Đào tạo tính chuyên nghiệp trong ngành chăm sóc sức khỏe

https://tuyengiao.vn/y-te-cong-dong/da-nang-tang-cuong-tinh-chuyen-nghiep-trong-thuc-hanh-nghe-y-70598#:~:text=Theo%20b%C3%A0%2C%20t%C3%ADnh%20chuy%C3%AAn%20nghi%E1%BB%87p,nghi%E1%BB%87p%20tr%C3%A1nh%20sai%20s%C3%B3t%3B%20c%C3%B3

Nhưng thực tế thì đây không phải bài học đầu tiên. Nó chìm lỉm trong rất nhiều các thôi thúc kiến thức và kĩ năng nghề nghiệp khác, cho dù nó được coi là một trong các chuẩn năng lực của nhân viên y tế. Trong hội nghị về giáo dục y học vừa qua tại Đại họ Y Hà Nội, phiên về nội dung này khá là vắng lặng, hoặc bị lệch sang một nội dung nóng hơn, mang màu sắc công nghệ là vấn đề chuyển đổi số, mà theo đó, các báo cáo viên cũng đi lệch luôn.

Còn trong một nghiên cứu của Đại học Y Huế, về tính chuyên nghiệp trong chuẩn năng lực, điểm trung bình về tính chuyên nghiệp của sinh viên năm thứ 5 (LS) lại thấp hơn năm thứ 2 (TLS). Việc lý giải được đổ cho sự căng thẳng học tập. Việc lượng giá dựa trên việc sử dụng bộ câu hỏi về mức độ đồng tình với 36 hành vi.

Cũng trong nghiên cứu trên, có 6 nội dung được cho là cốt lõi của tính chuyên nghiệp, mà chưa rõ là việc xây dựng này dựa trên nền tảng cơ bản là gì.

Định nghĩa về tính chuyên nghiệp của Đại học Monash- Australia cho khối ngành Sức khỏe như sau:

Tính chuyên nghiệp cung cấp nền tảng cho thực hành chăm sóc sức khỏe an toàn, hiệu quả và có đạo đức. Tính chuyên nghiệp ưu tiên phúc lợi và sức khỏe của bệnh nhân/khách hàng tại trung tâm của thực hành nghề, phù hợp với kỳ vọng của công chúng, đảm bảo nó vẫn là trung tâm trong tất cả các quyết định và hành động lâm sàng. Đó là một khái niệm tiến hóa năng động, dựa trên các giá trị nghề nghiệp và quy luật đạo đức về sự tôn trọng bản thân và người khác, lòng trắc ẩn, tự nhận thức, trung thực, liêm chính, trách nhiệm và cam kết cải tiến liên tục và tự điều chỉnh. Điều này có được thông qua học tập phản ánh kinh nghiệm, đòi hỏi sự kiên trì và quan sát trong thực hành chuyên nghiệp. Tính chuyên nghiệp có thể bị ảnh hưởng bởi các yếu tố khác như bối cảnh cung cấp dịch vụ chăm sóc, các vấn đề văn hóa, tập tục xã hội và kỳ vọng của hệ thống. Tất cả các ngành chăm sóc sức khỏe trong Khoa Y học, Điều dưỡng và Khoa học sức khỏe, đều thúc đẩy sinh viên phát triển cá nhân và nghề nghiệp để đảm bảo họ phát triển kiến ​​thức, kỹ năng và thái độ cần thiết, cho sự ưu tú trong thực hành ở thế kỷ 21, tuân thủ các quy tắc ứng xử dự kiến ​​của từng ngành.

Như vậy, việc đào tạo là cần thiết. Nhưng hình thức đào tạo (được nhận định là phải thường xuyên_ cả lý thuyết và thực hành) và việc lượng giá cần được xem xét lại.

Đào tạo các nhà nghiên cứu y học

Việc nhầm lẫn rằng một bác sĩ giỏi thì là một nhà nghiên cứu giỏi đã phá hoại việc đào tạo các nhà nghiên cứu y học. Thực sự, nếu một người đã rất giỏi, họ có thể làm cả 2, nhưng số đó chắc chắn chỉ là thiểu số, và họ cũng không cần ai đào tạo họ cả. Đối tượng chủ yếu của giáo dục lại là những người chưa giỏi lắm, và họ cần hỗ trợ để phát huy những điểm mạnh của họ.

Do đó, cách thức “bóc ngắn cắn dài” ở những giai đoạn sớm của quá trình phát triển nghiên cứu khoa học bằng các tập huấn ngắn hạn trên các nhà điều trị cần được thay thế bằng các đào tạo dài hạn cho ra những nhà nghiên cứu chuyên nghiệp trong lĩnh vực y học.

Khả năng quản lý con người và công việc luôn là một phần của kĩ năng nghiên cứu, được đào tạo hẳn hoi, nên nó có vẻ trùng lặp với khả năng lãnh đạo, ở đây là quản lý hành chính, nhưng chỉ trùng một phần thôi. Giải pháp ngắn hạn cho các vị trí quản lý hành chính, còn là hành chính công, rồi ở cấp cao hơn là các quản lý nhà nước, cũng đã đến lúc nhường chỗ cho quản lý chuyên nghiệp hơn, không phải là từ các nhà nghiên cứu.

Khoa học thần kinh trong Tâm thần học

Đây là bài đầu tiên trong loạt bài về khoa học thần kinh, phần đầu tiên trong Sách giáo khoa Tâm thần học của Mỹ, “Kaplan and Sadock’s Comprehensive Textbook of Psychiatry”, phiên bản 2017.

JOHN H. KRYSTAL, M.D.

GIỚI THIỆU

Phần này bao gồm một bộ sưu tập đáng chú ý của các chương, cung cấp một cái nhìn tổng quan về bối cảnh của sự hiểu biết hiện tại về cơ sở khoa học thần kinh của tâm thần học. Nếu não là cơ quan giải phẫu chính của tâm thần học, thì hiểu biết khoa học về não là điểm khởi đầu cho kiến ​​thức toàn diện về lĩnh vực này. Những chương này cần được đọc cẩn thận vì chúng phản ánh những dấu hiệu đầu tiên về sự xuất hiện của khoa học giải thích trong tâm thần học. Tiến bộ này phát sinh từ việc áp dụng các công nghệ, đã phát sinh từ nhiều thập kỉ, chẳng hạn như các kỹ thuật như di truyền quang học [di truyền quang học là một kỹ thuật sinh học để kiểm soát hoạt động của tế bào thần kinh hoặc các loại tế bào khác bằng ánh sáng. Điều này đạt được nhờ sự biểu hiện của các kênh ion nhạy cảm với ánh sáng, bơm hoặc enzym đặc biệt trong các tế bào đích], thuốc DREADDs [designer receptor exclusively activated by designer drugs- thụ thể thiết kế được kích hoạt độc quyền bởi thuốc thiết kế] và chỉnh sửa gen CRISPR [clustered regularly interspaced short palindromic repeats- nhóm các đoạn ngắn đối xứng lặp lại thường xuyên]. Nó cũng phát sinh từ sự trưởng thành của các lĩnh vực, chẳng hạn như hình ảnh thần kinh nhận thức và di truyền tâm thần học; biến chúng từ trí tò mò thành công cụ mạnh mẽ để trả lời các câu hỏi quan trọng về hành vi con người và bệnh tâm thần.

Những dấu hiệu của sự tiến bộ này là gì? Có rất nhiều câu chuyện đầy cảm hứng. Về căn nguyên, những tiến bộ trong giải trình tự bộ gen đã cho phép phát hiện ra các biến thể gen hiếm góp phần đáng kể vào nguy cơ bệnh tật và chiếm khoảng 1% các trường hợp tự kỷ. Các nhà tâm thần học đang bắt đầu hiểu vị trí của các gen này được ưu tiên biểu hiện ở đâu và khi nào thì các gen này cùng biểu hiện bệnh nặng nề. Những nghiên cứu này tạo tiền đề cho các biện pháp can thiệp điều chỉnh. Tiến bộ tương tự cũng đang xuất hiện đối với bệnh tâm thần phân liệt, một chứng rối loạn có vẻ như chia sẻ một số gen nguy cơ với bệnh tự kỷ. Về sinh lý bệnh, các nghiên cứu di truyền quang học ở động vật và nghiên cứu hình ảnh thần kinh ở người đã cung cấp những hiểu biết sâu sắc mới về cách bệnh trầm cảm có thể được biểu hiện ở cấp độ các mạch thần kinh. “Dữ liệu thô” này cung cấp cơ sở cho các nghiên cứu khoa học thần kinh, lần đầu tiên tính toán mô tả các mối quan hệ chặt chẽ giữa hoạt động của neuron và mạch thần kinh hoặc mạch thần kinh và hành vi. Đổi lại, những hiểu biết này đang cung cấp cơ sở cho một loạt các phương pháp điều trị kích thích thần kinh cho các rối loạn khí sắc đang ngày càng nhiều. Đồng thời, một số tiến bộ mang tính biến đổi trong phương pháp điều trị, chẳng hạn như việc phát hiện ra tác dụng chống trầm cảm nhanh chóng của ketamine, đã kích thích những tiến bộ khoa học cơ bản mới làm sáng tỏ về sinh học thần kinh và có thể dẫn đến các loại thuốc chống trầm cảm mới.

Tại sao bác sĩ tâm thần cần phải hiểu khoa học thần kinh để thực hành khoa học của họ? Khoa tâm thần đang chuyển dần khỏi việc xem từng bệnh nhân tâm thần chỉ là đại diện cho các danh mục chẩn đoán tĩnh, như được phản ánh trong Sổ tay Chẩn đoán và Thống kê. Sự lãnh đạo táo bạo của Thomas Insel trong việc thúc đẩy sáng kiến ​​Tiêu chí Lĩnh vực Nghiên cứu NIMH đã thúc đẩy lĩnh vực này bao gồm sự hiểu biết về mạch thần kinh của hành vi và các đặc điểm chiều của sinh lý bệnh và hiện tượng học của bệnh nhân tâm thần vượt qua ranh giới chẩn đoán truyền thống. Người ta có thể dự đoán rằng khi các bác sĩ tâm thần ngày càng cảm thấy thoải mái khi kết hợp sự hiểu biết về sinh học thần kinh của các rối loạn tâm thần vào các công thức lâm sàng của từng bệnh nhân, nó sẽ làm phong phú thêm sự hiểu biết của họ về bệnh nhân và gợi ý những cơ hội mới để tăng cường điều trị.

Tác giả sẽ minh họa điểm này bằng cách đề cập đến một ca lâm sàng trong một hội nghị mà bản thân đã tham gia, khi báo cáo lần đầu tiên trong một blog cho Đại học Thần kinh Tâm thần học Hoa Kỳ vào tháng 1 năm 2012. Khoa Tâm thần Yale mời tác giả phỏng vấn một bệnh nhân và sau đó trình bày cấu trúc mẫu cho nhóm của họ. Tác giả không có thông tin gì về bệnh nhân trước đó và có 30 phút để phỏng vấn bệnh nhân.

Bệnh nhân là một nam thanh niên mắc các triệu chứng loạn thần từ lâu. Anh ta đáp ứng các tiêu chuẩn chẩn đoán tâm thần phân liệt, thể hiện nhiều lĩnh vực của năng lực trí tuệ được bảo tồn, và có lưu ý các vấn đề về sự chú ý và trí nhớ bền vững. Anh cũng thể hiện mức độ thấp về cảm xúc cùn mòn nhưng khiếm khuyết trong nhiều lĩnh vực chức năng và xã hội. Khi được phỏng vấn, anh ấy đã mô tả một cách sinh động mô hình thời thơ ấu của sự chú ý đến các chi tiết môi trường phi xã hội, và anh ấy đã mô tả và thể hiện cả xu hướng kiên trì và dễ cáu kỉnh khi bị thách thức. Anh cũng đề cập rằng cả hai chẩn đoán tâm thần phân liệt và rối loạn lưỡng cực đều xảy ra trong gia đình anh. Về việc điều trị, anh cảm thấy rằng clozapine là loại thuốc hiệu quả nhất được kê cho mình. Ngoài ra, anh ta còn được điều trị bằng thuốc chống co giật, lamotrigine và valproate.

Làm thế nào các bác sĩ tâm thần có thể hiểu được sự xuất hiện của các đặc điểm của rối loạn phổ tự kỷ (ASD) và tiền sử gia đình của anh ta về cả tâm thần phân liệt và rối loạn lưỡng cực? Bệnh nhân này đã trình bày các cơ hội để phản ánh những thách thức trong giản đồ chẩn đoán của chúng ta. Bleuler cho rằng suy nghĩ tự kỷ là một đặc điểm cốt lõi của bệnh tâm thần phân liệt, nhưng đặc điểm này không còn được đưa vào chẩn đoán bệnh tâm thần phân liệt. Tuy nhiên, ngày càng có nhiều biến thể gen hiếm với những ảnh hưởng tương đối lớn đến nguy cơ tâm thần phân liệt cũng góp phần vào nguy cơ mắc ASD. Các triệu chứng tâm thần phân liệt và ASD chồng chéo có thể là một minh họa của tính đa hiệu ứng. Tương tự như vậy, các nghiên cứu GWAS ở quy mô lớn gần đây báo cáo các vùng của bộ gen có vẻ như thể hiện sự gia tăng tương đối khiêm tốn về nguy cơ đối với cả bệnh tâm thần phân liệt và rối loạn lưỡng cực. Do đó, di truyền học đang cung cấp một số manh mối có thể dẫn dắt hướng suy nghĩ về các đặc điểm biểu hiện của từng bệnh nhân mà mâu thuẫn với các phân loại chẩn đoán của DSM-IV.

Tại sao ai đó lại thêm thuốc lamotrigine và valproate để tăng cường điều trị bệnh tâm thần phân liệt bằng chống loạn thần clozapine? Hiện tại, có một cơ sở bằng chứng nhỏ để hướng dẫn dược liệu pháp điều trị các triệu chứng tâm thần phân liệt kháng clozapine. Tác giả đã được nhắc nhở về bằng chứng ở động vật và người, rằng lamotrigine, tự nó hoặc kết hợp với clozapine, làm giảm một số tác dụng của các chất đối kháng thụ thể NMDA gây tâm thần. Sau đó, lamotrigine nói chung không có hiệu quả như một chiến lược tăng cường chống loạn thần trừ khi bệnh nhân có các triệu chứng kháng thuốc cao với các phương pháp điều trị bao gồm cả clozapine. Hơn nữa, thuốc chống co giật, như lamotrigine, có thể bảo vệ khỏi nguy cơ co giật liên quan đến liệu pháp dược phẩm với liều clozapine cao hơn. Vì vậy, có một lý do để thêm lamotrigine vào clozapine trong trường hợp này. Tuy nhiên, điều tương tự không thể xảy ra đối với valproate. Các bác sĩ tâm thần đã thảo luận về dữ liệu dược lý học mô tả việc kê đơn chung valproate và thuốc chống loạn thần phổ biến cho bệnh tâm thần phân liệt mặc dù thiếu dữ liệu thuyết phục về hiệu quả của valproate trong vai trò bổ trợ này.

Như đã lưu ý trong blog, lời mời từ khoa tâm thần để phỏng vấn một bệnh nhân trước mặt họ và trình bày một mẫu “tâm lý xã hội sinh học” trong một câu hỏi bất thành văn. Liệu việc một bác sĩ tâm thần đã hành nghề chuyển dịch trở thành một sinh viên của ngành di truyền học và khoa học thần kinh có tạo nên sự khác biệt không? Câu trả lời hóa ra là, hoàn toàn có thể! Trên thực tế, có vẻ như kiến ​​thức nền tảng về khoa học thần kinh của tác giả đã thể hiện gần như mọi khía cạnh của phiên làm việc, các câu hỏi đã đặt ra, các giả thuyết đã đưa ra về bệnh nhân và suy nghĩ của mình về kế hoạch điều trị. Mặc dù tác giả vẫn chưa rõ kiến ​​thức của mình về di truyền trong bệnh tâm thần phân liệt sẽ hướng dẫn việc điều trị bệnh nhân này như thế nào, nhưng không khó để thấy rằng một ngày nào đó, việc bám sát những phát triển của khoa học thần kinh có thể biến điều này thành hiện thực.

TỔNG QUAN VỀ CÁC CHƯƠNG KHOA HỌC THẦN KINH

Để tạo điều kiện thuận lợi cho kiểu tương tác này giữa khoa học thần kinh và tâm thần học lâm sàng, các tác giả đã cấu trúc phần này của Sách để đề cập đến khía cạnh của sự tiến bộ trong khoa học thần kinh có liên quan nhất đến tâm thần học. Các chuyên gia trong lĩnh vực này đã được yêu cầu cung cấp các chương sẽ chặt chẽ nhưng có thể tiếp cận được đối với các bác sĩ lâm sàng. Phần này xây dựng từ các câu hỏi căn bản, nghĩa là di truyền, đặc tính của tế bào thần kinh, kiến ​​thức cơ bản về dẫn truyền thần kinh hóa học, mạch vỏ não và chức năng mạch cũng như sinh lý bệnh của các rối loạn tâm thần. Các chủ đề được đề cập rất rộng, nhưng một số chủ đề không được đưa vào. Tương tự như vậy, các bài đánh giá cung cấp chiều sâu, nhưng hy vọng không làm khó khả năng tiếp cận.

Phần tiểu mục đầu tiên bắt đầu với hai chương mô tả tổ chức và sự phát triển của não bộ. Chương 1.2 giới thiệu về tổ chức sinh lý thần kinh tuyệt vời của não. Chương 1.3 mô tả các quá trình hình thành tổ chức phức tạp của não qua quá trình phát triển. Chương này cũng giới thiệu cho người đọc quá trình hình thành thần kinh trưởng thành, quá trình mà qua đó các tế bào thần kinh mới hình thành trong vùng hải mã khi trưởng thành.

Mười một chương tiếp theo cung cấp một cái nhìn tổng quan về các cơ chế tín hiệu cơ bản làm nền tảng cho giao tiếp và tính khả biến của não. Năm chương xem xét các nhóm cơ bản của dẫn truyền thần kinh hóa học trong não bao gồm chất dẫn truyền thần kinh monoamine (Chương 1.4), chất dẫn truyền thần kinh axit amin glutamate và GABA (Chương 1.5), chất dẫn truyền neuropeptides (Chương 1.6) và chất dẫn truyền thần kinh mới (Chương 1.8). Chương 1.7 bao gồm các yếu tố dinh dưỡng thần kinh. Những chất này ngày càng có liên quan đến sinh lý bệnh và điều trị bệnh tâm thần kinh, đặc biệt là hoạt động của cả thuốc chống trầm cảm truyền thống và thuốc tác dụng nhanh. Tín hiệu nội thần kinh, các cơ chế mà qua đó tác động của chất dẫn truyền và thuốc được truyền kiểu hóa học trong tế bào thần kinh, được xem xét trong Chương 1.9. Các chức năng sinh lý thần kinh được trình bày trong Chương 1.10. Hai chương đề cập đến sinh học phân tử của các rối loạn tâm thần. Tiếp theo, có một bản cập nhật về công nghệ “omic” (gen, transcriptomics, proteomics) trong Chương 1.11. Chương 1.13 bao gồm các tương tác thần kinh – miễn dịch, đặc biệt tập trung vào chứng viêm thần kinh, tác nhân trung gian chính gây ra các tác động lo âu lên não. Tiểu mục này kết thúc bằng một chương về sinh học thời gian. Chương 1.14 bao gồm các gen, mạch và cơ chế chi phối nhịp sinh học và các nhịp điệu khác có ảnh hưởng sâu sắc đến chuyển hóa năng lượng, giấc ngủ, hành vi và khí sắc.

Tiểu mục thứ ba bao gồm bốn chương liên quan đến các công nghệ đang ngày càng cung cấp nhiều thông tin cho các bác sĩ tâm thần hiểu về sinh học của rối loạn tâm thần. Chương 1.15 đề cập đến những tiến bộ trong điện não đồ bao gồm các nghiên cứu về điện thế liên quan đến sự kiện và dao động vỏ não. Chương 1.16 đề cập đến những tiến bộ trong chụp cộng hưởng từ và quang phổ cộng hưởng từ, một phương pháp tiếp cận trung tâm để nghiên cứu cấu trúc, chức năng và sinh hóa học của não một cách không xâm lấn. Chương 1.17 xem xét các phương pháp tiếp cận không xâm lấn cơ bản khác để nghiên cứu sinh hóa học não, đặc biệt là để định lượng mức độ của các protein não cụ thể hiện diện với số lượng rất thấp trong não, chẳng hạn như các thụ thể dẫn truyền thần kinh. Chương 1.18 tập trung vào những tiến bộ trong phương pháp lập bản đồ gen đang góp phần vào sự hiểu biết mới nổi về di truyền của các rối loạn tâm thần.

Phần tiểu mục tiếp theo bao gồm tám chương trình bày các lĩnh vực trọng tâm trong nghiên cứu tâm thần học. Chương 1.19 bao gồm chủ đề quan trọng về mô hình động vật để điều trị tâm thần về nghiện. Các mô hình động vật đã cung cấp những hiểu biết cơ bản về sinh học thần kinh và điều trị các rối loạn tâm thần. Tuy nhiên, các mô hình này đã cho thấy những hạn chế quan trọng trong khả năng dự đoán các phương pháp điều trị mới cho các rối loạn tâm thần, một yếu tố đã góp phần vào sự kém cỏi của các cơ chế điều trị mới trong tâm thần học trong 20 năm qua. Trong tiểu mục này có các chương về nỗi đau (Chương 1.20), cảm giác về bản thân (Chương 1.21), giấc ngủ (Chương 1.22) và sự thèm ăn (Chương 1.23). Đây là những đặc điểm cơ bản của kinh nghiệm con người đã được nghiên cứu chuyên sâu. Hai phần cuối đề cập đến các lĩnh vực tương đối mới đang đóng vai trò ngày càng tăng trong lĩnh vực tâm thần học. Biểu sinh, tức là các cơ chế mà qua đó các yếu tố môi trường có ảnh hưởng lâu dài và thậm chí chuyển cho thế hệ sau, được xem xét trong Chương 1.25. Cuối cùng, Heath xem xét các tác động của nghiên cứu hệ vi sinh vật đối với hành vi của con người.

Tiểu mục cuối cùng về khoa học thần kinh của tâm thần học bao gồm các chủ đề đặc biệt trong hệ thống, khoa học thần kinh nhận thức và hành vi. Chương 1.26 trình bày các vấn đề trong khoa học thần kinh hệ thống. Chương 1.27 đề cập đến tác động rộng rãi của lý thuyết học tập. Barch, một nhân vật trung tâm trong Dự án Human Connectome, đề cập đến lĩnh vực quan trọng của kết nối chức năng vỏ não của con người trong Chương 1.28. Chương 1.29 đề cập đến khu vực ngày càng mở rộng của khoa học thần kinh tính toán, đó là nỗ lực phát triển các mô hình tính toán cho các chức năng vi mạch vỏ não và vi mạch vĩ mô. Các hệ thống khoa học thần kinh của sự phát triển vỏ não được đề cập trong Chương 1.30. Cuối cùng, Salloum đề cập đến chủ đề đang phát triển của nhận thức xã hội.

KẾT LUẬN Trong phân tích cuối cùng, bác sĩ tâm thần phải khiêm tốn đối với tầm hiểu biết của họ. Bộ não phức tạp ngoài sức tưởng tượng và các khía cạnh cơ bản của sinh lý bệnh của các rối loạn tâm thần kinh vẫn không thể nắm bắt được. Các bác sĩ tâm thần có xu hướng đánh giá quá cao kiến thức của họ và đánh giá thấp những thách thức phải đối mặt trong việc nâng cao hiểu biết của họ về căn nguyên, sinh lý bệnh, điều trị và phòng ngừa các rối loạn tâm thần kinh. Tuy nhiên, bác sĩ tâm thần có yêu cầu bắt buộc về mặt lâm sàng, khoa học tự nhiên và khoa học nhân văn để nâng cao hiểu biết của họ về sinh học thần kinh của các rối loạn tâm thần và để thấy rằng kiến thức này cung cấp thông tin thực hành lâm sàng của tâm thần học.

Khó nuốt ở trẻ Bại não

Mặc dù bài này viết về rối loạn nuốt trên trẻ Bại não, nhưng các nhà lâm sàng có thể tham khảo một phần trên người có tổn thương não mắc phải như chấn thương, đột quỵ… Bài dịch từ trang http://www.cerebralpalsy.org

Chứng khó nuốt là một tình trạng nghiêm trọng cần theo dõi thận trọng và nếu có biến chứng, điều trị tích cực và ngay lập tức. Giống như nhiều khía cạnh khác của việc nuôi dạy trẻ bị Bại não, việc kiểm soát các triệu chứng sẽ giúp trẻ khỏe mạnh và phát triển.

Chứng khó nuốt khiến bạn khó nuốt

Một đứa trẻ bị Bại não có thể sẽ phải đối mặt với một số lo lắng về sức khỏe trong suốt cuộc đời của mình. Một trong những chứng phổ biến nhất – và gây khó chịu nhất về mặt quản lý – là chứng khó nuốt.

Thường được gọi là rối loạn chức năng vận động miệng, chứng khó nuốt là phổ biến hơn ở trẻ em bị Bại não mức độ trung bình đến nặng. Đây là một tình trạng nguy hiểm, nếu không được quản lý sai, có thể gây ra nhiều hậu quả đe dọa tính mạng, lên đến và bao gồm cả tử vong – chủ yếu do khả năng chặn đường thở của một người. Vì lý do đó, chứng khó nuốt phải được theo dõi một cách thận trọng bởi cha mẹ, người chăm sóc và các chuyên gia y tế.

Giống như các tình trạng khác liên quan đến Bại não, chứng khó nuốt có thể từ trung bình đến nặng; hình thức của tình trạng phụ thuộc vào phạm vi và tính chất của chấn thương sọ não của trẻ. Và, thật không may, đó là một tình trạng có thể không hiển thị với cha mẹ một cách rõ ràng.

Ngày nay, có một số chiến lược mà cha mẹ có thể sử dụng để giúp ngăn ngừa các biến chứng có thể phát sinh do rối loạn chức năng vận động miệng. Các chiến lược bao gồm mọi thứ, từ thay đổi chế độ ăn uống đến phẫu thuật.

Chứng khó nuốt là gì?

Chứng khó nuốt là một thuật ngữ y học chỉ tình trạng khó nuốt. Thông thường, nếu một người mắc phải tình trạng này, đó là do thực quản không thể di chuyển thức ăn và chất lỏng từ phía sau miệng của trẻ đến dạ dày. Sự phối hợp cơ ở mặt và cổ là một tập hợp các chuyển động phức tạp và tinh tế, cho phép một người thở, nuốt và nói chuyện. Người bị Bại não dễ bị suy giảm cơ lực, ngay cả ở vùng mặt và cổ.

Chứng khó nuốt có thể xảy ra với bất kỳ ai, nhưng đó là một tình trạng khá phổ biến ở trẻ em bị Bại não hoặc các tình trạng khác ảnh hưởng đến hệ thần kinh trung ương hoặc những trẻ đã bị chấn thương sọ não. Theo nghiên cứu y tế, có tới 90% trẻ em bị Bại não có thể có triệu chứng khó nuốt.

Một đứa trẻ thỉnh thoảng nuốt nhầm thức ăn hoặc chất lỏng có thể không mắc chứng khó nuốt, nhưng nếu tình trạng này xảy ra thường xuyên, trẻ nên được đánh giá về rối loạn chức năng vận động miệng.

Đối với trẻ em hoặc người lớn bị chứng khó nuốt, cảm giác như thể thức ăn bị đọng lại trong thực quản trước khi nó di chuyển vào dạ dày hoặc bị trào ngược. Một số người tiết lộ rằng có cảm giác như thể các cơ ở cổ và mặt hoạt động theo hướng ngược lại so với dự kiến ​​- khiến thức ăn di chuyển ngược lên hệ thống thay vì đi xuống một cách hiệu quả. Vì lý do này, thời gian cho ăn có thể trở nên khá đáng sợ đối với một đứa trẻ hoặc người lớn, vì chúng sợ rằng chúng không thể thở và nuốt cùng một lúc.

Có hai loại chứng khó nuốt. Bao gồm:

Chứng khó nuốt miệng họng – Dạng khó nuốt này là kết quả của những bất thường trong cơ và dây thần kinh của khoang miệng, hầu và cơ vòng thực quản. Chứng khó nuốt ở hầu họng thường liên quan đến trục trặc dây thần kinh và cơ, khiến cơ cổ họng yếu đi, do đó khó di chuyển thức ăn từ miệng xuống họng.

Chứng khó nuốt họng thực quản – Dạng khó nuốt này là kết quả của dị dạng cơ, hoặc trục trặc của cơ vòng thực quản dưới. Khi điều này xảy ra, nó có thể gây ra các vấn đề về nhu động; cảm giác như thể thức ăn bị mắc kẹt trong thực quản (nghẹn).

Trẻ bị chứng khó nuốt phải chịu đựng một số triệu chứng khác nhau của tình trạng này, tùy thuộc vào bản chất và mức độ nghiêm trọng của chứng Bại não của trẻ. Một số triệu chứng liên quan này gây bất tiện hoặc khó chịu, nhưng những triệu chứng khác lại nghiêm trọng và phải được người chăm sóc và cha mẹ theo dõi. Đôi khi, chứng khó nuốt có thể gây ra các vấn đề không liên quan đến việc cho ăn; những trẻ bị nặng gặp khó khăn khi nói vì các cơ của chúng không thể kiểm soát đầy đủ các hợp âm của trẻ.

Các dấu hiệu liên quan đến lời nói của chứng khó nuốt bao gồm:

Rối loạn mất phối hợp vận động – Một kiểu nói chậm và thất thường do khó phối hợp cơ và thở.

Rối loạn đóng hầu mũi – Giọng nói bằng mũi do các dây thanh không thể mở và đóng chính xác.

Không có khả năng nói – Các cơ điều khiển dây thanh không được phối hợp đúng cách.

Thiếu khả năng cấu âm – Các cơ mặt, hàm, miệng và lưỡi không hoạt động đồng thời để tạo ra sự phối hợp giọng nói thông thường thích hợp.

Rối loạn lời nói hỗn hợp – Là sự kết hợp của một số triệu chứng của rối loạn lời nói.

Rối loạn lời nói kiểu co thắt cơ – Một giọng nói đều đều và khó phát âm các âm tiết riêng lẻ.

Mất lời mói – Các tín hiệu được gửi từ não chỉ huy việc nói bị ngưng. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng phát âm các âm tiết riêng lẻ của trẻ.

Các dấu hiệu và triệu chứng của chứng khó nuốt liên quan trực tiếp đến việc cho ăn bao gồm:

Ngưng thở khi cho ăn – khi một người ngủ gật trong khi cho ăn.

Sặc – khi thức ăn thâm nhập vào thanh quản và đi vào đường thở bên dưới các nếp gấp thanh quản. Sặc có thể xảy ra theo nhiều cách.

Phản xạ nuốt chậm hoặc không có – khi phản xạ nuốt bị ngưng bất thường và thức ăn rơi xuống họng, đường thở vẫn mở và thức ăn có nguy cơ rơi vào đường thở trước khi phản xạ thực sự kích hoạt.

Khó khăn hoặc không muốn ăn.

Co thắt thực quản – ép thực quản.

Cảm giác nghẹn – cảm giác có vật cản trong cổ họng.

Odynophagia – có dấu hiệu đau khi nuốt.

Mất vận động miệng – không có khả năng thực hiện các cử động của miệng, chẳng hạn như mở hoặc đóng.

Phản ứng thể chất trong khi cho ăn, chẳng hạn như cau mày.

Nguyên nhân nào gây ra chứng khó nuốt?

Chứng khó nuốt có một số nguyên nhân khởi phát, bao gồm lão hóa, đột quỵ, chấn thương đầu hoặc bệnh trào ngược axit, hẹp thực quản và bất thường bẩm sinh. Nhưng đối với trẻ Bại Não, nguyên nhân thường được tìm thấy trong tổn thương sọ não ban đầu đã gây Bại Não.

Tùy thuộc vào bản chất của tổn thương não, các triệu chứng của trẻ có thể là hầu họng (bắt nguồn từ miệng hoặc hầu) hoặc thực quản (bắt nguồn từ thực quản).

Trẻ bị Bại não co cứng đặc biệt dễ bị chứng khó nuốt vì tình trạng co cứng có thể gây ra các cơn co thắt thực quản không kiểm soát được.

Một số dấu hiệu cho thấy trẻ mắc chứng khó nuốt là gì?

Khó nuốt không phải lúc nào cũng dễ dàng phát hiện ra. Nếu một đứa trẻ mắc chứng khó nuốt nhẹ, thỉnh thoảng ho hoặc nôn trớ có thể giống như những sự cố đơn lẻ. Khi điều đó xảy ra, cha mẹ có thể cho rằng trẻ đã tiêu thụ thứ gì đó không vừa ý với mình. Các dấu hiệu cho thấy trẻ mắc chứng khó nuốt cũng được xác định với các tình trạng khác ít nghiêm trọng hơn. Ợ chua có thể được coi là hậu quả của chế độ ăn uống của trẻ và việc kháng thức ăn thoạt nhìn có thể là kết quả của một trẻ kén ăn.

Nhưng nếu trẻ bị Bại não – thậm chí là trường hợp nhẹ – thì tốt hơn hết bạn nên nhờ bác sĩ chẩn đoán hoặc loại trừ chứng khó nuốt vì hậu quả của việc không theo dõi có thể đe dọa đến tính mạng.

Một số dấu hiệu cho thấy trẻ có thể gặp khó khăn khi nuốt bao gồm:

Đau lưng

Tức ngực

Nghẹn

Ho liên tục

Chảy nước dãi

Khô miệng

Mệt mỏi

Ợ nóng

Chảy nước mũi

Kháng lại việc cho ăn

Chậm chạp, thiếu năng lượng

Viêm họng

Mất nhiều thời gian để ăn

Đẩy lưỡi

Giảm cân không giải thích được

Chứng khó nuốt được chẩn đoán như thế nào?

Các bác sĩ sử dụng một số phương tiện để chẩn đoán chứng khó nuốt. Sau khi cha mẹ nhận thấy rằng trẻ nuốt không đúng cách, bác sĩ có thể sẽ hỏi về các triệu chứng thể chất của trẻ.

Bác sĩ sẽ xem xét tiền sử bệnh của trẻ và tiến hành khám sức khỏe.

Trong quá trình đánh giá này, bác sĩ sẽ kiểm tra:

Tình trạng cơ bắp

Tình trạng thần kinh

Cổ họng và miệng

Một số xét nghiệm cũng có thể được tiến hành để xác định những trục trặc nào đang xảy ra trong quá trình nuốt. Những xét nghiệm này sẽ giúp bác sĩ xác định những biện pháp can thiệp nào cần thiết để giúp trẻ nuốt đúng cách. Kế hoạch bữa ăn, thời gian, quy trình cho ăn và tính nhất quán của thức ăn cũng có thể bị thay đổi. Đối với một số xét nghiệm, bác sĩ có thể giới thiệu trẻ đến một nhà nghiên cứu bệnh học về giọng nói y tế hoặc một bác sĩ chuyên khoa xương khớp.

Các xét nghiệm mà bác sĩ có thể yêu cầu bao gồm:

Áp kế thực quản – Một xét nghiệm sử dụng một ống thông mỏng, linh hoạt để đánh giá chức năng của các cơ thực quản và liệu trẻ có bị co thắt thực quản hay không.

Thử nghiệm axit thực quản – Thử nghiệm này sử dụng một ống thông mỏng đưa qua mũi và đặt phía trên thực quản. Đầu của ống thông phát hiện mức axit, được đánh giá thông qua một máy ghi được gắn vào ống thông. Xét nghiệm cho các bác sĩ biết liệu một đứa trẻ có bị trào ngược axit hay không, tình trạng này cũng phổ biến ở những trẻ bị Bại não mức độ trung bình đến nặng.

Đánh giá nội soi linh hoạt với kiểm tra cảm quan hoặc nội soi – Bằng cách sử dụng một ống sợi quang có ánh sáng, bác sĩ có thể quan sát miệng, thực quản và dạ dày để tìm xem có vật cản hoặc rối loạn chức năng nào không và xác định chức năng của cơ chế nuốt.

Siêu âm – Một xét nghiệm sử dụng sóng âm thanh để xác định các vấn đề trong thực quản và các mô và cơ liên quan. Thử nghiệm xác định các đặc điểm của cơ, bao gồm cả độ dày.

Nghiên cứu nuốt qua ống soi video hoặc test nuốt bari sửa đổi – Một kỹ thuật viên sẽ xem X-quang về quá trình nuốt trong khi bệnh nhân nuốt thức ăn và chất lỏng có chứa bari. Điều này cho phép một kỹ thuật viên xác định và theo dõi các hoạt động trong thực quản và đường tiêu hóa. Thử nghiệm đặc biệt hiệu quả trong việc xác định loại thực phẩm phù hợp có tác dụng đối với bệnh nhân.

Những phương pháp điều trị, hoặc hạn chế ảnh hưởng của chứng khó nuốt?

Hầu hết chúng ta coi khả năng nuốt thức ăn và chất lỏng là điều hiển nhiên. Tuy nhiên, hành động nuốt vật lý là một quá trình phức tạp bao gồm hơn 50 cơ, hàng nghìn dây thần kinh và một số cơ để thực hiện trực tiếp.

Bởi vì hành động nuốt là tự nguyện, các bước riêng lẻ của nó phải được lên kế hoạch. Thức ăn phải được nhai kỹ để chuẩn bị nuốt và tiêu hóa. Tất cả thức ăn phải được chuyển từ miệng, qua hầu thanh quản và vào thực quản. Đảm bảo tất cả những điều này diễn ra theo cách phối hợp tinh tế được coi là một trong những quy trình phức tạp nhất của cơ thể.

Số lượng cơ chế lỗi byzantine hoạt động có thể dẫn đến một số biến chứng y tế, trong đó có một số biện pháp khắc phục tiềm năng. Những phương pháp mà bác sĩ đề xuất dựa trên các triệu chứng cụ thể và sức khỏe thể chất tổng thể của trẻ.

Mặc dù can thiệp phẫu thuật là một khả năng khác biệt đối với trẻ em có vấn đề nghiêm trọng về nuốt, nhưng các chuyên gia y tế thường khuyến nghị một số phương pháp điều trị không phẫu thuật như là bước đầu tiên. Các đề xuất sẽ được đưa ra sau khi chuyên gia y tế thực hiện các bài kiểm tra mở rộng để xác định điều gì đang xảy ra trong miệng của trẻ hoặc trong thực quản của trẻ.

Một số phương pháp can thiệp không phẫu thuật mà chuyên gia y tế có thể đề nghị bao gồm:

Thay đổi độ đặc của thức ăn hoặc chất lỏng – Đôi khi, nếu thức ăn quá rắn hoặc chất lỏng quá loãng, điều này có thể làm trầm trọng thêm khả năng nuốt thành công của trẻ. Khi điều này xảy ra, bác sĩ có thể hướng dẫn cha mẹ hoặc người chăm sóc trẻ nghiền nhuyễn thức ăn rắn, hoặc cắt thức ăn thành nhiều miếng nhỏ hơn để thay đổi kết cấu của nó. Ngoài ra, có thể khuyến nghị trẻ uống chất lỏng đặc hơn (hoặc được làm đặc hơn), thường dễ kiểm soát hơn khi trẻ đã vào miệng.

Gập cằm – Đôi khi, định vị giúp trẻ kiểm soát các cơ chế ảnh hưởng đến việc nuốt. Ví dụ, ép cằm gập xuống có thể hữu ích. Hành động này ngăn chặn khả năng thức ăn lọt vào khí quản khi nuốt.

Khuyến khích nhai – Đôi khi, trẻ có xu hướng nhai không kỹ thức ăn. Khi một đứa trẻ đang trải qua liệu pháp nói và ngôn ngữ, hoặc liệu pháp hoạt động, chủ đề này có thể được đề cập.

Bài tập cơ bắp – Các bài tập cụ thể thường được chuyên gia về lời nói và ngôn ngữ chỉ định có thể tăng cường các cơ được sử dụng để nuốt nhằm cải thiện sức mạnh và khả năng phối hợp.

Một đứa trẻ thường sẽ nhận được các dịch vụ để giải quyết chứng khó nuốt trong một cơ sở y tế, mặc dù thông tin được xác định chắc chắn về tình trạng của trẻ có thể được sử dụng trong các cơ sở trị liệu. Có thể kêu gọi một nhà chuyên gia về lời nói và ngôn ngữ và / hoặc một chuyên gia dinh dưỡng đã đăng ký để giúp trẻ cải thiện khả năng nuốt và xác định kế hoạch cho ăn và bữa ăn thích hợp.

Những nơi mà một đứa trẻ có thể được điều trị bao gồm:

Trung tâm chăm sóc cấp tính

Phòng khám

Bệnh viện

Dịch vụ chăm sóc tại nhà

Cơ sở chăm sóc dài hạn và viện dưỡng lão

Phòng khám gia đình

Trung tâm phục hồi chức năng

Trong nhiều trường hợp, tình trạng của trẻ có thể quá nghiêm trọng để can thiệp, cần có các biện pháp can thiệp y tế tích cực hơn. Những can thiệp này có thể bao gồm thuốc, liệu pháp hoặc phương sách cuối cùng là phẫu thuật bao gồm:

Ống cho ăn – Nếu tình trạng của trẻ không đáp ứng với việc thay đổi chế độ ăn uống hoặc các can thiệp không phẫu thuật, có thể cần phải lắp một ống cho ăn để đảm bảo rằng trẻ nhận được tất cả các chất dinh dưỡng cần thiết để phát triển. Một ống dẫn thức ăn đi vào dạ dày bỏ qua tất cả các chức năng của miệng và thực quản, loại bỏ nhiều thách thức mà trẻ mắc chứng khó nuốt phải đối mặt.

Cắt cơ thắt thực quản bằng phương pháp phẫu thuật – Nếu cơ thắt được cắt để giảm áp lực gây ra khi nó không thể giãn ra, nó có thể giúp trẻ nuốt thức ăn mà không bị trào ngược ra ngoài.

Loại bỏ vật cản bằng phẫu thuật – Nếu có khiếm khuyết thực thể hoặc vật cản trên hầu của thực quản, can thiệp phẫu thuật có thể giải quyết chúng. Các vết thắt hoặc vòng thắt – có thể phát triển theo thời gian – có thể được loại bỏ qua nội soi. Trong trường hợp cần lỗ mở lớn hơn trong thực quản, bác sĩ phẫu thuật có thể chèn một quả bóng được bơm căng để tạo lỗ thông rộng hơn.

Tiên lượng sau khi điều trị phụ thuộc vào bản chất của bệnh Bại não của người đó và những loại khó khăn mà người đó đã trải qua khi nuốt. Trong một số trường hợp, có một sự cải thiện rõ rệt. Trong những trường hợp khác, cha mẹ sẽ luôn phải theo dõi tình trạng của trẻ.

Những rủi ro của việc không điều trị chứng khó nuốt là gì?

Không điều trị chứng khó nuốt hoặc quản lý tình trạng đúng cách có thể dẫn đến một số hậu quả về sức khỏe cho trẻ, đó là lý do tại sao nếu cha mẹ có bất kỳ dấu hiệu nào cho thấy vấn đề nuốt tồn tại, họ phải tìm kiếm sự trợ giúp y tế.

Chứng khó nuốt không được điều trị có thể dẫn đến:

Hẹp thực quản – Đây là tình trạng hẹp thực quản có hệ thống do sự phá hủy các hạch phó giao cảm của thực quản, khiến cơ thắt thực quản dưới không thể giãn ra, mở và đưa thức ăn vào dạ dày.

Các vấn đề về thở hoặc hô hấp – Trong số các mối quan tâm nghiêm trọng nhất mà cha mẹ sẽ có đối với trẻ bị Bại não, việc hít phải xảy ra khi chất lỏng xâm nhập vào phổi, dẫn đến nhiễm trùng. Điều này có thể khiến một người bị nghẹt thở hoặc đóng đường thở. Bất kỳ tình huống nào trong số này đều có thể đe dọa tính mạng của trẻ, đặc biệt là trẻ dễ bị tổn thương về mặt y tế.

Mất nước – Tình trạng này vẫn tồn tại khi một người không nhận đủ chất lỏng để duy trì sự sống – họ mất nhiều chất lỏng hơn so với lượng chất lỏng giữ lại. Nếu kéo dài , mất nước có thể dẫn đến một số vấn đề nghiêm trọng, bao gồm phù não, sốc giảm tuần hoàn, suy thận, hôn mê và trong trường hợp nghiêm trọng là tử vong.

Suy dinh dưỡng – Nếu trẻ gặp vấn đề về nuốt, các triệu chứng này gây đau đớn và khó chịu đến mức trẻ có thể không muốn ăn thức ăn. Điều này có thể đặc biệt phiền phức đối với trẻ sơ sinh, trẻ có thể không bú bình hoặc thức ăn vì cảm giác của chúng. Khi một đứa trẻ lớn lên, có thể khó duy trì trọng lượng cơ thể bình thường hoặc phát triển mạnh vì thiếu chất dinh dưỡng tiêu thụ.

Viêm phổi – Hút dịch mãn tính có thể dẫn đến viêm phổi, nhiễm trùng nặng và viêm một hoặc cả hai phổi.

Khi được điều trị đúng cách, chứng khó nuốt là một tình trạng có thể được kiểm soát, nhưng đây là tình trạng phải được đánh giá, lập kế hoạch và theo dõi đúng cách.

Tôi có thể giúp con mình đối phó với chứng khó nuốt bằng cách nào?

Giống như nhiều tình trạng liên quan đến Bại não, chứng khó nuốt có thể khó ứng phó hàng ngày. Nỗi sợ hãi không thể thở được, hoặc cảm giác thức ăn bị tắc nghẽn trong cổ họng có thể gây ra lo lắng về việc ăn uống, mỗi khi đói. Nhưng có một số cách kết hợp với việc tìm kiếm phương pháp điều trị mà cha mẹ có thể sử dụng để hỗ trợ một đứa trẻ đang đối mặt với tình trạng khó nuốt.

Đầu tiên là dạy đứa trẻ cách thưởng thức bữa ăn của chúng một cách cẩn thận. Khi trẻ đến tuổi có thể chọn và chọn bữa ăn, cha mẹ có thể chỉ ra cho trẻ hiểu rằng điều quan trọng là phải ăn chậm để trẻ có thể thưởng thức được thức ăn. Điều này sẽ giúp những đứa trẻ đã phát triển sự xung đột về việc ăn uống hiểu rằng những rắc rối mà chúng gặp phải có thể được kiểm soát trong nhiều trường hợp. Tương tự như vậy, hiểu được động lực của quá trình cho ăn sẽ có nghĩa là cha mẹ ít có khả năng vội vàng cho con ăn và hiểu được sự cần thiết của việc điều chỉnh nhịp độ chậm hơn.

Nếu trẻ có ống ăn, cha mẹ có thể nói với trẻ rằng ống này là cửa ngõ giúp trẻ có thể tham gia vào các hoạt động của mình. Bằng cách giúp trẻ em hiểu được vai trò của ống dẫn thức ăn, chúng có thể cảm thấy tự giác hơn về việc sử dụng ống này.

Cha mẹ nên gặp một nhà ngôn ngữ trị liệu và một chuyên gia dinh dưỡng đã đăng ký để hiểu thấu đáo về tình trạng của con họ, đồng thời được hướng dẫn và đào tạo thích hợp về lập kế hoạch và chuẩn bị bữa ăn, các khuyến nghị về chế độ ăn uống, nghi thức định vị, bài tập trị liệu và kỹ thuật cho ăn. Sự tự tin đạt được sẽ chuyển thành một quá trình được cải thiện cho phép trẻ giảm bớt lo lắng khi ăn.

Cha mẹ trẻ ASD đưa ra quyết định trị liệu cho con thế nào?

Không phải chỉ cha mẹ Việt, với nguồn tài nguyên có vẻ hạn chế, cha mẹ trẻ ASD nói chung đều gặp những khó khăn nhất định khi đưa ra các quyết định can thiệp do tính thiếu đặc hiệu của các phương pháp điều trị (nên gọi là điều trị thay thế) và hỗ trợ kinh nghiệm từ các chuyên gia.

Bất kể các chuyên gia có thể viện dẫn kinh nghiệm bao nhiêu đi nữa, không thể phủ nhận thực tế rằng chúng ta, nhất là giới y khoa, vẫn còn mày mò trên con đường khám phá những vấn đề y học của rối loạn này. Chưa kể tới các ngụy khoa học vẫn đang len lỏi trong thực tế cuộc sống mà các biện pháp quản lý hành chính không thể khống chế.

Vì thế, trong thực hành nghề hiện nay, nhà lâm sàng đối diện với sự thất vọng khi thấy phụ huynh vẫn quyết định sử dụng cả những phương pháp can thiệp mà các minh chứng hiệu quả là rất yếu, thậm chí còn cho là có hại.

Dưới đây là một tổng quan và một số bình luận, từ 2015, của Nathan A. Call , Caitlin H. Delfs , Andrea R. Reavis và Joanna Lomas Mevers, “Các yếu tố dẫn đến quyết định điều trị của cha mẹ đối với con mắc chứng rối loạn phổ tự kỷ”.

Ngay cả một đánh giá tương đối cao về các tài liệu nghiên cứu hoặc các phương tiện truyền thông đại chúng cũng cho thấy rằng có rất nhiều phương pháp điều trị có mục đích nhằm vào hiệu quả đối với những người mắc chứng rối loạn phổ tự kỷ (ASD; Reichow, Barton, Boyd, & Hume, 2012). Sự đa dạng của các lựa chọn điều trị thay thế này đặt ra một thách thức cho cha mẹ của những người mắc ASD khi phải đưa ra quyết định về việc làm nào. Với rất nhiều phương pháp điều trị và quá ít hướng dẫn rõ ràng, không có gì ngạc nhiên khi có rất nhiều các phương pháp điều trị hiện được quyết định sử dụng bởi các bậc cha mẹ có con họ mắc chứng ASD. Một số nghiên cứu đã cố gắng đánh giá việc cha mẹ sử dụng các loại phương pháp điều trị biệt định cho ASD, chẳng hạn như thuốc (ví dụ: Martin, Scahill, Klin, & Volkmar, 1999), chế độ ăn kiêng đặc biệt (ví dụ, Goin-Kochel, Myers, & Mackintosh, 2007 ) hoặc thuốc bổ sung và thay thế (ví dụ: Hall & Riccio, 2012; Levy & Hyman, 2008). Những nghiên cứu khác đã cố gắng khảo sát toàn diện nhất có thể trong việc xác định phương pháp điều trị nào đang được sử dụng với những người bị ASD (ví dụ: Bowker, D’Angelo, Hicks, & Wells, 2010; Goin-Kochel và cộng sự, 2007; Green và cộng sự, Năm 2006). Các chủ đề thường xuyên xuất hiện từ các nghiên cứu này là (1) hầu hết các bậc cha mẹ sử dụng nhiều phương pháp điều trị đồng thời (Goin-Kochel và cộng sự, 2007; Green và cộng sự, 2006; Kohler, 1999; Smith & Antolovich, 2000), (2) hầu hết cha mẹ đang thực hiện một sự kết hợp chiết trung của các phương pháp điều trị, đại diện cho các cách tiếp cận đa dạng (và đôi khi mâu thuẫn) để điều trị ASD (Bowker và cộng sự, 2010; Goin-Kochel và cộng sự, 2007; Green và cộng sự, 2006), và (3) mặc dù phần lớn các phương pháp điều trị có những người ủng hộ khẳng định lợi ích của chúng, nhiều phương pháp không hiệu quả hoặc thiếu sự hỗ trợ theo kinh nghiệm (Bowker et al., 2010; Green et al., 2006; Heflin & Simpson, 1998).

Cha mẹ của các cá nhân mắc ASD cũng đã thể hiện sự sẵn sàng kiên trì với chiến lược này bằng cách sử dụng các phương pháp điều trị đa dạng bao gồm những phương pháp điều trị không có hỗ trợ kinh nghiệm hoặc thậm chí những phương pháp có hại, với bằng chứng là không hiệu quả (Of fi t & Jew, 2003). Ví dụ, trong một thử nghiệm đối chứng với giả dược về secrettin, 69% cha mẹ được chỉ định vào nhóm secrettin vẫn quan tâm đến việc sử dụng nó như một phương pháp điều trị ngay cả khi họ được thông báo rằng kết quả của nghiên cứu cho thấy nó không có tác dụng nào ngoài giả dược (Sandler và cộng sự, 1999). Mặc dù xu hướng sử dụng cách tiếp cận điều trị nhấn mạnh chủ nghĩa chiết trung trong môi trường có nhiều cạnh tranh và thiếu hướng dẫn rõ ràng có thể hợp lý, nhưng có thể có những hậu quả tiêu cực. Trong nhiều trường hợp, cha mẹ sử dụng các phương pháp điều trị có mục đích chéo lẫn nhau. Việc sử dụng đồng thời nhiều phương pháp điều trị cũng làm phân tán các nguồn lực sẵn có giữa nhiều phương pháp điều trị hơn là tối đa hóa những phương pháp có nhiều khả năng cải thiện kết quả nhất. Cuối cùng, việc sử dụng đồng thời nhiều phương pháp điều trị khiến cho việc đánh giá hiệu quả của bất kỳ phương pháp điều trị đơn lẻ hoặc kết hợp cụ thể nào của các phương pháp điều trị đối với một cá nhân nhất định trở nên khó khăn (Green et al., 2006). Vì vậy, cách mà hầu hết các bậc cha mẹ đang lựa chọn phương pháp điều trị tốt nhất lại có thể là ngăn ngừa kết quả tối ưu cho con cái của họ với ASD, và tệ nhất có thể gây hại thực sự.

Gần đây hơn, các nhà nghiên cứu đã vượt ra ngoài việc xác định phương pháp điều trị nào đang được sử dụng và bắt đầu kiểm tra các yếu tố dường như khiến cha mẹ lựa chọn phương pháp điều trị. Trong một nghiên cứu như vậy, Goin-Kochel (2007) phát hiện ra rằng số lượng và loại phương pháp điều trị mà cha mẹ áp dụng khác nhau tùy thuộc vào độ tuổi và biểu hiện triệu chứng của con họ với ASD. Các nghiên cứu khác đã cố gắng xác định lý do cha mẹ đưa ra quyết định điều trị. Ví dụ, Bowker (2010) nhận thấy rằng các bậc cha mẹ báo cáo rằng lý do của họ để ngừng điều trị thì khác nhau tùy thuộc vào loại can thiệp: họ có nhiều khả năng ngừng sử dụng các phương pháp điều trị dựa trên phân tích hành vi áp dụng do chi phí hoặc thiếu khả năng, trong khi họ ngừng hầu hết các phương pháp điều trị khác do không hiệu quả. Tương tự, nguồn mà cha mẹ nhận được thông tin về một phương pháp điều trị cũng được phát hiện là có ảnh hưởng đến khả năng họ sử dụng nó (Smith & Antolovich, 2000). Những nghiên cứu như vậy về các biến số mà cha mẹ lựa chọn phương pháp điều trị (ví dụ: Mackintosh, Myers, & Goin- Kochel, 2005) là quan trọng vì chúng có khả năng mang lại những hiểu biết sâu sắc về cách thức đưa ra quyết định của cha mẹ về việc có áp dụng các chiến lược điều trị hiệu quả hay không.

Mặc dù nghiên cứu về các biến số khiến cha mẹ lựa chọn phương pháp điều trị ngày càng tăng, nhiều yếu tố có thể ảnh hưởng đến những lựa chọn đó vẫn chưa được khám phá. Ví dụ: nhận thức của cha mẹ về mức độ hiểu biết của họ về một phương pháp điều trị và nhận thức của họ về kết quả tức thời của một phương pháp điều trị sau khi được thực hiện đều có khả năng giống với các phương pháp điều trị mà cha mẹ lựa chọn, nhưng vẫn chưa được kiểm tra kỹ lưỡng. Tương tự, kết quả nghiên cứu của Bowker cho thấy rằng sự không có sẵn và chi phí có thể khiến cha mẹ ngừng một số phương pháp điều trị, nhưng có rất ít bằng chứng về cách những hạn chế này ảnh hưởng đến việc liệu họ có lựa chọn một số phương pháp điều trị ban đầu để bắt đầu hay không. Có lẽ lỗ hổng lớn nhất trong tài liệu mới này là cách thức mà các loại yếu tố này tương tác để ảnh hưởng đến các lựa chọn điều trị vẫn chưa được kiểm tra kỹ lưỡng. Các phương pháp được sử dụng để nghiên cứu các lựa chọn điều trị của cha mẹ được sử dụng cho đến nay, thường bao gồm các cuộc khảo sát ngắn về số lượng lớn các bậc cha mẹ, có thể không phù hợp để trả lời những loại câu hỏi này. Thay vào đó, có thể cần thu thập nhiều dữ liệu chuyên sâu hơn về việc ra quyết định của cha mẹ, ngay cả khi làm như vậy có nghĩa là thu thập thông tin chi tiết hơn từ các mẫu nhỏ hơn.

Các tác giả đã tiến hành một thử nghiệm phát triển và báo cáo những kết luận sơ bộ để kiểm tra các lựa chọn điều trị của cha mẹ cho con cái họ mắc chứng ASD. Các bậc cha mẹ tham gia đánh giá các phương pháp điều trị cá nhân dựa trên các yếu tố như mức độ hiệu quả của họ và mức độ hiểu biết của họ về chúng. Trong ba điều kiện tiếp theo, những người tham gia tương tự đã phân bổ các nguồn lực giả định cho các phương pháp điều trị để xác định (1) cách cha mẹ triển khai các nguồn lực của riêng họ đối với các phương pháp điều trị; (2) họ sẽ sử dụng các phương pháp điều trị như thế nào khi không có ràng buộc về hình thức chi phí và tính sẵn có; và (3) tương ứng với hai yếu tố điều trị (tức là, hỗ trợ theo kinh nghiệm và tức thời) vào việc ra quyết định của họ. Mỗi điều kiện này khác nhau về loại thông tin về việc ra quyết định của phụ huynh được thu thập, từ những quyết định cụ thể mà họ thực sự đưa ra về các phương pháp điều trị vào thời điểm đó, đến thông tin trừu tượng hơn về cách các yếu tố nhất định được ưu tiên.

Những phát hiện từ nghiên cứu này có thể nêu ra một số mâu thuẫn dường như trong việc lựa chọn điều trị của những người tham gia. Trong khi hỏi về các can thiệp đang tiến hành, họ trả lời theo cách cho thấy rằng họ tin rằng hầu hết các nguồn lực mà họ sử dụng cho các can thiệp đều hướng tới các phương pháp ít nhất là có hiệu quả vừa phải và ít nhất họ cũng có chút hiểu biết. Khi giả định các ràng buộc về chi phí và tính sẵn có giảm xuống (không bị ảnh hưởng), những người tham gia cho thấy có xu hướng tăng đáng kể số lượng và phạm vi của các phương pháp điều trị mà họ phân bổ nguồn lực. Sự gia tăng bề rộng này bao gồm sự gia tăng việc sử dụng các can thiệp mà họ đã đánh giá là kém hiệu quả hơn và những phương pháp mà họ ít hiểu biết hơn. Hơn nữa, những người tham gia đã tăng phạm vi của các phương pháp can thiệp mà họ sẽ sử dụng nhiều hơn là tăng nguồn lực mà họ dành cho các can thiệp mà họ đã sử dụng mà họ tin là vừa phải đến rất hiệu quả. Điều này dường như cho thấy rằng các bậc cha mẹ có thể đánh giá cao chủ nghĩa chiết trung trong các phương pháp điều trị. Có nghĩa là, trong điều kiện không bị hạn chế về chi phí và tính sẵn có, họ dường như đầu tư nhiều nhất vào việc tập hợp nhiều loại phương pháp can thiệp đa dạng kết hợp cả một số phương pháp mà họ cho là kém hiệu quả hoặc họ biết rất ít về. Kết quả này cho thấy một số phụ huynh không hài lòng với các lựa chọn điều trị hiện tại.
Thật vậy, các bậc cha mẹ đã báo cáo trong các nghiên cứu khác rằng họ không hài lòng với nhiều lựa chọn điều trị của mình (Mackintosh, Goin-Kochel, & Myers, 2012). Kết luận này cho thấy một lý do dẫn đến sự không hài lòng này có thể là do cha mẹ tin rằng ngay cả khi phương pháp điều trị họ đang sử dụng là tương đối hiệu quả thì vẫn có thể tồn tại những lựa chọn tốt hơn mà họ không thể tiếp cận.

Nghiên cứu cũng cho thấy một chiến lược ra quyết định của cha mẹ không khác gì chiến lược được nhiều người đầu tư vào thị trường chứng khoán sử dụng: phân bổ phần lớn nguồn lực của mình cho những tùy chọn được coi là có nhiều khả năng tạo ra lợi nhuận trong khi đầu tư một tỷ lệ tài nguyên nhỏ hơn vào các tùy chọn ” rủi ro cao / phần thưởng cao ”. Nhiều phương pháp can thiệp được sự hỗ trợ theo kinh nghiệm lớn nhất đã được chứng minh là có hiệu quả dần dần. Có thể kết quả này cho thấy rằng những bậc cha mẹ đã tìm cách cân bằng sự tiến triển chậm và ổn định như vậy với các phương pháp điều trị có kết quả không chắc chắn, nhưng được khẳng định sẽ tạo ra những kết quả đáng kể. Có thể là việc áp dụng các mô hình ra quyết định như những mô hình được sử dụng trong các lý thuyết lựa chọn kinh tế hành vi có thể giúp nhà lâm sàng hiểu thêm về câu hỏi này.

Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu và cách lý giải quả thực không phải là một củng cố tốt cho hành vi của các nhà lâm sàng là nâng cao kĩ năng can thiệp ở các phương pháp đã có bằng chứng tốt. Có vẻ việc mở rộng sang cả những thực hành còn đang được xem xét vẫn là một lựa chọn không tồi.

THANG MMSE VÀ MoCA

Hiện giờ có 2 thang đo nhận thức được nhắc đến trong lâm sàng Thần kinh, Tâm thần và Đột quỵ là MMSE và MoCA liên quan đến sa sút trí tuệ trong các bệnh thoái hóa thần kinh và trong đột quỵ. Có cần so sánh 2 thang đo này không?

Mình chưa có thời gian để viết một cái so sánh, nhưng may quá trong hội nghị lần thứ 9 của Hội Đột quỵ hôm 22-23/10/2022 đã đề cập vấn đề này. Có 2 câu chuyện được đặt ra ở đây. Một là chuyên ngành Thần kinh đã đề cập sâu sắc đến lĩnh vực mà các bác sĩ Tâm thần đang cho là “chỉ có mình mới biết”. Hai là đã hình thành một bức tranh lâm sàng đa dạng hơn để có cái mà so sánh, nghĩa là vấn đề Sa sút trí tuệ ngày càng đáng chú ý.

Đứng trên góc độ làm lâm sàng ở bệnh viện, tại khoa Thần kinh hay ICU, 2 thang cơ bản là như nhau vì việc xác định Sa sút trí tuệ do đột quỵ hay Alzheimer giai đoạn muộn thì chức năng điều hành không quan trọng lắm để xác nhận chẩn đoán Sa sút trí tuệ. Alzheimer ở giai đoạn sớm mới cần xem xét kĩ chức năng điều hành.

Thứ 2, thang MoCA cần công cụ để thực hiện hầu hết các tiểu mục, trong khi MMSE thì không. Do đó trong các hoạt động Phục hồi chức năng thì sẽ dễ dàng thực hiện MoCA hơn. MMSE thậm chí còn thu gọn lại 6 item để phục vụ cho công tác lâm sàng tại các đơn vị ICU để xác định nhanh chóng tình trạng suy giảm nhận thức mà không cần công cụ gì.

Tạm thế đã, vì hẳn là nên thực hiện nghiên cứu mini hẳn hoi cho việc so sánh này.

ASD và Hội chứng MED13L

Khi gặp trẻ ASD kèm ID và các thay đổi trên mặt cũng như dị tật tim cần nghĩ tới

Hội chứng MED13L là một rối loạn phát triển đặc trưng bởi sự chậm phát triển toàn diện, khuyết tật trí tuệ (ID) và những khác biệt nhỏ về các đặc điểm trên khuôn mặt. Ngoài ra, một số người bị tình trạng này, bị co giật tái phát (động kinh) hoặc các bất thường về tim xuất hiện từ khi sinh ra (dị tật tim bẩm sinh).
Khuyết tật trí tuệ và chậm phát triển toàn diện thường ở mức độ trung bình đến nặng ở những người mắc hội chứng MED13L. Yếu cơ (giảm trương lực cơ) và chậm phát triển các kỹ năng vận động, chẳng hạn như ngồi, đứng và đi bộ, là những triệu chứng ban đầu của tình trạng này. Sau khi tập đi, một số người bị ảnh hưởng tiếp tục gặp khó khăn trong việc phối hợp và giữ thăng bằng (mất điều hòa). Khả năng nói cũng bị trì hoãn và hầu hết những người mắc chứng này chỉ phát triển được một vài từ hoặc không bao giờ học nói được.
Những người mắc hội chứng MED13L có thể biểu hiện các đặc điểm điển hình của rối loạn phổ tự kỷ, bao gồm các hành vi lặp đi lặp lại và khó tương tác xã hội.
Hầu hết những người mắc hội chứng MED13L đều có các đặc điểm khuôn mặt khác thường bao gồm sống mũi hếch, đầu mũi hình củ, lông mày thẳng, khóe mắt bên ngoài hướng lên trên (rãnh nứt vòm miệng nâng lên), má đầy đặn và miệng mở. Các đặc điểm khác trên khuôn mặt đôi khi xảy ra là một đường cong kép rõ rệt của môi trên (cánh cung của thần Cupid), và một khoảng sâu giữa mũi và môi trên (philtrum).
Các dị tật tim bẩm sinh khác nhau có thể xảy ra trong hội chứng MED13L. Những người bị ảnh hưởng có thể có sự chuyển vị của các động mạch lớn, đó là vị trí bất thường của mạch máu lớn phân phối máu từ tim đến phần còn lại của cơ thể (động mạch chủ) và động mạch đưa máu từ tim đến phổi (động mạch phổi ). Các dị tật tim bẩm sinh khác trong hội chứng MED13L bao gồm một lỗ giữa hai ngăn dưới của tim (thông liên thất), một lỗ giữa hai ngăn trên của tim (thông liên nhĩ- foramen ovale), hoặc một sự kết hợp đặc biệt của các dị tật tim, gọi là tứ chứng Fallot.
Tần suất xuất hiện
Hội chứng MED13L là một chứng rối loạn hiếm gặp xảy ra ở khoảng 1,6 trên 100.000 trẻ sơ sinh. Hơn 65 cá nhân bị ảnh hưởng đã được báo cáo trong các tài liệu khoa học.
Nguyên nhân
Đúng như tên gọi của nó, hội chứng MED13L là do đột biến gen được gọi là MED13L. Gen này cung cấp hướng dẫn để tạo ra một loại protein giúp điều chỉnh hoạt động của gen; Nó được cho là đóng một vai trò thiết yếu trong sự phát triển cả trước và sau khi sinh. Các đột biến gen MED13L gây ra tình trạng này làm thay đổi chức năng của protein MED13L hoặc làm giảm lượng protein hiện có, làm suy giảm khả năng kiểm soát hoạt động bình thường của gen. Không rõ những thay đổi này dẫn đến các đặc điểm thể chất và phát triển cụ thể của hội chứng MED13L như thế nào.
Kiểu di truyền
Hội chứng MED13L được di truyền theo kiểu trội trên NST thường, có nghĩa là một bản sao của gen MED13L bị thay đổi trong mỗi tế bào là đủ để gây ra rối loạn. Hầu hết các trường hợp của tình trạng này là do đột biến mới (de novo) trong gen xảy ra trong quá trình hình thành các tế bào sinh sản (trứng hoặc tinh trùng) hoặc trong quá trình phát triển phôi sớm. Những trường hợp này xảy ra ở những người không có tiền sử rối loạn trong gia đình của họ. Rất hiếm khi tình trạng này được di truyền từ cha hoặc mẹ mắc khảm. Trong những trường hợp này, bố hoặc mẹ có đột biến gen MED13L trong một số lượng nhỏ tế bào, bao gồm cả tế bào sinh sản (trứng hoặc tinh trùng) và không có bất kỳ dấu hiệu hoặc triệu chứng nào của hội chứng MED13L.
– Hội chứng Asadollahi-Rauch
– ASRAS
– dị tật tim-chậm phát triển-hội chứng rối loạn biến dạng khuôn mặt
– hội chứng rối loạn biến dạng khuôn mặt – chậm phát triển- do thiếu MED13L
– khuyết tật trí tuệ và các đặc điểm đặc biệt trên khuôn mặt- có hoặc không có khuyết tật tim
– Hội chứng tăng nhân đôi MED13L
– Khuyết tật trí tuệ liên quan đến MED13L
– MRFACD

QUẢN LÝ ALZHEIMER theo các chuyên gia tâm lý lâm sàng

Đây là góc nhìn của các chuyên gia tâm lý lâm sàng. Đoạn viết sau trích từ cuốn sách Tâm lý học bất thường và lâm sàng của tác giả Paul Bennett (2003) với người dịch chính là PGS.TS Nguyễn Sinh Phúc. Cho đến những năm 2015, thầy gần như là một chuyên gia tâm lý duy nhất làm việc trong lĩnh vực lâm sàng nói chung và Tâm thần nói riêng. Cho tới nay, trong các bệnh viện tâm thần, cũng đã có nhiều chuyên gia tâm lý. Tuy nhiên, vị trí việc làm này vẫn chưa thực sự rõ rệt và chưa có tiếng nói chuyên môn sâu sắc. Các chuyên gia tâm lý lâm sàng được đào tạo từ các ngành tâm lý của trường đại học khác, thực sự vẫn thiếu góc nhìn của nhà lâm sàng và việc hợp tác đa ngành rất kém. Vì vậy, tôi rất ngạc nhiên khi sưu tập được tài liệu này, vì góc nhìn rất hiếm hoi cũng như việc nó không được đề cập nhiều trong các hoạt động đa ngành trong nhiều năm qua. Thật tiếc vì thày Phúc đã không thể phát triển góc nhìn này ra một tầm vóc mạnh mẽ, tương xứng với vị trí tất yếu của tâm lý học lâm sàng, đồng thời đẩy mạnh hoạt động đa ngành trong chăm sóc sức khỏe.

Can thiệp tâm lý

Can thiệp nhằm cải thiện tối đa chất lượng cuộc sống và các chức năng tâm lý trong diễn tiến của bệnh. Các nhóm hỗ trợ gồm những người với những vấn đề giống nhau, có thể cải thiện, hỗ trợ các chiến lược đối phó trong những giai đoạn sớm của AD (Yale, 1995). Trong những giai đoạn muộn, thường có 3 cách tiếp cận trị liệu được sử dụng.

Định hướng hiện thực

Định hướng hiện thực (RO – Theo cách gọi của Holden & Woods, 1995) gồm việc trang bị cho người già có dấu hiệu lú lẫn, những thông tin phù hợp, giúp họ hiểu cẩn thận hơn về thế giới xung quanh. Có 2 dạng RO: RO 24 giờ nhằm tạo ra một môi trường với nhiều chỉ dẫn, giúp cá nhân định hướng được thời gian, không gian và bản thân: những chiếc đồng hồ và lịch rất to; các chỉ dẫn nhắc nhở tên gọi của cơ sở hoặc khu điều trị; tên gọi các phù hiệu. v.v. . Sự can thiệp xã hội đối với cá nhân cũng được xây dựng nhằm cung cấp những thông tin thích hợp. “xin chào ngài Jones. Tom ở đây.… Bây giờ bên ngoài khá lạnh, cũng giống như tháng giêng mọi khi…”. Các câu đơn giản đặc hiệu nhắc lại những thông tin trong ngày hoặc dùng để giao tiếp. Lớp RO Gồm những nhóm nhỏ gặp nhau trong khoảng từ 30 – 60 phút. Mặc dù có tên gọi như vậy nhưng buổi học tiến hành ở phòng tiện nghi, có các ghế mềm, với một bầu không khí thư giãn. Lựa chọn người tham gia dựa theo khả năng, các buổi học gồm tranh luận và cung cấp thông tin,thúc đẩy trí nhớ bằng nhiều cách trợ giúp, với các kênh khác nhau, từ báo chí, tranh, cho đến trò chuyện. v.v…

Tổng quan 21 buổi thử nghiệm RO, Holden và Wood (1995) đưa ra kết luận rằng kết quả đạt được tuy nhỏ nhưng rất quan trọng trong định hướng so với những trường hợp không được trị liệu hoặc trị liệu không có thiết kế trước. Dường như kết quả trong những lĩnh vực khác như nhận thức hay kỹ năng hành vi cũng rất khiêm tốn, mặc dù Reever & Ivison (1985) có thông báo rằng, đã đạt được một số tiến bộ về khả năng tự kiềm chế sau khi có sự kết hợp giữa lớp học và RO 24 giờ. Dù có kết quả cuối cùng như thế nào đi chăng nữa thì RO cũng có những khó khăn nhất định đối với những người định áp dụng, cụ thể là đối với những trường hợp cần nhắc nhở cho bệnh nhân, ở những thông tin dễ gây stress. Ví dụ, rất nhiều người bệnh AD đã quên đi cái chết của người bạn đời, và do lũ lẫn họ bắt đầu tìm kiếm, chờ đợi và yêu cầu gặp người đã chết. Theo RO Thì người chăm sóc phải nói cho bệnh nhân rằng, bạn đời của họ đã chết. Và đây lại có thể là tin xấu, gây stress cho bệnh nhân. Rất tiếc là người bệnh sau đó lại quên và tiếp tục hỏi tìm bạn đời, đòi hỏi người chăm sóc phải phủ nhận thông tin rằng bạn đời của họ đã mất. Chu trình như vậy lại tiếp tục gây stress cho cả người bệnh và người chăm sóc.

Trị liệu hiệu lực

Để khắc phục những nhược điểm của RO, Feil (1990) đã đưa ra một dạng trị liệu khác là trị liệu hiệu lực. Trị liệu này bao gồm lắng nghe và chú ý đến tất cả những sự lo sợ của người bệnh. Dành thời gian để hiểu cặn kẽ những vấn đề của họ và làm cho những vấn đề này có hiệu lực bằng cách đánh giá những gì họ cần phải nói. Những cuộc trò chuyện như vậy cần phải tạo cơ hội để xác định và làm thay đổi những niềm tin sai lầm. Tuy nhiên, đây chưa phải là yếu tố cốt lõi của tiếp cận này. Tiêu điểm là tập trung vào nghe và đáp lại các phản ứng cảm xúc hơn là nội dung thực những gì họ nói.

Trong trị liệu nhóm, các nhóm nhỏ có thể được bố trí để thảo luận những cảm giác khi diễn tả như tức giận, cách ly hoặc mất mát (Bleathman & Morton, 1992). Feil (1990) cho rằng bằng cách từ ngữ hóa các trí nhớ và suy nghĩ, và hiệu lực hóa bởi nhóm, các cá nhân có được cảm giác được chấp nhận. Phương pháp này nhấn mạnh đến sự cần thiết phải giải quyết những xung đột chưa được giải quyết. Nó cũng có những thành phần của trị liệu tâm lý động khi trị liệu nhấn mạnh đến sự đồng cảm và chấp nhận quan điểm của cá nhân về thế giới xung quanh và mang lại những khía cạnh nhân văn rõ rệt. Tuy nhiên, cũng chưa có một nghiên cứu nghiêm chỉnh nào nhằm đánh giá hiệu quả của phương pháp. Những gì có được chủ yếu là dựa trên cơ sở phân tích lịch sử trường hợp, không kiểm soát được. Trong một nghiên cứu Feil (1990) thông báo rằng đã hạn chế được những cơn khóc lóc đi lại lộn xộn sau đợt điều trị hiệu lực. Tuy nhiên, không có dữ liệu về hiệu quả bền vững hoặc những lợi ích lớn hơn so với các tiếp cận khác.

Liệu pháp hồi tưởng

Có 3 dạng liệu pháp hồi tưởng (Mc Malion & Phuclick, 1964). Hồi tưởng dạng câu chuyện bao gồm tái hiện những sự kiện dễ chịu. Nhìn lại cuộc đời bao gồm tái hiện và thảo luận chí nhớ cả những sự kiện tốt và xấu, những sự kiện chủ yếu từ ý thức. Cuối cùng là hồi tượng hào quang, bao gồm tập hợp nhiều lần những tình huống gây đau khổ hoặc thất vọng. Nhìn lại cuộc đời và hồi tưởng hào quang được cho là có tác dụng giải quyết xung đột trong quá khứ.

Liệu pháp hồi tưởng dựa trên mô hình phát triển của Erikson (1980) trong đó nhìn lại cuộc đời thường xuất hiện về cuối cuộc đời. Nhìn lại cuộc đời nói chung có thể là tích cực hoặc tiêu cực. Trong liệu pháp cá nhân, nhà trị liệu trợ giúp cá nhân làm sáng tỏ hơn và hiệu quả hơn sự phân tích của bản thân. Trong liệu pháp nhóm, các nhóm nhỏ xem xét cuộc sống của các thành viên thông qua sử dụng những gợi ý như các bức ảnh cũ, các buổi phát thanh hoặc truyền hình v.v… Cũng như đối với liệu pháp hiệu lực, chưa có nhiều nghiên cứu về hiệu quả của liệu pháp hồi tưởng. Những người tham gia chủ yếu thích được tham gia vào nhóm hồi tưởng. Cũng có một số thông báo về gia tăng tự đánh giá cũng như thỏa mãn cuộc sống. Sau khi tham gia vào nhóm (Ví dụ, Kovach, 1990). Tuy nhiên, chưa có nhiều dữ liệu chứng tỏ rằng nó hiệu quả hơn các hoạt động nhóm khác.

Thay đổi hành vi

Mặc dù những cách tiếp cận quan sát được (operant) nhằm thay đổi hành vi ở những người già lú lẫn, tạo ra được sự chú ý nhất định, song chưa có nhiều thông báo về việc sử dụng cũng như hiệu quả của nó. Tuy vậy, những nghiên cứu đã sử dụng quy trình này cho thấy nhìn chung là có hiệu quả. Ví dụ, Burgio và cs. (1988) Đã ứng dụng chương trình nhằm gia tăng việc sử dụng toilet hợp lý và giảm thiểu mức độ không tự chủ. Chương trình này bao gồm việc hỏi thường xuyên, đều đặn, xem các cá nhân có muốn vào toilet hay không và tiếp đó là củng cố việc sử dụng toilet. Chương trình đã đạt được hiệu quả rõ rệt, mặc dù các cá nhân chưa tự mình chủ động dùng toilet. Nhìn chung, các thành viên tham gia chương trình đã biết tăng cường sử dụng hệ thống trợ giúp. Các chương trình khác cùng làm giảm được hành vi lang thang, định hình và tăng tương tác, vận động xã hội (xem Woods & Roth, 1997). Theo Woods & Roth, thành tố cơ bản để đảm bảo cho các quy trình quan sát được đối với người già có thể không phải là phần thưởng cho những hành vi làm đúng. Rất có thể là việc sử dụng hệ thống chỉ dẫn, trợ giúp hành vi đóng vai trò quan trọng hơn.

Một yếu tố rất cần thiết nữa trong việc chăm sóc người già a sút trí tuệ là phải hạn chế đến mức tối thiểu những yêu cầu mang tính nhận thức đối với họ (Woods &Brid, 1999). Khi đối thoại phải dùng những câu ngắn luôn nhắc lại. Có thể dùng thêm những trợ giúp tương thích, ví dụ như tranh ảnh. Tuy nhiên, cũng cần tránh những trợ giúp gây phân tán, chú ý với những thông tin không tương thích. Các trợ giúp cần phải đơn giản và trực tiếp. Ví dụ, một mũi tên chỉ vào hình nhà vệ sinh được dán lên cửa có thể hiệu quả hơn hình một người phụ nữ hay nam giới, như thường thấy. Ngay cả những người sa sút trí tuệ, mức độ vừa và nhẹ cũng cần đến sự trợ giúp như vậy. Bất kỳ một sự trợ giúp nào cũng cần được hướng dẫn và tập luyện để củng cố thông tin của trợ giúp đó. Ví dụ, mỗi lần dẫn người bệnh ra nhà vệ sinh, người chăm sóc có thể nói với họ trong khi đi và chỉ cho họ những chỉ dẫn trợ giúp. Nếu ở nhà phải đảm bảo an toàn ở mức tối đa, ví dụ như thay lò sưởi ga bằng lò sưởi tích nhiệt…

Giúp đỡ những người chăm sóc

Chăm sóc những người bị AD Tại nhà cũng tạo ra rất nhiều căng thẳng cho những người chăm sóc, nhất là khi bản thân họ, thông thường là người già và sức khỏe cũng có hạn chế. Một số hình thức hỗ trợ và giúp đỡ cũng đem lại những lợi ích nhất định. Những sự trợ giúp này có thể do những người tình nguyện, dạng như Hội Alzheimer ở Anh, và những khoảng thời gian ngắn người chăm sóc được nghỉ ngơi khi người bệnh vào viện. Ngoài ra cũng có thể có những hình thức can thiệp khác.

Trong một phân tích gộp với 9 nghiên cứu được thiết kế để trợ giúp những người chăm sóc đối phó với stress, Knight và cs. (1992) đã đi đến kết luận rằng, cả 2 dạng can thiệp nhóm và các nhóm đều làm giảm cảm giác nặng nề và trầm cảm.

Gallagher – Thomson và Steffen (1994) so sánh 2 dạng can thiệp hành vi nhận thức và tâm lý động trong trị liệu những người bị trầm cảm bởi quá trình chăm sóc người thân cao tuổi. Cho đến giai đoạn cuối, cả 2 dạng can thiệp đều có hiệu quả. 71% số trường hợp đã không còn trầm cảm nữa. Tuy nhiên, trị liệu tâm lý động có hiệu quả hơn đối với những người làm công việc chăm sóc trong khoảng thời gian ngắn. Điều này có thể là do đối với những người mới vào vai trò người chăm sóc còn phải khám phá và tìm cách thực hiện vai trò. Đối với những người đã có khoảng thời gian dài làm công việc chăm sóc thì việc luyện tập các kỹ thuật đối phó với stress hàng ngày sẽ có lợi hơn. Cách thứ 2 để giúp những người chăm sóc đối phó với stress là trang bị cho họ những chiến lược, giúp họ quản trị hành vi của người thân một cách hiệu quả hơn. Ví dụ, Pinkston và cs. (1998 đã chỉ ra cách thức mà những người chăm sóc có thể quản trị được nhiều hành vi, trong đó có tự chăm sóc, tự làm hại và đi lang thang. Trên 75% số bệnh nhân có được một số cải thiện về hành vi sau khi những người chăm sóc được tập huấn nhằm làm giảm căng thẳng.

Câu hỏi tìm hiểu cho phân môn Tâm thần năm học 2022- 2023

Y5

Tên bàiSố tiết
1Đại cương -Các rối loạn tâm thần thực tổn (chương 1)04
2–  Các rối loạn tâm thần và hành vi do sử dụng chất tác động tâm thần (chương 2) – Các rối loạn loạn thần (chương 3) – Các rối loạn khí sắc (chương 4)     – Tác động không xâm lấn04
3– Các rối loạn liên quan đến stress (chương 5) – Hội chứng hành vi kết hợp với các rối loạn sinh lý (chương 6) – Liệu pháp tâm lý  04
4Các rối loạn tâm thần ở trẻ em và vị thành niên (chương 7)Hóa dược điều trị các rối loạn tâm thần04

Sinh viên chuẩn bị: viết thuyết trình các bài học theo buổi học, lưu ý

  • Mỗi bài do 1 nhóm chuẩn bị, phân công ít nhất 2 bạn trình bày, đề phòng có việc đột xuất. Một nhóm không được kiêm 2 bài trình bày trong 1 buổi học.
  • Slide trình chiếu ghi dưới dạng các từ khóa. Không copy đoạn văn bản dài.
  • Khi trình bày, không liệt kê các mục vì đã có sẵn tài liệu. Hãy trình bày về việc đọc hiểu bài học.
  • Cần trao đổi trước buổi trình bày liên hệ zalo 0988366618 hoặc zalo 0372776527
  • Tài liệu là Sức khỏe tâm thần tập 2

Sức khỏe tâm thần tập 2

Các tóm tắt để tìm hiểu bài giảng năm trước ở đây

https://adongclinic.vn/chuyen-muc/than-kinh-tam-ly-hoc

lịch lâm sàng cụ thể

Y3

TTTên bàiSố tiết
1– Đại cương về tâm lý học – Các phương pháp nghiên cứu tâm lý học – Ý thức- Chú ý – Nhận thức và trí tuệ – Cảm giác và tri giác  04
2– Tư duy – Trí nhớ – Học tập – Ngôn ngữ – Nhân cách04
3– Động lực- Thúc đẩy- Cảm xúc – Tâm lý xã hội học (Xã hội tính) – Các giai đoạn của cuộc đời (Tâm lý phát triển) – Khoa học thần kinh (chương 3)  04
4– Rối loạn hành vi – Rối loạn vần động và phối hợp vận động – Rối loạn tri giác – Rối loạn tư duy – Rối loạn cảm xúc -Rối loạn nhận thức, ý thức04

Tài liệu là Sức khỏe tâm thần tập 1

Sức khỏe tâm thần tập 1

Phần chuẩn bị bài giống với hướng dẫn cho sinh viên Y5

Hướng dẫn thực hành

Số buổi thực hành: 2

Thời gian thực hành: tương đương 4 tiết/ buổi

Chuẩn bị thực hành: mỗi tổ chia 4 nhóm. Chuẩn bị thực hành như sau:

Buổi 1: chuẩn bị 4 bài thuyết trình

Nhóm 1: bài Giao tiếp

Nhóm 2: Kĩ năng hỏi bệnh sử và tiền sử

Nhóm 3: Kĩ năng cung cấp thông tin

Nhóm 4: Kĩ năng thông báo tin xấu                                      

Buổi 2: Thuyết trình và Thực hành đóng vai tình huống giao tiếp mẫu.

Nhóm 1 bình luận bài Bị tử vong theo hướng dẫn và trình chiếu

Đọc bài viết “Bị tử vong”

 (lưu ý, đây chỉ là một hướng dẫn, không phải một khái quát)

  • Phân tích tình huống theo cách tiếp cận trong bài xã hội tính của con người
  • Phân tích tình huống theo cách tiếp cận tâm lý phát triển
  • Phân tích tình huống theo cách tiếp cận stress và ứng phó (bài đã được trình bày trong môn Tâm lý y đức, hoặc xem bài Tâm lý học sức khỏe trong tài liệu Sức khỏe tâm thần tập 1)
  • Phân tích tình huống theo cách tiếp cận giao tiếp “thày thuốc và bệnh nhân”

Nhóm 2 Kĩ năng hỏi bệnh sử, tiền sử

Nhóm 3 Kĩ năng cung cấp thông tin

Nhóm 4 Kĩ năng thông báo tin xấu

Phần thực hành sẽ dùng để đánh giá điều kiện thi – không đạt tương đương vắng 2 buổi lý thuyết

DSM 5- Nghiện chơi game trên Internet

Đây là phần dịch từ nguyên bản trên DSM5. Cần phân biệt nghiện cờ bạc (gambling) đã được đưa vào các phân loại chính thức DSM và ICD.

Tiêu chí đề xuất

Việc sử dụng Internet liên tục và thường xuyên để tham gia vào các trò chơi, thường là với những người chơi khác, dẫn đến suy giảm hoặc suy yếu nghiêm trọng về mặt lâm sàng như được chỉ ra bởi năm (hoặc nhiều hơn) điều sau đây trong khoảng thời gian 12 tháng:

1. Mối bận tâm với các trò chơi trên Internet. (Cá nhân nghĩ về hoạt động chơi trò chơi trước đó hoặc dự đoán chơi trò chơi tiếp theo; chơi game trên Internet trở thành hoạt động chủ đạo trong cuộc sống hàng ngày).

Lưu ý: Rối loạn này khác với cờ bạc trên Internet, được bao gồm trong nhóm rối loạn cờ bạc.

2. Triệu chứng rút tiền khi chơi game trên Internet. (Các triệu chứng này thường được mô tả là khó chịu, lo lắng hoặc buồn bã, nhưng không có dấu hiệu thể chất của việc cai nghiện thuốc).

3. Khả năng chịu đựng – nhu cầu dành thời gian ngày càng tăng cho các trò chơi trên Internet.

4. Cố gắng kiểm soát việc tham gia trò chơi trên Internet không thành công.

5. Mất hứng thú với các sở thích và giải trí trước đây do và ngoại trừ các trò chơi trên Internet.

6. Tiếp tục sử dụng các trò chơi Internet quá mức mặc dù đã biết về các vấn đề tâm lý xã hội.

7. Đã lừa dối các thành viên gia đình, bác sĩ trị liệu hoặc những người khác về số lượng trò chơi trên Internet.

8. Sử dụng trò chơi Internet để thoát khỏi hoặc giải tỏa tâm trạng tiêu cực (ví dụ: cảm giác bất lực, tội lỗi, lo lắng).

9. Đã gây nguy hiểm hoặc mất đi mối quan hệ, công việc, cơ hội giáo dục hoặc nghề nghiệp quan trọng vì tham gia vào các trò chơi trên Internet.

Lưu ý: Chỉ những trò chơi trên Internet không có yếu tố cờ bạc mới được đưa vào rối loạn này. Việc sử dụng Internet cho các hoạt động cần thiết trong một doanh nghiệp hoặc nghề nghiệp không được bao gồm; cũng không phải là rối loạn bao gồm việc sử dụng Internet để giải trí hoặc xã hội khác. Tương tự, các trang web tình dục trên Internet bị loại trừ.

Chỉ định mức độ nghiêm trọng hiện tại:

Rối loạn chơi game trên Internet có thể ở mức độ nhẹ, trung bình hoặc nặng tùy thuộc vào mức độ gián đoạn các hoạt động bình thường. Những người bị rối loạn chơi game trên Internet ít nghiêm trọng hơn có thể biểu hiện ít triệu chứng hơn và cuộc sống của họ ít bị gián đoạn hơn. Những người bị rối loạn chơi game trên Internet nghiêm trọng sẽ có nhiều giờ sử dụng máy tính hơn và mất đi các mối quan hệ, cơ hội nghề nghiệp hoặc trường học nghiêm trọng hơn.

Phân thể

Cho đến nay, không có phân thể nào được nghiên cứu kỹ lưỡng về chứng rối loạn chơi game trên Internet. Rối loạn chơi game trên Internet thường liên quan đến các trò chơi Internet cụ thể, nhưng nó cũng có thể liên quan đến các trò chơi máy tính không Intemet, mặc dù chúng ít được nghiên cứu hơn. Có khả năng các trò chơi ưa thích sẽ thay đổi theo thời gian khi các trò chơi mới được phát triển và phổ biến, và không rõ liệu các hành vi và hậu quả liên quan đến rối loạn chơi game trên Internet có khác nhau tùy theo loại trò chơi hay không.

Các đặc điểm chẩn đoán

Rối loạn cờ bạc hiện là chứng rối loạn không liên quan đến chất gây nghiện duy nhất được đề xuất đưa vào danh sách các rối loạn liên quan đến chất gây nghiện và chất DSM-5. Tuy nhiên, có những rối loạn hành vi khác cho thấy một số điểm tương đồng với rối loạn sử dụng chất kích thích và rối loạn cờ bạc mà từ nghiện ngập thường được sử dụng trong các cơ sở phi y tế, và một tình trạng có nhiều tài liệu đáng kể là việc ép buộc chơi trò chơi Internet. Chơi game trên Internet đã được chính phủ Trung Quốc xác định là “chứng nghiện” và một hệ thống điều trị đã được thiết lập. Các báo cáo về điều trị tình trạng này đã xuất hiện trên các tạp chí y khoa, chủ yếu từ các nước Châu Á và một số ở Hoa Kỳ.

Nhóm công tác DSM-5 đã xem xét hơn 240 bài báo và tìm thấy một số điểm tương đồng về hành vi của việc chơi game trên Internet với rối loạn cờ bạc và rối loạn sử dụng chất kích thích. Tuy nhiên, tài liệu gặp khó khăn do thiếu một định nghĩa tiêu chuẩn để lấy dữ liệu về tỷ lệ hiện mắc. Sự hiểu biết về lịch sử tự nhiên của các trường hợp, có hoặc không có điều trị, cũng thiếu. Tài liệu mô tả nhiều điểm tương đồng cơ bản với chứng nghiện chất, bao gồm các khía cạnh về khả năng chịu đựng, cai nghiện, những nỗ lực lặp đi lặp lại không thành công để cắt giảm hoặc bỏ thuốc và suy giảm chức năng hoạt động bình thường. Hơn nữa, tỷ lệ phổ biến có vẻ cao, cả ở các nước châu Á và ở mức độ thấp hơn ở phương Tây, đã hợp lý hóa việc đưa rối loạn này vào Phần III của DSM-5.

Rối loạn chơi game trên Internet có tầm quan trọng đáng kể đối với sức khỏe cộng đồng và nghiên cứu bổ sung cuối cùng có thể dẫn đến bằng chứng cho thấy rối loạn chơi game trên Internet (còn được gọi chung là rối loạn sử dụng Internet, nghiện Internet hoặc nghiện chơi game) có giá trị như một rối loạn độc lập. Cũng như với rối loạn cờ bạc, cần có các nghiên cứu dịch tễ học để xác định tỷ lệ hiện mắc, diễn biến lâm sàng, ảnh hưởng di truyền có thể xảy ra và các yếu tố sinh học tiềm ẩn dựa trên dữ liệu hình ảnh não, ví dụ.

Rối loạn chơi game trên Internet là một dạng chơi game trên Internet quá mức và kéo dài dẫn đến một nhóm các triệu chứng nhận thức và hành vi, bao gồm mất kiểm soát dần dần đối với việc chơi game, khả năng chịu đựng và các triệu chứng cai nghiện, tương tự như các triệu chứng của rối loạn sử dụng chất gây nghiện. Cũng như các chứng rối loạn liên quan đến chất gây nghiện, những người mắc chứng rối loạn chơi game trên Internet tiếp tục ngồi vào máy tính và tham gia vào các hoạt động chơi game mặc dù đã bỏ bê các hoạt động khác. Họ thường dành 8-10 giờ hoặc hơn mỗi ngày cho hoạt động này và ít nhất 30 giờ mỗi tuần. Nếu bị ngăn cản việc sử dụng máy tính và quay lại trò chơi, họ sẽ trở nên kích động và tức giận. Họ thường chơi trong thời gian dài mà không ăn hoặc ngủ. Các nghĩa vụ bình thường, chẳng hạn như trường học hoặc công việc, hoặc nghĩa vụ gia đình bị bỏ qua. Tình trạng này tách biệt với rối loạn cờ bạc liên quan đến Internet vì không có rủi ro tiền bạc.

Đặc điểm cơ bản của chứng rối loạn chơi game trên Internet là việc tham gia chơi game trên máy tính, điển hình là các trò chơi nhóm, liên tục và thường xuyên trong nhiều giờ. Các trò chơi này liên quan đến sự cạnh tranh giữa các nhóm người chơi (thường ở các khu vực toàn cầu khác nhau, do đó thời gian chơi được khuyến khích bởi sự độc lập về múi giờ) tham gia vào các hoạt động có cấu trúc phức tạp bao gồm khía cạnh quan trọng của các tương tác xã hội trong quá trình chơi. Các khía cạnh của đội dường như là một động lực chính. Những nỗ lực hướng cá nhân đến bài tập ở trường hoặc các hoạt động giữa các cá nhân đều bị phản đối mạnh mẽ. Do đó, việc theo đuổi cá nhân, gia đình hoặc nghề nghiệp bị bỏ qua. Khi các cá nhân được hỏi, lý do chính được đưa ra để sử dụng máy tính có nhiều khả năng là “tránh cảm giác nhàm chán” hơn là giao tiếp hoặc tìm kiếm thông tin.

Mô tả các tiêu chí liên quan đến tình trạng này được phỏng theo một nghiên cứu ở Trung Quốc. Cho đến khi các tiêu chí và ngưỡng tối ưu để chẩn đoán được xác định theo kinh nghiệm, nên sử dụng các định nghĩa thận trọng, sao cho các chẩn đoán được xem xét để chứng thực cho năm hoặc nhiều hơn trong số chín tiêu chí.

Các đặc điểm liên quan hỗ trợ chẩn đoán

Không có loại tính cách nhất quán nào liên quan đến chứng rối loạn chơi game trên Internet đã được xác định. Một số tác giả mô tả các chẩn đoán liên quan, chẳng hạn như rối loạn trầm cảm, rối loạn tăng động giảm chú ý (ADHD), hoặc rối loạn ám ảnh nghi thức (OCD).

Các cá nhân nghiện chơi game trên Internet đã chứng tỏ khả năng kích hoạt não ở các vùng cụ thể được kích hoạt bằng cách tiếp xúc với trò chơi Internet nhưng không giới hạn ở cấu trúc hệ thống phần thưởng

Sự phổ biến

Tỷ lệ rối loạn chơi game trên Internet không rõ ràng do các bảng câu hỏi, tiêu chí và ngưỡng được tuyển dụng khác nhau, nhưng dường như tỷ lệ này cao nhất ở các nước Châu Á và ở nam thanh niên từ 12-20 tuổi. Có rất nhiều báo cáo từ các nước châu Á, đặc biệt là Trung Quốc và Hàn Quốc, nhưng ít hơn từ châu Âu và Bắc Mỹ, do đó các ước tính về tỷ lệ mắc bệnh rất khác nhau. Tỷ lệ phổ biến ở thanh thiếu niên (15-19 tuổi) trong một nghiên cứu châu Á sử dụng ngưỡng năm tiêu chí là 8,4% đối với nam và 4,5% đối với nữ.

Các yếu tố rủi ro và tiên lượng

Thuộc về môi trường. Tính khả dụng của máy tính có kết nối Internet cho phép truy cập vào các loại trò chơi mà chứng rối loạn chơi game trên Internet thường liên quan nhất.

Di truyền và sinh lý. Nam giới ở tuổi vị thành niên dường như có nguy cơ mắc chứng rối loạn chơi game trên Internet cao nhất và người ta đã suy đoán rằng nền tảng di truyền và / hoặc môi trường châu Á là một yếu tố nguy cơ khác, nhưng điều này vẫn chưa rõ ràng.

Hậu quả chức năng của rối loạn chơi game trên Internet

Rối loạn chơi game trên Internet có thể dẫn đến thất bại ở trường học, mất việc làm hoặc thất bại trong hôn nhân. Hành vi chơi game ép buộc có xu hướng lấn át các hoạt động xã hội, học tập và gia đình bình thường. Học sinh có thể bị giảm điểm và cuối cùng là thất bại ở trường. Trách nhiệm gia đình có thể bị bỏ qua.

Chẩn đoán phân biệt

Sử dụng Internet quá mức không liên quan đến chơi trò chơi trực tuyến (ví dụ: sử dụng quá nhiều phương tiện truyền thông xã hội, chẳng hạn như Facebook; xem nội dung khiêu dâm trực tuyến) không được coi là tương tự như chứng rối loạn chơi game trên Internet và nghiên cứu trong tương lai về việc sử dụng Internet quá mức khác sẽ cần làm theo các hướng dẫn tương tự như được đề xuất ở đây. Cờ bạc trực tuyến quá mức có thể đủ tiêu chuẩn để được chẩn đoán riêng về rối loạn cờ bạc.

Bệnh kèm theo

Sức khỏe có thể bị sao nhãng do ép chơi game. Các chẩn đoán khác có thể liên quan đến chứng rối loạn chơi game trên Internet bao gồm rối loạn trầm cảm nặng, ADHD và OCD.