không thể dễ dàng bị ngăn chặn tác động khi đứa trẻ bước vào lớp học. Bệnh tật hoặc chấn thương có thể dẫn đến việc phải nghỉ học, điều này càng làm phức tạp thêm sự tiến bộ của trẻ, đồng thời tiềm năng trí tuệ và trí tuệ cảm xúc có thể ảnh hưởng đến khả năng thích ứng dễ dàng trong các môi trường khác nhau.

Bệnh thần kinh, rối loạn hoặc chấn thương

Sự cần thiết phải ghi lại hậu quả về nhận thức của bệnh tật, rối loạn, hoặc tổn thương chức năng não bộ ở trẻ đang phát triển, không giảm đi theo năm tháng. Tuy nhiên, khả năng hiểu được những ảnh hưởng tiêu cực này và tác động của chúng đối với nhận thức của chúng ta, được kích hoạt bằng các phương tiện ngày càng tinh vi hơn. Những tiến bộ về hình ảnh thần kinh và các phương pháp chẩn đoán thần kinh khác (Bigler, 1997) cho phép hiểu rõ hơn về các mối quan hệ cấu trúc-chức năng và làm cho việc phát hiện sự khiếm khuyết tâm lý thần kinh hoặc chức năng được bảo tồn trở nên dễ kiểm chứng và hấp dẫn hơn. Tuy nhiên, cần thận trọng trong diễn giải vì các nghiên cứu kích hoạt trên quần thể lâm sàng không giải thích liệu một vùng được kích hoạt có quan trọng đối với chức năng hay đại diện cho sự kích hoạt thứ cấp đối với việc huy động vùng não đó khi đối mặt với tổn thương mắc phải.

Thông thường, trưng cầu bắt đầu để mô tả các tác động trên thần kinh hiện tại của một rối loạn hệ thống hoặc não đã biết. Khi một căn bệnh hoặc rối loạn chưa được biết đến, có thể yêu cầu đánh giá để gợi ra các yếu tố hành vi có thể góp phần hiểu rõ hơn về mô hình hành vi lâm sàng. Trong cả hai trường hợp, nhà tâm lý học thần kinh đưa ra các kết luận dựa trên kiến thức về các tác động nhận thức có thể liên quan, các ảnh hưởng tiềm ẩn của các loại thuốc được kê đơn, liệu trình điển hình, các tác dụng phụ đã biết có liên quan và tác động tiềm ẩn của chế độ điều trị đối với chức năng não.

Có những thách thức đặc biệt trong tâm lý học thần kinh trẻ em, và một số trong số này phát sinh từ sự phức tạp của việc theo dõi và dự đoán quá trình phát triển và trưởng thành. Thời điểm diễn biến của bệnh hoặc khuyết tật trên một phổ phát triển là một thách thức đặc biệt phù hợp với các nhà tâm lý thần kinh trẻ em, những người được đào tạo bài bản về sự phát triển bình thường và bất thường nói chung, và đặc biệt là về các tác động đa dạng đối với sự trưởng thành của não bộ. Trong số những cân nhắc này có tuổi của trẻ tại thời điểm bị tổn thương, vị trí và mức độ nghiêm trọng của tổn thương, tính chất khu trú hoặc lan tỏa của tổn thương, tác động của tổn thương cấp tính và khả năng tiến triển của nó theo thời gian thành tình trạng mãn tính (xem Baron, Fennell và cộng sự, 1995).

Tiên lượng sau bệnh tật hoặc chấn thương ở trẻ em thường bị hạn chế nghiêm trọng. Điều này một phần là do không có khả năng dự đoán mức độ linh hoạt của não đối với bất kỳ cá nhân nào và do đó, hạn chế trong việc hiểu sự phát triển bình thường sẽ bị ảnh hưởng như thế nào bởi sự xúc phạm não sớm và cụ thể. Những cân nhắc khác bao gồm các yếu tố di truyền, tác động ảnh hưởng của thời gian và kinh nghiệm, và những ảnh hưởng quan trọng của tính cách và động lực. Kết quả là, sự lạc quan về kết quả cuối cùng không phải là vô trách nhiệm, nhưng phải được làm dịu với các sự kiện bao gồm các trường hợp cá nhân.

Nhà tâm lý học thần kinh thường có nhận thức rõ hơn về khả năng tiếp tục can thiệp và khiếm khuyết nhận thức, so với những người coi sai lầm việc giải quyết bệnh hoặc phục hồi chấn thương là dấu hiệu của sự trở lại mức độ chức năng bình thường. Việc đánh giá cao những tác động sâu sắc về hành vi của tổn thương não sớm và những hạn chế của tính linh hoạt của não bộ là rất quan trọng. Điều này dựa trên cả kinh nghiệm lâm sàng và bằng chứng thực nghiệm. Ví dụ, đỉnh chuyển hóa não suy giảm ở trẻ em đã được cắt bỏ thùy thái dương ở độ tuổi sớm hơn 9 tuổi, có thể là dấu hiệu cho thấy tính khả biến đã giảm ở độ tuổi của trẻ này (Chugani, Chugani et al., 1999). Ngoài ra, các phép đo khu vực của thể chai cho thấy kích thước giảm sau chấn thương não lúc trước và trong chu sinh (Moses, Courchesne et al., 2000). Trong khi các tổn thương vỏ não khu trú trong tổn thương mạch máu là cơ sở cho khái niệm về tính khả biến cao hơn ở trẻ nhỏ so với người lớn, tổn thương sợi trục lan tỏa và tổn thương đa thiếu máu cục bộ liên quan đến TBI nghiêm trọng thể hiện các cơ chế khá khác nhau (Di Stefano, Bachevalier và cộng sự, 2000). Các tác giả này cho rằng sự gián đoạn quá trình trưởng thành của chất trắng có tác động xấu đến sự phát triển nhận thức và ngăn cản sự phục hồi trở lại mức bình thường.

Các bậc cha mẹ cũng vậy, đôi khi có ấn tượng sai lầm rằng việc giải quyết các tác động ngắn hạn của tổn thương thần kinh đồng nghĩa với việc phục hồi nhận thức thần kinh, trong khi trên thực tế, các khiếm khuyết còn lại có thể dai dẳng và tổn hại nhiều hơn đến hành vi và thành tích học tập. Dự đoán lâm sàng điển hình là quá trình phục hồi ít nhất hai năm sau một tổn thương, chẳng hạn như chấn thương sọ não. Sẽ rất hữu ích nếu giải thích cho cha mẹ rằng quá trình phục hồi nhanh chóng ban đầu thường được theo sau bởi một quá trình cải thiện chậm hơn nhưng rõ ràng, và sau đó là một giai đoạn giải quyết và điều chỉnh tinh tế hơn, có thể kéo dài thậm chí sau khoảng thời gian 2 năm. Tuy nhiên, cũng có bằng chứng cho thấy trong khi một số trẻ đạt được sự ổn định hoặc cải thiện, thì những trẻ khác có thể xấu đi theo thời gian vì nhiều lý do, ví dụ: trong quần thể TBI (Brown, Chadwick và cộng sự, 1981; Jaffe, Plissar và cộng sự, 1995; Kinsella và cộng sự, 1995).

Các gợi ý của hoàn toàn, hoặc gần như hoàn toàn, sự phục hồi sau tổn thương sớm khu trú ở bán cầu não trái hoặc phải, ủng hộ các giả thuyết về tính khả biến thần kinh của não trẻ. Có ý kiến cho rằng bán cầu não phải có khả năng, mặc dù kém hiệu quả hơn, để làm trung gian ngôn ngữ cho trẻ nhỏ bị tổn thương bán cầu não trái. Các nghiên cứu kích hoạt não ở trẻ em bị chấn thương sọ não khu trú từ rất sớm đã cho thấy điều này rõ ràng hơn (Müller, Rothermel và cộng sự, 1998; 1999; Booth, Macwhinney và cộng sự, 1999). Mối quan tâm liên quan, kích hoạt bán cầu não trái cho một nhiệm vụ không gian, thường được bán cầu não phải làm trung gian, đã được tìm thấy ở một thiếu niên có tổn thương thùy đỉnh và thái dương phải lúc 7 tháng tuổi (Levin, Scheller và cộng sự, 1996). Hoàn cảnh mà sự thích nghi của bộ não trẻ diễn ra vẫn chưa được biết đầy đủ. Sự chậm trễ và khiếm khuyết về ngôn ngữ là kết quả của tổn thương bán cầu não trái, nhưng không phải tất cả các khía cạnh của sự phát triển ngôn ngữ đều bị ảnh hưởng (Thal và cộng sự, 1991).

Những quan sát này dường như ủng hộ quan điểm cho rằng bán cầu não trái có vai trò đặc biệt trong việc tiếp thu ngôn ngữ ở độ tuổi rất sớm. Thal và các đồng nghiệp đã tiến hành một nghiên cứu hồi cứu, theo chiều dọc về trẻ sơ sinh bị chấn thương sọ não khu trú. Họ nhận thấy sự chậm phát triển từ vựng trong lĩnh vực hiểu và diễn đạt cũng như cách tiếp cận toàn diện đối với việc học ngôn ngữ. Loại thứ hai được hiểu là đặc điểm của tốc độ học ngôn ngữ chậm hơn và gợi ý về phong cách học ở bán cầu bên phải. Kích thước tổn thương dường như không ảnh hưởng đến các biện pháp ngôn ngữ. Họ cũng báo cáo rằng các tổn thương vỏ não sau bên trái dẫn đến tốc độ hồi phục chậm hơn do chậm biểu đạt nhưng không ảnh hưởng đến khả năng hiểu từ vựng.

Tham chiếu sự hiện diện của “Dấu hiệu mềm” thần kinh

Trẻ biểu hiện “dấu hiệu mềm” về thần kinh, chẳng hạn như thay đổi trí nhớ nhẹ, thay đổi tính cách hoặc tâm trạng nhẹ, điện não đồ (EEG) ở mức ranh giới hoặc bất thường mà không có biểu hiện hành vi rõ ràng, mất tập trung, rối loạn ngôn ngữ và rối loạn chức năng vận động như dáng đi dưới tuổi hoặc tư thế, các chuyển động không chủ ý và các chuyển động tràn ngập động cơ không đối xứng, làm cho các vấn đề về thần kinh bị nghi ngờ (xem Chương 9 để thảo luận và dữ liệu chuẩn liên quan đến các dấu hiệu mềm vận động). Sự hiện diện của các dấu hiệu mềm có thể là một dấu hiệu cho một chứng rối loạn nhận thức chưa được công nhận. Khi các dấu hiệu mềm được phát hiện, đánh giá tâm thần kinh có thể hữu ích để hiểu rõ hơn về mức độ của bất kỳ vấn đề nhận thức thần kinh nào có liên quan.

Các dấu hiệu thần kinh mềm (NSS) là những bất thường có thể phát hiện được trên lâm sàng bao gồm khả năng phối hợp vận động kém, khó khăn về nhận thức cảm giác và các cử động không tình nguyện. NSS được cho là biểu hiện của rối loạn chức năng não nhẹ không đặc hiệu (cục bộ hoặc lan tỏa) (Dazzan & Murray, 2002) có thể do các yếu tố như chấn thương não trong thời kỳ chu sinh, phát triển thần kinh bất thường có nguồn gốc di truyền. (Nichols & Chen, 1981) hoặc do thai nhi tiếp xúc với chất độc (Ferriero, 2004). Ngược lại, các dấu hiệu “Cứng” thường là dấu hiệu của sự thiếu hụt cơ bản về cảm giác hoặc vận động có liên quan trực tiếp đến tổn thương một vùng não cụ thể. Khái niệm này có lẽ được sử dụng lần đầu năm 1976 bởi Quitkin và cộng sự, khi mô tả các triệu chứng thần kinh (vẫn được hiểu là cảm giác/vận động và có tính định khu) trên bệnh nhân tâm thần phân liệt.

Tham chiếu chuyên khoa tâm thần và các chuyên khoa khác

Mối quan tâm về khả năng tự điều chỉnh hành vi của trẻ hoặc về các biểu hiện cụ thể của triệu chứng tâm thần cũng là những lý do nổi bật để trưng cầu. Việc trưng cầu có thể được bắt đầu để xác định xem liệu tình trạng khiếm khuyết tâm thần có thể đo lường được, có cùng tồn tại với hành vi đáng lo ngại hay không, và liệu dữ liệu có cung cấp thêm thông tin chi tiết về các yếu tố căn nguyên, chẳng hạn như một hồ sơ phù hợp với bệnh động kinh thùy thái dương, một khối u não hoặc não úng thủy. Một bác sĩ tâm thần có thể được trưng cầu trong yêu cầu mở rộng, dựa trên hậu quả của việc sử dụng các chất được kê đơn (do điều trị) hoặc bị lạm dụng, vì chế độ điều trị bằng thuốc có thể mang lại những hậu quả nhận thức không lường trước được cũng như việc lạm dụng chất gây nghiện trong thời kỳ mang thai hoặc tiếp xúc với chất độc (Pérez-Arce) , Johnson và cộng sự, 1989; Heffelfinger, Craft và cộng sự, 2002).

Các trưng cầu cũng được gửi tới các chuyên gia y tế, tuy không liên quan trực tiếp đến hệ thống thần kinh trung ương, nhưng đặc điểm bệnh nhân của họ thu hút sự quan tâm của các bác sĩ tâm thần kinh. Ví dụ, một số rối loạn chuyển hóa hoặc nội tiết được đặc biệt quan tâm vì những rối loạn như vậy dẫn đến sự tổn thương sớm nghiêm trọng đối với hệ thần kinh đang phát triển. Một trong số đó, bệnh phenylketon niệu, đặc biệt liên quan đến rối loạn chức năng não trước trán, và quỹ đạo phát triển của trẻ em mắc chứng rối loạn này vẫn có thể có tiềm năng đạt được việc thu nhận các hệ thống trí nhớ làm việc trưởng thành (Brunner, Jordan và cộng sự, 1983; Welsh, Pennington và cộng sự ., 1990).

Dữ liệu từ các quần thể lâm sàng như vậy rất hữu ích trong việc kiểm tra sự khác biệt giữa quá trình khiếm khuyết phát triển và chậm phát triển, như khi sự thiếu hụt không rõ ràng ở nhóm trẻ bé nhưng rõ ràng ở trẻ lớn hơn (White, Nortz và cộng sự, 2002). Một loạt các nghiên cứu tập trung cũng được báo cáo về chứng suy giáp (Rovet, 1992), suy giảm nội tiết tố (Gearing, Kalin, và cộng sự, 1992), bệnh tiểu đường (Northam, Bowden và cộng sự, 1992; Ryan, Vega và cộng sự, 1984; Rovet, Ehrlich và cộng sự, 1988), và suy thận (Davidovicz, Iacoviello và cộng sự, 1981; Fennell, Rasbury và cộng sự, 1984; Morris, Fennell và cộng sự, 1985). Cấy ghép nội tạng cũng đã được xem xét kỹ lưỡng (Stewart, Silver và cộng sự, 1991).

Tham chiếu nghiên cứu khoa học

Tham chiếu nghiên cứu phát triển theo chiều dọc

Nghiên cứu theo chiều dọc và đánh giá lâm sàng liên tục của một tiến triển phát triển có giá trị nhưng không phải lúc nào cũng thực tế. Những điều này không dễ dàng thực hiện được trong môi trường lâm sàng do một số yếu tố biến động, bao gồm tính nhất thời của bệnh nhân, tình trạng bệnh lý cấp tính lấn át mối quan tâm về tâm lý và học thuật, hạn chế về kinh tế và tính hiếm gặp của một số rối loạn về sở thích. Bất chấp những trở ngại này, các ví dụ về các nghiên cứu theo chiều dọc về rối loạn não sớm bao gồm những nghiên cứu về trẻ em bị não úng thủy (Brookshire, Fletcher và cộng sự, 1995), chấn thương sọ não (Ewing-Cobbs, Fletcher và cộng sự, 1997), tổn thương thùy trán (Eslinger, Grattan và cộng sự, 1992), viêm màng não do Haemophilus influenzae (Taylor, Schatschneider và cộng sự, 2000), tổn thương não khu trú trước và trong khi sinh (Stiles, Bates và cộng sự, 1998), và nhẹ cân (Vohr và Garcia Coll, 1985). Người ta thừa nhận rằng những thay đổi liên quan đến tuổi tác trong di chứng tâm thần kinh của bệnh hoặc rối loạn khởi phát sớm sẽ được hiểu rõ nhất bằng các nghiên cứu theo chiều dọc nghiêm ngặt về các nhóm trẻ em bị tổn thương não lan tỏa được xác định rõ ràng (Taylor, Schatschneider, et al., 2000). Nghiên cứu theo chiều dọc, thay vì nghiên cứu cắt ngang, là phương pháp tối ưu để điều tra sự trưởng thành trong quá trình phát triển và các mô hình thay đổi trong quá trình phát triển (Francis, Fletcher và cộng sự, 1991; Francis, Shaywitz và cộng sự, 1994).

Một số dữ liệu hành vi tương quan với dữ liệu hình ảnh trung tính theo những cách cụ thể và có hệ thống (Stiles, Moses et al., 2003). Những nghiên cứu như vậy có khả năng cung cấp cái nhìn sâu sắc có giá trị về quá trình phát triển não bộ sau tổn thương. Dữ liệu hình ảnh thần kinh cũng cung cấp cái nhìn sâu sắc có giá trị về sự phát triển bình thường. Ví dụ, chụp cắt lớp phát xạ positron (PET) não trẻ sơ sinh cho thấy đồi thị và thân não có tốc độ hoạt động cao sau 5 tuần, vỏ não và phần ngoài của tiểu não vẫn chưa trưởng thành cho đến khoảng 3 tháng, và phải đến khoảng 7 đến 8 tháng, thùy trán mới có nhiều dấu hiệu hoạt động hơn mức tối thiểu (Chugani và Phelps, 1986).

Trong một nghiên cứu về mối quan hệ giữa sự trưởng thành của não bộ và sự phát triển nhận thức bằng cách sử dụng các điện thế não liên quan đến sự kiện (ERP), người ta đã kết luận rằng quá trình chuyển đổi nhận thức, sử dụng các nhiệm vụ bảo tồn kiểu Piaget, có liên quan đến các cơ chế nhận thức thần kinh mới xuất hiện trong thời thơ ấu (Stauder, Molenaar et cộng sự, 1999). Các tác giả này gợi ý rằng có một sự thay đổi quan trọng về chất trong quá trình xử lý thông tin của não trong thời thơ ấu. Hơn nữa, các tác giả này đã đưa ra quan điểm thú vị rằng những thay đổi đột ngột về chất trong quá trình phát triển nhận thức thần kinh sẽ dẫn đến việc từ chối việc sử dụng phổ biến tuổi theo thời gian để so sánh với nhóm tham chiếu của một đứa trẻ trong những năm giữa thời thơ ấu. Thay vào đó, họ đề xuất rằng nên xem xét cả tuổi theo thời gian và mức độ phát triển nhận thức khi chọn nhóm chuẩn cho một số bài kiểm tra nhất định, đặc biệt là các bài kiểm tra chức năng điều hành dựa trên đánh giá các tình huống phức tạp, như Bài kiểm tra Sắp xếp Thẻ Wisconsin (WCST) và Bài kiểm tra Tháp Luân Đôn (TOL).

Đối với những trẻ có sự thay đổi đáng kể về biểu hiện (những trẻ mắc các bệnh lý thường dẫn đến suy giảm nhận thức hoặc có khả năng suy giảm theo thời gian) là những ứng cử viên chính để đánh giá cơ bản và liên tục cả quá trình hành vi-thần kinh. Đánh giá liên tục cũng giúp theo dõi quá trình phục hồi, ghi lại sự ổn định của chức năng và cung cấp thông tin chi tiết về các quá trình lâm sàng được xác định riêng lẻ và hồ sơ hành vi-thần kinh còn sót lại, cũng như đóng góp vào các khuyến nghị cập nhật về điều trị và giáo dục.

Việc kiểm tra giá trị dự đoán của các xét nghiệm hoặc hiệu quả kết quả của điều trị chỉ mới được nhấn mạnh gần đây. Hiện nay, người ta đã nhận ra rằng một số người sống sót lâu dài sau những căn bệnh ở giai đoạn cuối thời thơ ấu trước đây sẽ không thoát khỏi những ảnh hưởng muộn của căn bệnh (Fletcher và Copeland, 1988). Các nghiên cứu theo dõi theo chiều dọc ghi lại tác động của bệnh và/hoặc điều trị đối với hệ thần kinh đang phát triển, thậm chí đối với một số bệnh hệ thống và bệnh không phải chủ yếu là hệ thần kinh trung ương. Kiến thức của chúng ta về chức năng của não để phản ứng với những tổn thương trực tiếp ở những thời điểm trưởng thành khác nhau tăng lên một cách có lợi nhờ những nghiên cứu như vậy. Vẫn cần phải điều tra xem liệu có những can thiệp hiệu quả hơn nữa có thể cải thiện những tác động muộn dự kiến này hay không.

Cùng với các yếu tố bệnh tật và điều trị, những ảnh hưởng quan trọng của môi trường gia đình, cũng như mức độ nghiêm trọng của thương tích, được công nhận là những yếu tố quyết định có ảnh hưởng đến kết quả lâu dài sau thương tổn ở trẻ em (Yeates, Taylor và cộng sự, 1997) và đóng vai trò như cơ sở cho nghiên cứu hiện tại. Ví dụ, bất lợi xã hội có liên quan đến kết quả kém hơn và di chứng hành vi bất lợi hơn trong một nghiên cứu tiền cứu về kết quả kéo dài trung bình 4 năm sau chấn thương sọ não (Taylor, Wade et al., 2002).

Người ta cũng công nhận rằng thái độ của cha mẹ liên quan đến hành vi nuôi dạy con cái và do đó, năng lực của cha mẹ (Miller-Loncar, Landry et al., 1997). Thái độ nuôi dạy con cái của những bà mẹ có con với một tiến triển y tế phức tạp đã được chứng minh là khác với những người có con khỏe mạnh (Greenberg và Crnic, 1988). Không hiếm trường hợp, việc xem xét tiền sử đã phát hiện ra rằng cha mẹ miễn cưỡng từ bỏ trách nhiệm làm cha mẹ hoặc khuyến khích đứa trẻ tự quản lý. Cha mẹ có thể lơ lửng về mặt tâm lý đối với đứa trẻ do cảm giác tự nhiên về sự bảo vệ quá mức mà đứa trẻ hoặc cha mẹ không còn thích ứng được nữa.

Tham chiếu sự phát triển trẻ em bình thường (điển hình)

Trưng cầu lâm sàng chỉ nhằm cung cấp sự hiểu biết nhiều hơn về khả năng của trẻ, đôi khi được yêu cầu bởi cha mẹ. Bất chấp bản chất vấn đề của trẻ có vẻ ổn định hoặc khó chữa, một số phụ huynh có thể yêu cầu đánh giá như vậy ngay cả khi không có vấn đề nghiêm trọng ở trường học hoặc y tế. Họ có thể làm như vậy để hỗ trợ giải quyết mối lo ngại dai dẳng về thai kỳ hoặc biến chứng khi sinh, một loại thuốc mà người mẹ đã dùng trong khi mang thai, hoặc một tình trạng thời thơ ấu mắc phải sớm mà họ nghi ngờ là nguồn gốc của những tác động tiêu cực về nhận thức lâu dài. Ví dụ, một phụ huynh của một thiếu niên luôn học hành kém cỏi và không thể can thiệp bằng các biện pháp can thiệp thông thường, có thể tìm kiếm một lời giải thích dựa trên cơ sở y tế. Một mục đích có thể là làm giảm bớt mối lo ngại rằng một tình trạng bệnh lý hoặc tâm lý đã có từ trước đã đặt đứa trẻ vào nguy cơ; cách khác có thể là để thu thập thông tin bổ sung khi các cuộc tham vấn trước được cho là không đủ để giải thích hành vi của trẻ. Đánh giá đúng hơn về điểm mạnh và điểm yếu của trẻ là kết quả đánh giá tâm lý thần kinh hữu ích nhất và là lý do chính đáng để trưng cầu trong các trường hợp chọn lọc.

Tham chiếu nghiên cứu khoa học

Chủ nghĩa kinh nghiệm cung cấp một cơ hội thú vị cho các nhà thần kinh học trẻ em. Lĩnh vực tâm lý thần kinh học trẻ em tương đối non trẻ, trong khi đang trưởng thành, vẫn mang đến những khả năng nghiên cứu sâu rộng. Trong số đó có cơ hội để điều tra sự phát triển bình thường và bất thường do hậu quả của tình trạng bẩm sinh, bệnh tật hoặc chấn thương, trong bối cảnh có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến kết quả (Taylor và Schatschneider, 1992). Thu thập dữ liệu hồi cứu được sử dụng phổ biến nhất trong các tài liệu về tâm lý thần kinh trẻ em giai đoạn đầu. Tuy nhiên, các nghiên cứu tiến cứu đúng lúc và nghiêm ngặt về mặt phương pháp sẽ bổ sung nhiều nhất cho sự hiểu biết của chúng ta về kết quả phát triển thần kinh sau chấn thương thần kinh sớm.

Các thiết kế nghiên cứu theo chiều dọc, triển vọng, nhằm theo dõi quỹ đạo phát triển sau khi rối loạn chức năng não bẩm sinh hoặc mắc phải, đã phần nào bị hạn chế trong tâm lý học thần kinh trẻ em. Nghiên cứu liên tục để quan sát tác động phát triển của bệnh tật hoặc chấn thương, và kết quả của các can thiệp y tế, phục hồi chức năng và giáo dục rõ ràng là đáng mong đợi. Các nhà tâm lý học thần kinh đang ngày càng tham gia tích cực vào các phác đồ thử nghiệm lâm sàng đánh giá kết quả nhận thức thần kinh, mối tương quan giữa bệnh lý não phát triển và bệnh lý hành vi, nghiên cứu hiệu quả điều trị và nỗ lực giảm thiểu tác dụng phụ muộn của liệu pháp, điều tra sự khác biệt về chức năng giữa các nhóm lâm sàng và bình thường, xác nhận các công cụ đánh giá và xác định hiệu quả của các nỗ lực phục hồi.

Tham chiếu Khuyến nghị Điều trị, Quản lý và Phục hồi chức năng

Các khuyến nghị cụ thể cho các chiến lược hướng dẫn và phục hồi chức năng là mục đích của việc đánh giá tâm lý thần kinh ở trẻ phát triển tốt và được tiến hành tốt. Quan điểm của nhà lâm sàng làm cho sự pha trộn giữa các mối quan tâm y tế và các vấn đề tâm lý trở nên vô cùng quý giá. Nhà tâm lý thần kinh trẻ em được đào tạo bài bản để đảm nhận vai trò tư vấn hoặc điều trị trực tiếp nhằm xây dựng và/hoặc áp dụng chương trình điều trị/phục hồi chức năng. Các nghiên cứu thực nghiệm ban đầu bao gồm dữ liệu tâm lý thần kinh nhanh chóng dẫn đến sự thừa nhận rằng những dữ liệu này là duy nhất và có thể được áp dụng để phát triển các phác đồ điều trị và phục hồi hiệu quả hơn.

Có ý kiến cho rằng niềm tin về phục hồi chức năng nhận thức có thể được tóm tắt bằng bốn nguyên tắc: (1) khoa học là nền tảng cơ bản cho phục hồi chức năng; (2) thành công phục hồi chức năng nhận thức phụ thuộc vào các kỹ thuật phục hồi chức năng; (3) phục hồi sẽ được xác định nhiều lần và không biệt định đối với điều trị phục hồi; và (4) đánh giá kết quả phải được đánh giá trong các tình huống thực tế/ lượng giá động (Stuss, Winocur và cộng sự, 1999).