Việc công bố về tiêu chí cho thấy ý nghĩa của việc lập luận trong cuộc sống. Chúng ta hay bị trực quan cuốn hút, và tất nhiên, sẽ bị ảnh hưởng bởi thiên kiến trong nhận định.
Để xem xét ý nghĩa của việc ra đời cái tiêu chí này, chúng ta cần xem xét nó trong bối cảnh dịch bệnh trên toàn cầu đã bước sang cuối năm thứ 2. Việc giãn cách đã diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới. Song song với việc chấp hành, rất nhiều ý kiến phản đối, thậm chí ở mức độ biểu tình, đã diễn ra. Đứng về góc độ môn học Y tế công cộng, không rõ các vấn đề như thế này có được đưa vào giảng dạy?
Mình thấy 1 nhóm công nghệ thông báo về việc họ đang xây dựng ứng dụng AI để dùng tiếng ho phát hiện bệnh covid 19 cách đây mấy tuần rồi. Vì nó chỉ là 1 thông báo, nhóm cũng không công bố thành viên là dân Y khoa, nên mình thắc mắc là tại sao chọn tiếng ho, việc chọn như vậy có tùy tiện không. Hôm nay đọc bài này mới biết là MIT đã làm, và tỉ lệ phát hiện (độ chính xác) là 97%, cao hơn của nhóm VN mình. Nhưng với tỉ lệ 91% của công nghệ VN, câu hỏi là khi nào kĩ thuật này đi vào đời sống? Tính chất hỗ trợ chẩn đoán của nó trong bối cảnh dịch bệnh vượt quá khả năng xét nghiệm vi sinh? Và bản thân xét nghiệm vi sinh cũng tiềm ẩn khả năng lây lan.
Trong rất nhiều phê phán và bào chữa các hành vi gần đây, nói chung, đều có “đã làm sai quy trình”, hoặc “đã làm đúng quy trình”. Đây đó, khi thắc mắc “tại sao lại lại làm thế” thì câu trả lời là “quy trình nó thế”.
Tôi không biết mình sa vào cái vũng lầy của việc không biết nên tranh luận ra sao với những “robot” như vậy. Nhưng việc bản thân chưa có lập luận tốt vẫn khiến tôi đi tìm câu trả lời.
Phó Đức Trù- diễn đàn ISO VN
Và Phạm Đức Trù kết luận, quá trình là bắt buộc (vì sẽ ra kết quả dự kiến), còn quy trình thì không bắt buộc. Và đây là khái niệm dành cho bên sản xuất, đặc biệt là khi sản xuất quy mô lớn. Vì để đảm bảo sản phẩm đầu ra ổn định chất lượng với một số lượng lớn, không thể làm mỗi chỗ một kiểu.
Tuy nhiên, nếu hiểu như vậy, để ra một kết quả dự kiến, có thể có nhiều quá trình. Đặc biệt với một hoạt động nhận thức. Nên khi đó, người ta không quá chú trọng quá trình, mà chú trọng nhiều vào quy trình. Nhưng một quy trình tốt phải gắn được với quá trình thực. Có rất nhiều quy trình xây dựng trên giời, chẳng gắn với quá trình nào. Thậm chí người ta chỉ đi sao chép một quy trình “quốc tế”, khen nó tiến bộ, nhưng thật tiếc, nó không gắn với quá trình thực ở VN. Và đúng là có rất nhiều sự nhầm lẫn không nên có, khiến tranh luận tích cực khó xảy ra, chỉ vì không phân biệt tốt hai việc khác nhau.
Thế nên, khi một hành vi được coi là có vấn đề, cái gì được xem xét?
Theo tôi, trong trường hợp trên, nên xem xét quy trình. Nhưng làm ơn đừng nói “quy trình đã được abc duyệt”, hoặc quy trình “quốc tế” nhé. Quy trình mà không gắn với quá trình thực nào thì đều cần xem xét lại.
Còn trong trường hợp dưới, thì phải xem xét lại quá trình, với đầu vào và đầu ra. Không thể nói học một “mẫu” là học ‘giả’. Đó là một hành vi đáp ứng tiêu chí “học”, nên nếu bàn luận như vậy sẽ không hi vọng có giải pháp phù hợp. Thậm chí còn làm cho nhiều người hiểu sai, cho là “học thuộc” không phải là học.
LỰC LƯỢNG TRUY VẾT KỂ LẠI NHỮNG CUỘC TRÒ CHUYỆN ĐẶC BIỆT VỚI F0, F1…
Một đặc điểm chung của hầu hết các bệnh nhân hay người nhà của họ, mà tôi cảm nhận được qua những cuộc gọi, chính là tâm lý lo sợ và thậm chí là hoảng loạn.
– Alô! Xin hỏi đây có phải là số điện thoại của bác … không ạ? Cháu là thành viên thuộc đội truy vết của thành phố Thuận An.
– Dạ đúng số rồi anh, nhưng mẹ em đã qua đời ngày hôm qua vì Covid-19 anh ạ!
Cuộc gọi truy vết F0 từ đầu tuần trước khiến tôi trăn trở đến tận bây giờ.
Nguyễn Ngọc Minh Hải, 23 tuổi, quê Quảng Ninh là sinh viên chuyên ngành Bác sĩ Đa khoa, Đại học Y Hà Nội. Ngày 6/7, Minh Hải cùng hơn 300 sinh viên và cán bộ Đại học Y Hà Nội “nam tiến” để chi viện cho các điểm nóng về dịch.
Hơn một tháng làm nhiệm vụ truy vết ở thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương, nhóm chúng tôi đã thực hiện hơn 4.000 cuộc gọi cho các F0 để thực hiện nhiệm vụ. Mỗi cuộc trò chuyện đôi khi không chỉ dừng lại ở những câu hỏi – đáp về yếu tố dịch tễ đơn thuần, mà còn là câu chuyện rất “đời” của chính các “F”.
Tiến vào tâm dịch
Trưa 6/7, tôi cùng hơn 300 bạn học và các thầy cô, trong lực lượng của trường Đại học Y Hà Nội chi viện miền Nam, đặt chân xuống Sân bay Tân Sơn Nhất.
Trên chuyến xe đi từ TPHCM về Bình Dương, ấn tượng lớn nhất lúc đó là sự thay đổi gần như 180 độ của nơi này so với những hình ảnh mà tôi còn nhớ trong chuyến đi đúng một năm về trước. Sự nhộn nhịp, phồn hoa bị thay thế bằng những con đường vắng hoe, cánh cửa đóng chặt của các hàng quán và tiếng còi xe cấp cứu.
Khung cảnh ảm đạm này cũng cảnh báo chúng tôi về một cuộc chiến không dễ dàng ở trước mắt.
Đẩy “KPI” lên gấp 3 lần để chạy đua với Covid-19
Tôi cùng 27 bạn sinh viên khác trong đoàn được phân công vào tổ truy vết các F0.
Nhóm chúng tôi làm việc tại một trụ sở UBND phường. Căn phòng có sức chứa tối đa hơn 20 người, không bật điều hòa, cửa sổ mở thoáng, ngồi giãn cách, thường xuyên lau mặt bàn bằng cồn để đảm bảo môi trường sạch khuẩn.
Nơi lực lượng truy vết làm việc là một phòng họp trong trụ sở UBND phường.
Một ngày làm việc bắt đầu bằng những cuộc gọi đến số máy của người có trong danh sách dương tính với SARS-CoV-2 từ lô mẫu xét nghiệm vừa chạy hôm trước.
Để tránh ồn ào, chúng tôi tách nhau ra để gọi điện, tìm mọi vị trí, người ra ban công, người ngồi hiên nhà, bất cứ chỗ nào miễn có nơi kê sổ để ghi chép.
Khai thác thông tin về tình trạng sức khỏe của F0 và những người liên quan; lịch trình di chuyển, tiếp xúc; lập cầu nối 2 chiều giữa F0 và lực lượng chức năng địa phương nếu họ có nhu cầu cần được giải quyết; cùng những vấn đề chuyên môn khác nếu cần là mục tiêu mà chúng tôi cần đạt được trong mỗi cuộc gọi.
Từ những thông tin này, chúng tôi sẽ lập báo cáo dịch tễ của F0 và lên phương án xuống cộng đồng để truy vết ngay trong ngày nếu cần.
Thời gian đầu, mỗi ngày Bình Dương ghi nhận khoảng 50 – 100 ca, còn ở thời điểm hiện tại, con số này đã ở mức trên 1.000 thậm chí có ngày trên 2.000 – 3.000 ca bệnh được ghi nhận. Điều này đồng nghĩa với việc khối lượng công việc của chúng tôi cũng tăng lên rất nhiều.
Từ 10 F0/người/ngày, đến nay chúng tôi đang đặt “KPI” cao gấp 3 lần để đuổi kịp diễn biến dịch bệnh.
Là sinh viên ngành Bác sĩ đa khoa, truy vết F0 không phải là thế mạnh của tôi. Song, những khóa tập huấn thường kì của nhà trường cho lực lượng dự bị chống dịch, cũng giúp tôi đủ tự tin về năng lực chuyên môn. Tuy nhiên, khó khăn đôi khi lại phát sinh từ chính những điều mà tôi không hề nghĩ đến trước khi bước vào cuộc chiến thực sự.
Cuộc trò chuyện đặc biệt với các “F”
Một đặc điểm chung của hầu hết các bệnh nhân hay người nhà của họ, mà tôi cảm nhận được qua những cuộc gọi, chính là tâm lý lo sợ và thậm chí là hoảng loạn.
Từ thực tế này, tổ truy vết vẫn thường xuyên trao đổi chuyên môn với nhau để tìm ra cách khai thác thông tin để ít ảnh hưởng tâm lý các bệnh nhân nhất.
Có trường hợp con là F0 nhưng số điện thoại được cung cấp cho lực lượng truy vết lại là của bố, mẹ và đang không ở cùng con. Biết được tin con dương tính SARS-CoV-2, họ đều rất hoảng hốt. Liên tiếp những câu hỏi về tình hình, sức khỏe từ phía đầu dây bên kia, bởi có lẽ với họ lúc này, chúng tôi là kênh thông tin duy nhất về con mình. Tiếc rằng, chúng tôi cũng là người đang đi tìm lời giải cho những câu hỏi đó.
Một cuộc gọi khác đến người đàn ông đã ngoài 30 tuổi. Sau khi được thông báo có kết quả dương tính SARS-CoV-2, câu hỏi đầu tiên của anh ta không phải là về tình trạng của mình, mà là cô con gái đã có triệu chứng sốt 2 ngày nay.
Nhiều người sợ cách ly tập trung hơn cả Covid-19, thế nên việc đầu dây bên kia tắt máy hay giả vờ báo nhầm số ngay sau khi chúng tôi giới thiệu là lực lượng truy vết là chuyện xảy ra như cơm bữa.
“Các em gọi thế này chị biết mình là F0 rồi. Nhưng chị sợ người thân của mình phải vào khu cách ly, sinh hoạt, ăn uống không hợp và nhỡ đâu có nguy cơ lây nhiễm chéo, nên chị sẽ không trả lời câu hỏi của em”, một F0 từng “bất hợp tác” với chúng tôi theo cách đặc biệt như vậy. Và dĩ nhiên, đây là tình huống không hề có trong “sách vở”.
Cũng đã không dưới 10 lần, khi cuộc gọi truy vết được thực hiện thì bệnh nhân đã nằm trong phòng Hồi sức cấp cứu và thậm chí có người đã trút hơi thở cuối cùng từ trước đó. Gác máy sau mỗi cuộc gọi như vậy, tôi lại suy nghĩ về sự nguy hiểm của Covid-19 và trách nhiệm đi trước diễn biến dịch của lực lượng trên tuyến đầu chúng tôi.
Sức nặng của số “1”
Những cuộc trò chuyện với “F” không chỉ gói gọn trên điện thoại. Tất cả mọi ngày, chúng tôi đều có một danh sách dài những trường hợp cần truy vết cộng đồng.
Đặc điểm của Bình Dương là nhiều khu công nghiệp. Do đó, địa bàn chúng tôi xuống truy vết cộng đồng thường là các khu nhà trọ công nhân nằm san sát nhau.
Những trường hợp cần tìm gặp để điều tra dịch tễ chủ yếu là gia đình, đồng nghiệp hay hàng xóm của bệnh nhân. Trong các cuộc truy vết cộng đồng, lo lắng không phải là tâm lý của riêng các “F”, mà cả của chính nhân viên y tế, khi mỗi cuộc đối thoại đều tiềm ẩn nguy cơ lây nhiễm.
Điều quan trọng nhất và cũng là thử thách lớn nhất khi truy vết cộng đồng là phải xác định được người mình vừa điều tra là F1 hay F2. Có trường hợp một người phụ nữ là vợ sống cùng nhà với F0. Theo logic thông thường, người này chắc chắn sẽ là F1. Thế nhưng kết quả điều tra lại cho thấy, người chồng đã cách ly tại công ty từ cách đây 10 ngày, nghĩa là khả năng nguồn lây của F0 không liên quan đến gia đình. Do đó, chúng tôi phải tự đặt ra câu hỏi cho chính mình trong mọi tình huống.
Thời gian đầu, F1 phải đi cách ly tập trung, F2 cách ly tại nhà. Do vậy, chỉ khác một con số đã là sự thay đổi rất lớn, đặc biệt là khi những trường hợp được điều tra là trẻ em hay người già.
Chính vì vậy, trước khi đặt bút kết luận, chúng tôi phải rất cẩn trọng. Ngoài bám thật sát hướng dẫn chuẩn của Bộ Y tế, nếu có bất kì điểm gì chưa chắc chắn, chúng tôi sẽ phải xin ý kiến của lực lượng y tế địa phương hoặc nếu cần là tham vấn các thầy, chuyên gia dịch tễ của Đại học Y Hà Nội.
Tôi còn nhớ như in về một trường hợp cụ bà 70 tuổi, tôi trực tiếp điều tra truy vết và xác định là F1. Chỉ 15 phút sau, con gái của bà gọi cho tôi vừa nói vừa nấc nghẹn: “Em xem kỹ lại kết quả giúp chị. Mẹ chị chừng này tuổi rồi, sợ bà vào khu cách ly nhỡ may…”
Thế nên, với chúng tôi, đưa ra một quyết định chính xác không chỉ là nhiệm vụ chuyên môn mà còn là trách nhiệm với xã hội.
Bài chia sẻ này bộc lộ quá nhiều bất cập:
Thứ nhất, có nhiều nội dung thuộc chuyên môn, ví dụ thế nào là trạng thái hoảng sợ, hoảng loạn, được dạy trong chương trình, từ tâm lý y học đến tâm thần, nhưng bạn này lặp đi lặp lại là không thuộc chuyên môn. Có cách ứng xử cho các trường hợp hoảng sợ, hoảng loạn như vậy, có dạy các bạn, – không học rồi khăng khăng là “ngoài sách vở”
Việc xếp đối tượng là F0, F1, bản thân chúng ta là bác sĩ, còn không phân biệt được, khi mà trên danh nghĩa là “ở cùng nhà”, nhưng thực tế, người ta không ở cùng nhà, mà lên đây bảo là phải suy nghĩ… này nọ, vậy chúng tôi dạy các bạn tư duy lâm sàng nó trôi đi đâu? Từ lý thuyết, ở đây là hướng dẫn của bộ về phân loại F0, F1, đến khi vào thực tế, sự biến động này là bình thường với tất cả các lý thuyết y học và hướng dẫn y tế. Mình đã tham gia chương trình thực tập cộng đồng của Y5, một nội dung của môn Y tế công cộng, chính là môn học cung cấp cho các bác sĩ tương lai sự hiểu biết về biến động này, nên mình có thấy, chỉ là nó đã được nhấn mạnh đến đâu ở người dạy và người học.
Và cuối cùng, tất cả các hành vi ứng xử được nêu ra trong bài đều là những hành vi ứng xử có ý thức, nêu được những những nỗi lo thực tế, ko có yếu tố mơ hồ của một lo lắng hay hoảng loạn không đáng có hoặc làm trở ngại sự ứng phó của người dân. Sự bất hợp lý, bất hợp tác, đến từ hành vi xử lý thiếu khoa học của chính chúng ta.
Trong nhiều năm, tôi nhận được rất nhiều lời chê bai về khả năng giao tiếp của bản thân.
Có lẽ vì thế, tôi không ngừng đi tìm kiếm một sự nhận thức khoa học về vấn đề này. Con đường đi như vậy vấp phải nhiều lực cản. Đầu tiên, có vẻ như rất ngớ ngẩn khi đi tìm kiếm câu trả lời khoa học. ‘Ồ, đó là kĩ năng sống!’. ‘Khoa học chẳng liên quan!’. Và một câu hay được trích dẫn “Lý thuyết chỉ có một màu xám xịt, chỉ cây đời là mãi xanh tươi” (nói đến câu này, tôi luôn mường tượng nó với giọng của thày Trần Hữu Bình- thực sự thì thày luôn mang lại lại cho tôi cảm giác nồng nhiệt với cuộc sống, một trong số ít những người thày có ấn tượng với tôi từ khi còn là sinh viên Y khoa, đến sau này, khi là học viên sau Đại học). Thứ hai, thật sự thì sau rất nhiều vấp váp trong đời, cho đến giờ phút này, những người bạn vẫn còn đồng hành với tôi vẫn làm tôi hài lòng với giao tiếp của chính mình. Nghĩa là sự hài lòng với bản thân có thể đã làm chặng đường tìm kiếm chân lý của tôi kéo dài ra. Và cuối cùng, vẫn là câu trả lời mà bản thân mong muốn, thật khó tìm. Từ chỗ, chẳng có tài liệu gì viết về ‘cái thứ giao tiếp’. Sau đó, là sự ra đời và ảnh hưởng mạnh mẽ của các sách ‘self-helf’, sự phát triển ồ ạt của những hướng dẫn bán hàng và làm giàu nhanh chóng, rồi đến cả những scandal trong ngành y, liên quan đến giao tiếp thày thuốc bệnh nhân- nhưng đã được xử lý một cách hời hợt, nông cạn, làm cho giao tiếp luôn trở thành chủ đề phụ và chỉ nhằm cố gắng làm thỏa mãn người khác. Việc không thỏa mãn người khác, rồi bị chỉ trích, (mà không phải chỉ trích cái mà họ không thỏa mãn, họ chỉ trích giao tiếp của ta), hóa ra không phải nỗi khổ của riêng mình. Đã có câu hỏi đặt ra cho tôi: “Cô ơi, em phải đọc sách nào để làm hài lòng các bệnh nhân?”
Năm 2015 tôi tiếp cận với “Tâm lý Y học” mà thày Nguyễn Sinh Phúc là chủ biên, và cảm thấy đây là một trong tài liệu đầu tiên viết khá bài bản về vấn đề giao tiếp, trong bối cảnh một hệ thống kiến thức tâm lý học. Tuy nhiên, tôi vẫn chưa thấy hài lòng với với các các nội dung nó mang lại. Trong một thời gian dài, tôi không thể phân tích thấu đáo, tại sao mình thấy như thế. Cũng có dịp thày Phúc nói với tôi là, giảng viên của ĐHY Hà Nội, đơn vị chủ trì của tài liệu này cùng với Bộ Y tế, chỉ có khả năng giảng như vậy, nên cho dù thày mong muốn nó có nội dung cập nhật hơn, cũng không được. Rồi sau đó, tôi tiếp cận với “Bài giảng Kĩ năng y khoa” mà tôi khá thất vọng với phần kĩ năng giao tiếp của nó. Đành dùng vậy, vì chưa tìm được nội dung thay thế tốt hơn.
Năm 2017, tôi tiếp cận với loạt bài giảng “Giao tiếp trong suốt cuộc đời” của giảng viên Hoàng Văn Quyên và Simone Maffescioni (trong chương trình Ngôn ngữ trị liệu Nhi 10 tháng của ĐHY Phạm Ngọc Thạch). Đây là một góc tiếp cận mới, khác biệt và quan trọng, hướng cho tôi trong việc tìm kiếm tri thức về giao tiếp một cách khoa học hơn. Nhưng tại lúc học đó, thú thật, tôi cũng chả hiểu gì cả. Các kiến thức thì thú vị, nhưng rời rạc, có vẻ không đồng nhất, do nó không phân biệt được những nguyên lý tâm lý và sinh lý, thậm chí các yếu tố sẽ là bệnh lý, trong những nội dung đó. Tôi vẫn không sao phân tích được sự rối rắm trong đó.
Năm 2019 tôi bắt đầu tiếp cận được với trường phái Tâm lý học nhận thức, đi sâu vào nội dung này trong ‘mùa covid thứ nhất’, và ngay lập tức nhận ra mô hình lý thuyết có thể giải thích được một cách hệ thống các hiểu biết của bản thân, với tư cách là một bác sĩ với 2 chuyên ngành, một chuyên viên vật lý trị liệu, một giảng viên. Nội dung cuốn Sức khỏe Tâm thần cho sinh viên năm 3 năm học 2020-2021, tham khảo chủ yếu từ cuốn Tâm lý học căn bản của Robert S. Fielman, với bản dịch của Minh Đức và Hồ Kim Chung, Nhà xuất bản văn hóa- thông tin 2004, làm tôi cảm thấy rất hài lòng. Tuy nhiên, phản hồi với cuốn sách thì chưa tốt. Đối với một số người đọc, quả thật, tôi trông đợi họ một phản hồi khoa học, vì họ có vẻ là ‘khoa học’, thì lại nhận được ‘chả hiểu gì cả’, hoặc im lặng, hoặc tồi tệ hơn cả là chưng ra cho tôi một mớ tư liệu, kiểu mà tôi đã bỏ qua từ lâu, vì nó không giải đáp được các thắc mắc của bản thân, và cả vì nó vẫn chạy theo khuynh hướng coi giao tiếp là sự làm hài lòng người khác. Tôi lại tự kiểm điểm một cách nghiêm túc xem liệu mình sai ở đâu. Tâm lý học nhận thức của Fielman không nói trực tiếp về Giao tiếp, nhưng đã đề cập đến Ngôn ngữ như là một chức năng nhận thức. Mà khi xem xét trị liệu Ngôn ngữ thì khái niệm Ngôn ngữ và Giao tiếp đã bị lồng với với nhau.
Cho tới khi tôi tiếp cận với tài liệu Lịch sử Động kinh của Simon Shorvon, 2016 (đã trích dịch trên blog này), tôi rất thích thú với phát hiện của tác giả về quan điểm của John Hughlings Jackson, khi xem xét hệ thống khái niệm và phân loại đương thời về Động kinh (lúc đó là cuối thế kỉ 19, đầu thế kỉ 20), với góc nhìn của ‘nhà thực vật học và người làm vườn’. Một hình ảnh mà ngay lập tức đã làm tôi hiểu rõ ràng vướng mắc mình đang gặp phải, cũng như giải thoát bản thân khỏi cảm giác thất bại khi những kiến thức mình đang cập nhật bị các phản hồi âm tính như vậy. Rõ ràng, nếu ai đó chỉ muốn làm vườn, trong ngắn hạn, hoặc làm vườn dài hạn, đã tìm tòi trong kho tri thức thực vật học mà chưa thấy nội dung mình mong muốn, thì cứ làm “người làm vườn’. Các nhà thực vật học sẽ muốn kết bạn và cùng tìm hiểu với kiểu người làm vườn sau, nhưng không phải kiểu người làm vườn trước. Nhưng làm ơn, đừng phát biểu cái câu “Lý thuyết chỉ có một màu xám xịt, chỉ cây đời là mãi xanh tươi” với nhà thực vật học thực sự! Không có nhà thực vật học thực thụ nào làm việc với ‘lý thuyết’ và ‘cây đời’ tách biệt nhau cả. Và nếu chúng ta chỉ phát triển những nhà làm vườn giỏi, rất tốt thôi vì ra sản phẩm ngay, thì nền khoa học thực vật học đi về đâu, và khi các nhà làm vườn gặp khó với loại sâu bệnh mới, đòi hỏi mới về chất lượng và hình thức sản phẩm… thì sao đây. Còn dĩ nhiên, các nhà thực vật học mà chỉ chăm chăm phát triển các ý tưởng ‘trên giời’ thì không được xem xét ở đây.
Quay trở lại chủ đề giao tiếp, tôi đã giới thiệu một nội dung của Kory Floyd, mô tả góc nhìn của ông về giao tiếp. Ít nhất nội dung này đã ‘thực vật học’ hơn, với một nội dung khoa học ở cấp độ tiến sĩ. Ở đây tôi bắt đầu nhận ra khía cạnh hành vi và khía cạnh tương tác của nội hàm trong từ giao tiếp. Khá tốt rồi! Nhưng e là chưa đủ. Sau bài mở đầu, tài liệu của Kory Floyd chưa làm tôi thỏa mãn, nên tôi đang dừng lại, chưa dịch tiếp.
Vì vậy tôi xin giới thiệu một tác phẩm khác, có thể sẽ thỏa mãn sự tìm tòi khoa học. Tất cả còn đang ở phía trước vì tôi vẫn còn đang đọc cuốn sách này.
John M. Wiemann, từ Đại học California, Santa Barbara, giới thiệu cuốn sách Sổ tay Kỹ năng Giao tiếp và Tương tác Xã hội của John O. Greene và Brant R. Burleson. Ấn bản này được xuất bản trong Thư viện điện tử Taylor & Francis, 2008.
Người đọc cuốn sách này gần như chắc chắn đồng ý rằng nhiều hoạt động quan trọng nhất mà chúng ta tham gia là giao tiếp. Khả năng tạo ra và duy trì thế giới xã hội của chúng ta phụ thuộc rất nhiều vào cách chúng ta giao tiếp. Các kỹ năng xã hội của mọi người rất quan trọng đối với hạnh phúc của họ — cá nhân và tập thể. Không thể nói quá tầm quan trọng của việc hiểu được cách ứng xử khéo léo trong mọi sự phức tạp của nó.
Cuốn Sổ tay này là một cột mốc quan trọng trong việc nghiên cứu các kỹ năng giao tiếp. Xét về chiều sâu và bề rộng, đây là một công trình đáng chú ý, vừa ghi chép lại lĩnh vực này vừa cung cấp một khuôn khổ cho thế hệ lý thuyết và nghiên cứu tiếp theo. Khi đã đạt đến một cột mốc quan trọng như vậy, việc bắt đầu lại hành trình cho đến nay sẽ rất hữu ích.
Lịch sử của ngành giao tiếp (được hiểu theo nghĩa rộng) là câu chuyện về xác định, điều tra và dạy các kỹ năng xã hội. Kỹ năng giao tiếp cũng có một khía cạnh đạo đức ở chỗ chúng có thể được sử dụng cho mục đích tốt hay xấu; kẻ bắt nạt ở sân chơi và kẻ phá hoại chính trị có thể sử dụng một số kỹ năng giao tiếp nhất định để hoàn thành mục tiêu của họ và thúc đẩy người khác hành động thay cho họ, nhưng mang lại kết quả xấu. Tuy nhiên, gốc rễ của sự hiểu biết và giảng dạy các kỹ năng xã hội chủ yếu là phục vụ phúc lợi công cộng. Việc giảng dạy hùng biện sớm nhất được thúc đẩy bởi nhu cầu công dân có đủ năng lực để tham gia vào quản trị dân chủ (và thậm chí ngày nay, sự tham gia của địa phương, quốc gia và quốc tế đòi hỏi công dân học cách nói chuyện hiệu quả với người khác).
Tất nhiên, theo thời gian, sự hiểu biết của chúng ta về ý nghĩa của việc trở thành một thành viên có kỹ năng xã hội đã được mở rộng. Mọi người không chỉ cần thực hiện các bài phát biểu trước công chúng một cách hiệu quả, họ còn cần quản lý các diễn ngôn xã hội và thân mật, cũng như sử dụng và phản hồi với các công nghệ khác nhau. Hơn nữa, chúng tôi đã nhận ra rằng người lớn không phải là những người duy nhất cần các kỹ năng xã hội; trẻ em cũng cần có một loạt các kỹ năng xã hội tinh vi để tương tác hiệu quả trong gia đình, nhóm đồng trang lứa và trường học. Nhận thức được điều này, Hiệp hội Truyền thông Quốc gia đã dành nguồn lực cho việc đánh giá và phát triển kỹ năng giao tiếp ở trẻ em từ mẫu giáo đến trung học phổ thông. Trên thực tế, các mối quan tâm về sư phạm và việc mở rộng các chương trình giảng dạy về giao tiếp vào lĩnh vực giao tiếp giữa các cá nhân là một trong những yếu tố gây ra sự quan tâm đến năng lực giao tiếp vào cuối những năm 1960 và đầu những năm 1970.
Nghiên cứu kiểm tra các kỹ năng giao tiếp và xã hội cũng mở rộng sang các phương tiện truyền thông đại chúng. Các nhà nghiên cứu truyền thông từ lâu đã quan tâm đến các chiến lược để cung cấp thông tin hiệu quả cho mọi người và thay đổi thái độ và hành vi thông qua các bản tin, quảng cáo, chiến dịch thông tin công cộng và phim tài liệu. Ngày nay, mối quan tâm này mở rộng sang “phương tiện truyền thông mới”, ví dụ, trong các lĩnh vực như thiết kế các trang web cung cấp thông tin và thuyết phục hiệu quả.
Nghiên cứu về giao tiếp giữa các cá nhân thường hướng đến việc tìm hiểu cơ bản về cách thức giao tiếp được sử dụng trong việc hình thành các mối quan hệ và làm cho họ hạnh phúc hơn. Tôi đặt ra mối quan tâm hàng thế kỷ này với mối quan tâm chung là một trong những đặc điểm cơ bản của nghiên cứu về giao tiếp. Đó là một trong những lý do khiến việc tập trung vào những gì mọi người thực sự làm là rất quan trọng.
Để chắc chắn, trọng tâm của điều tra trong nghiên cứu truyền thông đã trải qua những thay đổi qua nhiều chu kỳ. Có lúc, bản thân các ‘hành vi khéo léo’ đã là trọng tâm hàng đầu của nguyên lý [ôi sao tôi ghét cái trọng tâm này thế, nó khiến tôi bị chỉ trích và bị đẩy khỏi các nội dung đào tạo giao tiếp, dành sân chơi này cho những tay ‘làm vườn ngắn hạn’, thậm chí có những thời gian tôi căm ghét cái từ khéo léo này]. Vào những lúc khác, người ta chú trọng nhiều hơn đến các quá trình nhận thức và tâm lý xã hội giả định làm nền tảng cho những hành vi này. Mặc dù các phương pháp tiếp cận nhấn mạnh đến các khía cạnh hành vi của kỹ năng xã hội không phải lúc nào cũng chiếm ưu thế trong bối cảnh nghiên cứu, các học giả vẫn tiếp tục nhận định rằng mối quan tâm đối với hành vi có kỹ năng là cần thiết cho sự tiến bộ trong hiểu biết của họ về giao tiếp ở mọi cấp độ phân tích. Công việc dựa trên kỹ năng vẫn là trọng tâm của các học giả truyền thông, một công việc có tiềm năng tích hợp nhiều quan điểm khác nhau vì nó đòi hỏi sự tập trung vào những gì mọi người làm trong cuộc sống thực. Thông qua nghiên cứu như vậy, chúng ta đã hiểu được tất cả các quá trình tâm lý, nhận thức và cảm xúc đều đóng góp vào hành vi giao tiếp như thế nào. Chúng tôi đã đạt được tiến bộ vượt bậc trong việc chỉ ra cách thức thực hiện, động lực và mục tiêu của mọi người thông qua tương tác xã hội.
Việc tích hợp các phương pháp tiếp cận hành vi và tâm lý (hiểu theo nghĩa rộng) đã và đang tiếp tục là một trong những thách thức lớn nhất trong việc nghiên cứu các kỹ năng giao tiếp và tương tác xã hội. Vào những năm 1950 và 1960, khi các học giả trong nhiều lĩnh vực khác nhau (ví dụ, xã hội học, tâm lý học xã hội và xã hội học, cũng như giao tiếp) phát triển mối quan tâm mới đối với các kỹ năng xã hội, cuộc tấn công từ nhiều phía vào vấn đề này cuối cùng đã dẫn đến những tiến bộ đáng kể. Không có gì ngạc nhiên khi việc trung thành với cách tiếp cận của riêng một người đôi khi cản trở việc tích hợp công việc này. Một trở ngại khác, thú vị hơn đối với hội nhập là “vấn đề về bối cảnh”. Hành vi được đặt trong bối cảnh và nghiên cứu về hành vi và các quá trình tâm lý đi kèm với nó cũng vậy. Vấn đề của bối cảnh là làm thế nào để vượt qua nó mà không làm mất đi sự phong phú của thông tin mà bối cảnh cung cấp cho cả các tác nhân được nghiên cứu và học giả đang thực hiện nghiên cứu.
Vào giữa những năm 1970, những nỗ lực của tôi (ví dụ, Wiemann, 1977) để tích hợp công việc của các quan điểm nguyên lý khác nhau và đối phó với những gì tôi thấy là vấn đề của ngữ cảnh đã khiến tôi liên kết hành vi được ngữ cảnh hóa với các chức năng xuyên ngữ cảnh (kiểm soát, liên kết và tác vụ). Bằng cách đó, tôi hy vọng rằng một lý thuyết về năng lực giao tiếp có thể được phát triển mạnh mẽ, nhưng vẫn có thể được sử dụng để hiểu hành vi giao tiếp trong một tình huống cụ thể. Khi công việc trong lĩnh vực này tiến triển vượt ra ngoài sự phân biệt đơn giản giữa hành vi “có kỹ năng” và “không có kỹ năng”, tầm quan trọng của các mục tiêu, chiến lược và động cơ cá nhân và cá nhân để đạt được những mục tiêu này, lập kế hoạch thường xuyên, cảm xúc và khả năng nhận thức trở nên rõ ràng. Nó cũng trở nên rõ ràng rằng, những kết luận quy kết về kỹ năng nào “hiệu quả” hoặc kỹ năng nào “tốt”, được khuyến khích bởi những mối quan tâm sư phạm, thúc đẩy phần lớn công việc trong ngành học vào thời điểm đó, sẽ không hữu ích lắm.
Mỗi bước tiến trong nghiên cứu đòi hỏi một vòng nghiên cứu lý thuyết tích hợp mới, đến lượt nó, đã thúc đẩy một làn sóng điều tra thực nghiệm mới. Những tiến bộ này đòi hỏi các học giả phải gạt lòng trung thành về nguyên lý và phương pháp của riêng họ (một động thái mà tôi biết từ kinh nghiệm cá nhân, đôi khi, rất khó để thực hiện!) để tận dụng kiến thức đã được xây dựng ra.
Cùng với đó, chúng ta đã trở nên tinh vi hơn về ý nghĩa của việc trở thành người có năng lực hoặc kỹ năng. Việc chuyển từ tập trung vào các cá nhân sang các mối quan hệ là rất quan trọng bởi vì qua đó, chúng tôi học được rằng số lượng tuyệt đối các “kỹ năng” (khả năng của một cá nhân để tạo ra các hành vi thói quen mong muốn) không cần thiết – tôi chỉ dự đoán hạnh phúc, thành công, hiệu quả – mà là, các mối quan hệ có thẩm quyền. Một số học giả (xem Cupach & Spitzberg, 1994) bắt đầu xem xét cách các nhà giao tiếp lành nghề có thể cố tình tạo ra những kết quả rất tiêu cực cho đối tác của họ. Ví dụ: duy trì “mối quan hệ thù địch” mà không xua đuổi người kia, đòi hỏi rất nhiều kỹ năng. Mối quan hệ như vậy thậm chí có thể được gọi là “đúng đắn” (mặc dù theo cách tệ hại) nếu cả hai đối tác đều đạt được mục tiêu của họ. Không có vấn đề ‘phá hoại’ được đặt ra trong tình huống như vậy.
Tôi rất vui khi thấy rằng công việc nằm bên dưới các tiêu chuẩn về đánh giá năng lực giao tiếp, tương tác xã hội, kỹ năng xã hội và những thứ tương tự đã tiếp tục thịnh vượng. Lý thuyết chuyên sâu mà tôi đang tìm kiếm vẫn chưa được phát triển đầy đủ, nhưng như cuốn sách này chỉ ra, chúng ta đang tiến gần hơn đến việc đạt được mục tiêu đó.
Như các chương khác nhau trong Sổ tay này đã chứng minh, có nhiều cách hữu ích để tiếp cận các kỹ năng giao tiếp và tương tác xã hội. Sự tập hợp các quan điểm khác nhau này lại ở một nơi nhấn mạnh sức mạnh của công việc tập thể của kỷ luật theo thời gian. Nó cũng khuyến khích sự kết hợp và tổng hợp mới của những cách tiếp cận này. Các khả năng tổng hợp là kịp thời. Sự khác biệt giữa những gì mà một số người gọi là “mức độ phân tích” của giao tiếp (giữa các cá nhân, khối lượng, tổ chức, v.v.) trở nên ít có ý nghĩa hơn khi các công nghệ mới, toàn cầu hóa và thậm chí sự hiểu biết của chúng ta về các quá trình giao tiếp đòi hỏi lý thuyết và nghiên cứu mang tính tích hợp – tìm kiếm nhận ra rằng những cách suy nghĩ truyền thống trong học thuật hiện không còn nắm bắt được sự phức tạp trong trải nghiệm của chúng ta.
Vì Sổ tay này trình bày nhiều khía cạnh của các kỹ năng xã hội, nên nó cũng sẽ đóng vai trò là bàn đạp cho việc nghiên cứu và phát triển lý thuyết trong tương lai. Ví dụ, nghiên cứu hiện tại về việc sử dụng các công nghệ truyền thông mới có thể được hưởng lợi từ trí tuệ chung của cuốn sách này. Ngày nay, các phương pháp tiếp cận theo hướng mô tả đối với giao tiếp sử dụng công nghệ có thể tích hợp hơn, và khá nhạy cảm với các ứng dụng phụ thuộc vào ngữ cảnh của các kỹ năng xã hội trong các tình huống được dàn xếp để truyền thông.
Rất nhiều học giả đóng góp cho Sổ tay này. Chúng đại diện cho nhiều quan điểm đã phát triển trong nghiên cứu kỹ năng xã hội, và chúng tổng hợp nhiều thập kỷ nghiên cứu về việc đạt được và thực hiện kỹ năng xã hội trong các mối quan hệ và nhiều bối cảnh khác nhau. Công việc này cung cấp nền tảng để hiểu các mối quan hệ hiện tại và tạo tiền đề cho những tiến bộ trong tương lai trong nghiên cứu kỹ năng xã hội, khi chúng ta liên tục tìm kiếm những cách tốt hơn để tạo ra và duy trì thế giới xã hội của chúng ta.
Mấy hôm nay báo chí lại nhắc về chủ đề thần tượng. Trong giai đoạn sớm của cuộc đời, con người tự nhiên có “thần tượng” của mình. Bởi vì, dù theo Freud, hay Bandura, hay Vygotsky, con người chúng ta đều trải qua một kiểu học tập là noi theo người khác. Dĩ nhiên, ở giai đoạn sớm, con người thường có những mẫu con người cụ thể nào đó, đa số trường hợp chính là cha/ mẹ/ người chăm sóc, vì nhận thức chưa thể đầy đủ để có thể tách bạch các chủ đề cần học tập. Nhân thức càng tốt, chúng ta càng rời xa các hình mẫu cụ thể đó để đi tìm tòi và học hỏi các chủ đề, các góc cạnh mới và đa chiều. Các hình mẫu ban đầu vẫn luôn có ý nghĩa, nhưng sẽ ngày càng mang màu sắc cảm xúc đậm đà. Nếu điều này không xảy ra, thậm chí, con người sẽ gặp rắc rối.
Trong các tư vấn tâm lý dành cho các thân chủ đang đối diện với việc bố mẹ già đi và nảy sinh mâu thuẫn, tôi thường phải nhắc điều này.
Tuy nhiên, với các bậc cha mẹ có con đang ở tuổi vị thành niên, điều này cũng cần được nhắc nhở. Trẻ càng lớn, càng cần nhiều hơn các mẫu hình, ngay cả đó là bạn bè cùng lứa (loạt bài Vị thành niên đã nhấn điểm này rất nhiều lần). Xung đột có thể xảy ra nếu “mẹ vẫn quá lớn”. Vì thế ‘mẹ có nhỏ lại thì con mới lớn khôn’. Chúng ta, trong con mắt lũ trẻ, ngày càng thấm đậm nghĩa tình. Và đó là một trong những động lực để con cái chúng ta đi suốt cuộc đời này.
Mẹ đủ tốt
Cụm từ “người mẹ đủ tốt” được đặt ra bởi bác sĩ nhi khoa và nhà phân tích tâm lý người Anh DW Winnicott trong cuốn sách nổi tiếng Chơi và thực tế của ông. Mẹ ”bắt đầu với sự thích nghi gần như hoàn toàn với nhu cầu của bé. Cô ấy hoàn toàn dành cho đứa trẻ và nhanh chóng đáp ứng mọi nhu cầu của nó. Mẹ hy sinh giấc ngủ và nhu cầu của chính mình để đáp ứng nhu cầu của em bé sơ sinh.”
Tuy nhiên, khi thời gian trôi qua, người mẹ nên cho phép trẻ sơ sinh cảm thấy thất vọng đôi chút. Cô ấy đồng cảm và quan tâm nhưng không ngay lập tức đến từng tiếng khóc của đứa trẻ. Tất nhiên, lúc đầu, thời hạn cho sự thất vọng này phải rất ngắn. Mẹ có thể cho phép trẻ khóc vài phút trước khi bú đêm, nhưng chỉ trong vài phút. Cô ấy không “hoàn hảo” nhưng cô ấy “đủ tốt” ở chỗ đứa trẻ chỉ cảm thấy một chút thất vọng.
Từ ảo tưởng đến thực tế
Điều thú vị về quan niệm của Winnicott về người mẹ đủ tốt là ông kết nối quá trình làm mẹ với sự phát triển nhận thức của đứa trẻ và sự phát triển của khái niệm lành mạnh về thực tế bên ngoài. Lúc đầu, em bé trải nghiệm người mẹ như một phần của chính mình. Em bé yêu mẹ và trải nghiệm mẹ không phải là một người riêng biệt, mà là một phần của chính mình. Khi thời gian trôi qua, những khoảnh khắc, bên ngoài việc người mẹ hoàn toàn nhấn mạnh vào nhu cầu của con mình, sẽ khơi mào cho sự khởi đầu của hoạt động tinh thần và cảm nhận của em bé về thế giới bên ngoài.
Nếu sự thích nghi hoàn toàn của người mẹ đối với nhu cầu của em bé diễn ra quá lâu và không giảm một cách tự nhiên, thì cảm giác đang phát triển của em bé về thế giới bên ngoài thực sự, ngoài chính mình, sẽ bị gián đoạn. Trẻ lưu luyến trong thế giới kỳ diệu của ảo tưởng và ảo giác. Đó là, trẻ tin rằng chỉ cần có một nhu cầu thì nó sẽ được đáp ứng ngay lập tức. Winnicott nói, đây là một ảo tưởng, mặc dù là một ảo tưởng cần thiết.
Mặc dù Winnicott nhấn mạnh rằng nếu em bé không cảm thấy thất vọng một chút thì sẽ không hình thành khái niệm về thực tế bên ngoài, nhưng ông ấy nhấn mạnh rằng giai đoạn làm mẹ sớm cũng cần thiết cho sự phát triển khỏe mạnh của em bé. Khả năng có ảo giác là điều kiện tiên quyết cần thiết để phát triển cảm giác thực tế:
“Ngay từ đầu, sự thích nghi của [người mẹ] cần phải gần như chính xác, và trừ khi điều này đúng như vậy, trẻ sơ sinh chưa thể bắt đầu phát triển khả năng trải nghiệm mối quan hệ với thực tế bên ngoài, hoặc thậm chí hình thành quan niệm về thực tế bên ngoài.”
Một Đạo luật Cân bằng
Vì vậy, trở thành một “bà mẹ đủ tốt” khá phức tạp. Nó bao gồm một hành động cân bằng giữa hai quá trình quan trọng như nhau đối với sự phát triển nhận thức lành mạnh và thậm chí là hạnh phúc trong tương lai của trẻ: 1) Đầu tiên, người mẹ hoặc người chăm sóc phải tận tâm đáp ứng mọi nhu cầu của trẻ sơ sinh; 2) Người mẹ phải dần dần cho phép em bé trải nghiệm nhu cầu ngoài việc đáp ứng ngay lập tức – mặc dù đương nhiên khoảng thời gian này lúc đầu phải rất ngắn và tăng dần theo thời gian.
Tóm lại, với một người mẹ đủ tốt, một đứa trẻ có khả năng sống trong hai thế giới: một mặt là thế giới của ảo ảnh, tưởng tượng, và phép thuật, và mặt khác, một thế giới không phải lúc nào cũng phù hợp với mong muốn của mình.
Mình dịch bài này vì cảm thấy câu hỏi của mình đặt ra hình như lạc lõng trong mùa dịch hiện nay. Mình có câu hỏi tương tự, nhưng không tìm thấy thông tin. Tại đơn vị mình hoạt động, một khoa PHCN, nhưng của một bệnh viện nhỏ- tuy nhiên, đây là bệnh viện thực hành của một học viện y dược có quy mô đào tạo ở trình độ đại học khá lớn- thì không hề có hoạt động nào tương tự. Điều này phản ánh mức độ dịch vụ của chúng ta, thường thụ động, vì ‘làm theo kế hoạch chỉ đạo của chính quyền’ (vấn đề mình bình luận không phải là tốt xấu- chỉ là thụ động/ chủ động)
COVID-19 và khuyết tật ở trẻ em: bảo vệ ai và làm thế nào– Bài viết ra tháng 6/2020
Không thể bàn cãi, sự bùng phát của dịch bệnh coronavirus mới 2019 (COVID-19) là một tình huống khẩn cấp mang tính quốc tế, có thể kiểm nghiệm các hệ thống y tế công cộng trên toàn thế giới cũng như các hệ thống xã hội, kinh tế và văn hóa, được chứng minh bằng những con số tăng vọt đáng kinh ngạc của nó. Sự leo thang từ dịch bệnh đến tình trạng đại dịch đã được WHO, vào ngày 11 tháng 3, mô tả rất rõ mức độ của nó.
Là một trong những quốc gia bị ảnh hưởng nặng nề nhất, Ý hiện đang trong tình trạng bế tắc: tất cả các hoạt động kinh doanh không thiết yếu đã bị đóng cửa để làm chậm lại và ngăn chặn vi rút càng sớm càng tốt. Bất ngờ là một mối đe dọa sức khỏe cộng đồng và dường như không thể kiểm soát được. Những tính năng này kết hợp với nhau để kiểm tra kỹ năng ứng phó của từng cá nhân và bộc lộ sự bất lực của mình. Bất kỳ sự kiện đau thương hoặc căng thẳng tiềm ẩn nào cũng có thể có tác động lớn hơn hoặc ít hơn, tùy thuộc vào hệ thống bị ảnh hưởng và các tính năng như khả năng phục hồi, tính linh hoạt và chức năng. Về vấn đề này, chắc chắn có những cá nhân và nhóm trong cộng đồng dễ bị tổn thương hơn những người khác. Trong trường hợp khẩn cấp như COVID-19, phục hồi chức năng phổi sau cấp tính trong bệnh viện có ý nghĩa quan trọng và được ưu tiên. Nhưng, những người đang được điều trị phục hồi chức năng và được chăm sóc và hỗ trợ toàn diện do khuyết tật ngay cả trước khi đóng cửa thì sao?
Sau khi bị đóng cửa, các dịch vụ phục hồi chức năng nhi khoa đã phải đóng cửa để giảm bớt sự di chuyển của người dân. Và các trường học đã bị đóng cửa ngay từ khi bắt đầu xảy ra tình trạng khẩn cấp, đột ngột ngăn chặn mối quan hệ của trẻ em và vị thành niên khuyết tật với các nhà giáo dục và giáo viên hỗ trợ của họ. Ngày nay, chúng tôi đang xem xét quá trình liên tục đi từ khuyết tật đến các phương pháp điều trị phục hồi và chăm sóc và hỗ trợ toàn diện tạo điều kiện cho mọi người tham gia. Tiêu chí nào xác định hoạt động phục hồi chức năng nào là cần thiết và hoạt động nào có thể bị hoãn lại? Đây không phải là một quyết định dễ dàng, đặc biệt trong trường hợp trẻ bị rối loạn phát triển thần kinh (rối loạn phổ tự kỷ, rối loạn tăng động giảm chú ý), rối loạn thần kinh cơ (loạn dưỡng cơ, teo cơ tủy sống), trẻ mắc các bệnh hiếm gặp và trẻ dễ bị tổn thương. Trong trường hợp này, việc cách ly bắt buộc có thể trở thành một yếu tố trầm trọng hơn cho sự thoái triển và cô lập nhiều hơn với việc ngừng đột ngột các lộ trình điều trị, do đó, gây ra căng thẳng lớn hơn và gây căng thẳng nguồn lực của cha mẹ.
Những cân nhắc này chắc chắn sẽ cần phải đóng góp vào một kế hoạch mới. Một điều chắc chắn: chúng ta phải bảo vệ mọi người. Tuy nhiên, có lẽ chúng ta có thể làm việc trên phương diện ‘làm thế nào’: có những thành viên trong cộng đồng của chúng ta cần được bảo vệ theo một số cách. Chúng tôi đặc biệt nghĩ đến trẻ em và vị thành niên khuyết tật cùng gia đình của họ.
Chúng ta có nhiệm vụ không để họ cô đơn. Chúng ta cần phân biệt ma trận phục hồi chức năng cho trẻ em và tăng đề nghị phục hồi chức năng để cung cấp cho việc chăm sóc liên tục. Các phương pháp tiếp cận như phục hồi chức năng tại nhà, phục hồi chức năng từ xa và chăm sóc sức khỏe từ xa có thể giúp huấn luyện hoặc đào tạo để hỗ trợ các học viên, vì cha mẹ hiểu rõ con mình nhất và có thể nhanh chóng nhận ra bất kỳ vấn đề nghiêm trọng nào . Theo hướng này, có tài liệu chính thức của hiệp hội Phục hồi chức năng Ý (SIMFER). Nhưng để làm được điều này, các hệ thống chăm sóc sức khỏe phải hợp lý hóa nguồn tài chính để trang trải cho các chi phí hàng ngày, hàng tháng. Các dịch vụ này vẫn chưa có tính lan tỏa rộng rãi, mặc dù chúng mang lại lợi ích tiềm năng cho những người khuyết tật không thể đến dịch vụ phục hồi chức năng trong đại dịch COVID-19. Đại dịch COVID-19 là một sự kiện đột ngột, bất ngờ và gây lo lắng. Như vậy, nó sẽ làm gián đoạn việc giải quyết vấn đề và ra quyết định về mặt cảm xúc, vốn phải diễn ra trong bối cảnh trung lập về mặt cảm xúc. Tuy nhiên, chúng ta có thể biến khía cạnh tiêu cực này thành tích cực. Chúng ta có thể khai thác nó để tăng kỹ năng ứng phó. Trong tình huống khẩn cấp, một số thành viên trong cộng đồng của chúng ta bị ảnh hưởng đau thương nhất so với những người khác, bao gồm cả những người khuyết tật. Chúng ta nên bắt đầu suy nghĩ ngay hôm nay về cách chúng ta có thể chuyển đổi việc lập kế hoạch chính sách xã hội và chăm sóc sức khỏe của mình trong tương lai. Về vấn đề “bảo vệ ai”, chúng tôi không nghi ngờ gì: mọi người cần được an toàn. Về vấn đề “làm thế nào để bảo vệ”, bảo vệ những người dễ bị tổn thương nhất trong chúng ta là một hành động bị khiêu khích do đại dịch này gây ra cho chúng ta nhằm suy nghĩ lại công việc của chúng ta trong tương lai.
Antonio TRABACCA*, Luigi RUSSO
Đơn vị dành cho người khuyết tật nặng trong độ tuổi phát triển và thanh thiếu niên (Khoa thần kinh phát triển và phục hồi chức năng thần kinh), Scientific Institute IRCCSE. Medea, Brindisi, Italy
Mình phải copy các link này để theo dõi chủ đề: lộ trình đào tạo y khoa tại các nước tiên tiến. Có thể nhiều bạn sẽ nói, vào các trang web tại các trường là biết. À, không dễ như ăn kẹo vậy nhé. Chương trình đào tạo không phải lúc nào cũng công khai, hoặc công khai hết, do sự cập nhật của khoa học và sự cập nhật của mỗi trường để có ưu thế cạnh tranh. Nội dung học trong từng chủ đề, do không có một bộ kiểm duyệt như ở ta, nên có thể tạo ra các góc nhìn cũng rất khác nhau. Mình theo dõi, không phải là trường, mà chính là các bạn trẻ này, nếu các bạn hào hứng chia sẻ với người Việt chúng ta. Bạn trẻ mà có điểm SAT tuyệt đối lại càng đáng chú ý nhé. Điểm trí tuệ của bạn ý rất cao đấy.
Năm 2010, trường Đại học Y Hà Nội chính thức ra mắt bộ môn Y xã hội học và Y đức, do Bộ trưởng Bộ Y tế Nguyễn Quốc Triệu làm chủ nhiệm danh dự và PGS – TS Nguyễn Đức Hinh – Hiệu trưởng Đại học Y Hà Nội làm chủ nhiệm bộ môn. Bộ môn nằm trong khoa Y tế công đồng của trường. Giáo trình của bộ môn do trường Đại học Y Hà Nội biên soạn và được sự hỗ trợ kinh phí từ phía Bộ Y tế. Mô hình này lập tức được sao chép cho Học viện, và mình có đọc tài liệu của Học viện. Ấn tượng là, may quá, mình không cần phải vượt qua cửa ải thi cử của “cái thứ này”. Bên ĐHY HN thì tuyên bố ‘ba đối tượng được học bộ môn này là điều dưỡng, đào tạo bác sĩ đa khoa và đào tạo sau đại học,’ nhưng 2010, mình theo học CK I Tâm thần thì không có môn này.
Tuy nhiên, trong đào y khoa, đây hẳn là một chủ đề không thể thiếu. Rất nhiều đầu sách về vấn đề này. Trong textbook của Kaplan & Sadock có hẳn nội dung về đạo đức.
Mình đặc biệt quan tâm đến chủ đề này khi theo học khóa Ngôn ngữ trị liệu Nhi của ĐHY PNT, vì chủ đề đạo đức thực sự được tiếp cận theo một cách khác, khi mà đạo đức là một chủ đề để thảo luận rồi thực hiện, không phải để hô hào. Chỉ khi hiểu “thảo luận về đạo đức” chúng ta mới hiểu vì sao phải đào tạo, vì sao các nghiên cứu khoa học hiện nay phải thông qua chấp nhận của hội đồng đạo đức trước khi thực hiện (thậm chí là hiểu vì sao có cái hội đồng đó, chứ không phải là một tờ giấy A4 với những dòng chữ về các quy định vô hồn).
Mình đăng lại bài trên BBC về vụ việc cấy TB gốc của Vinmec để mở rộng khả năng bàn luận khía cạnh đạo đức trong thực hành nghề y nói chung, chứ không chỉ bó gọn trong vấn đề “liêm chính khoa học”. Trên diễn đàn nhiều nhóm cha mẹ của trẻ tự kỉ cũng bàn tán rất sôi nổi, và có vẻ như một trong các phụ huynh của trẻ ASD là người đã nỗ lực đưa vụ việc này ra công luận và cộng đồng khoa học quốc tế, nhưng mục tiêu dường như là nhằm phê phán “liêm chính khoa học”, mà khía cạnh đạo đức chỉ là một vấn đề đi kèm. Chúng ta có thể thấy điều này qua phân đoạn của ban biên tập SCTM.
BBC News, Tiếng Việt
Vinmec ‘cấy ghép tế bào gốc’ chữa trẻ tự kỷ ở Việt Nam gây tranh cãi quốc tế- 2 tháng 8 2021
Một công trình khoa học của Viện nghiên cứu Tế bào Gốc và Công nghệ Gene thuộc Bệnh viện Đa khoa Quốc tế Vinmec Times City (Vinmec) được công bố trên tập san y khoa Stem Cells Translational Medicine (SCTM) vào ngày 9/9/2020.Đây được đón nhận như tin vui cho khoa học Việt Nam. Báo Nhân Dân ngay ngày hôm sau đăng tin “Nghiên cứu tế bào gốc chữa bệnh tự kỷ của Giáo sư Nguyễn Thanh Liêm được công bố quốc tế”. Vinmec, thuộc tập đoàn Vingroup, đã đi tiên phong trong việc ứng dụng thành công liệu pháp tế bào gốc trong điều trị một số bệnh tật, hội chứng, và là “cơ sở y tế đầu tiên tại Việt Nam và thế giới” thành công trong lĩnh vực này, báo chí trong nước tại cùng thời điểm tường thuật.
Ý kiến chuyên gia quốc tếTuy nhiên, kết quả nghiên cứu sau khi công bố quốc tế đã mở ra cuộc tranh luận với những ý kiến trái chiều từ chuyên gia nước ngoài.Các ý kiến phản biện, bình duyệt quốc tế, và phản hồi của nhóm nghiên cứu VinMec cùng được đăng trên SCTM, số ra ngày 19/5/2021.
Vinmec không dùng ‘tế bào gốc’, cũng không ‘cấy ghép’Một trong những điểm căn bản khiến các chuyên gia quốc tế phản ứng mạnh, đó là phương pháp điều trị nêu trong nghiên cứu của Vinmec được cho rằng “không phải là cấy ghép tế bào gốc”.Bác sỹ Heather Finlay-Morreale, Giảng viên Y khoa của Đại học Massachusetts, bác sỹ nhi chuyên chăm sóc trẻ tự kỷ, nói bà “vô cùng quan ngại”.Lý do, là bởi những người tiến hành liệu pháp này đã “không truyền tế bào gốc – họ truyền tế bào đơn nhân từ tủy xương”, bác sỹ Heather Finlay-Morreale viết.Ban biên tập SCTM ghi nhận ý kiến trên của bác sỹ Finlay-Morreale là chính xác.Hơn nữa, SCTM nói rằng Giáo sư Liêm và nhóm tác giả đã “miêu tả không chính xác khi gọi liệu pháp này là ‘cấy ghép’, và điều này gây hiểu sai”.”Các tế bào đã không được cấy ghép; thay vào đó, chúng được kiểm soát thông qua việc truyền vào bằng cách tiêm truyền nội tủy mạc,” SCTM nói.Nhóm của Giáo sư Liêm phản hồi rằng họ dùng ‘tế bào đơn nhân từ tủy xương có chứa tế bào gốc sinh huyết và tế bào sinh sản’.
Trị liệu bằng tế bào gốc là vấn đề y khoa còn mới, đang được nghiên cứu trên thế giớiTế bào đơn nhân từ tuỷ xương có chứa tế bào gốc thì ‘khác biệt cơ bản’ so với tế bào gốc, theo giải thích của một bác sỹ từ California, Hoa Kỳ.”Một cách chữa trị dùng nhiều loại tế bào lấy từ tủy xương (có khoảng chứa 1-5% tế bào gốc), và một cách chữa trị dùng hoàn toàn 100% tế bào gốc,” bác sỹ Wynn Tran nói với BBC News Tiếng Việt.”Nói một cách dễ hiểu là quý vị vào nhà hàng muốn ăn món lẩu cá thu (là một loại cá biển). Chủ nhà hàng đưa ra hai món lẩu là lẩu cá biển (gồm nhiều loại cá biển khác nhau, trong đó khoảng 5% là cá thu) và lẩu cá thu (100% cá thu). Vì cá thu có mặt trong cả hai loại lẩu nên chủ nhà hàng dùng chữ ‘lẩu cá thu’ trong cả hai món lẩu.”
Phương pháp điều trị ‘cần được đánh giá thêm’Theo bác sỹ Finlay-Morreale, cách điều trị của Vinmec là mang tính xâm lấn đối với trẻ tự kỷ, và là không thỏa đáng. “Tại Hoa Kỳ, tôi e là nghiên cứu này sẽ không được hội đồng thẩm định nội bộ phê chuẩn,” bà nói.Với biện pháp can thiệp này, “có 48% trẻ bị tác dụng phụ, bao gồm việc bị đau đớn”, theo bác sỹ Finlay-Morreale.
Ban biên tập SCTM tán đồng:“Chúng tôi đồng ý rằng biện pháp truyền nội tủy mạc các tế bào sẽ cần phải trải qua việc đánh giá thêm tại Hoa Kỳ trước khi có thể được đưa ra thử nghiệm lâm sàng trên trẻ em mắc chứng rối loạn phổ tự kỷ.” Tuy nhiên, SCTM không đồng ý với quan ngại của bác sỹ Finlay-Morreale về việc truyền nội tủy mạc có thể để lại hậu quả nghiêm trọng, gây đau đớn suốt đời hoặc gây chảy máu trong tủy sống, dẫn tới bị liệt. Theo Phó Giáo sư Phan Toàn Thắng, chuyên gia về tế bào gốc hiện đang làm việc tại trường Y khoa Yong Loo Lin thuộc Đại học Quốc gia Singapore (NUS), cách điều trị của Vinmec “có vấn đề về y đức” theo chuẩn mực phương Tây.” Các tác giả tiến hành các kỹ thuật xâm lấn sâu cho bệnh nhi trong cả thủ thuật chọc hút tuỷ xương và tiêm chọc qua ống cột sống,” ông nói. ” Thực hiện các thủ thuật này trên bệnh nhi là vấn đề rất nặng đối với y đức Âu-Mỹ.”
Nhóm nghiên cứu của Giáo sư Liêm bác bỏ cáo buộcTrên thế giới “đã có nhiều nghiên cứu sử dụng liệu pháp tế bào cho trẻ tự kỷ xuất bản trên các tạp chí rất uy tín”, Giáo sư Nguyễn Thanh Liêm – Viện trưởng Viện Nghiên cứu Tế bào gốc và Công nghệ Gene Vinmec trả lời BBC qua nhóm truyền thông của Vinmec bằng email.Ông cũng khẳng định việc “truyền tế bào đơn nhân từ tủy xương tự thân chứa tế bào gốc cho bệnh nhân tự kỷ là không trái với các quy định về y đức”. “Vinmec chỉ áp dụng liệu pháp tế bào cho trẻ tự kỷ mức độ nặng, không đáp ứng hoặc đáp ứng rất ít với can thiệp giáo dục,” “Thực tế, phương pháp này đã mang lại nhiều chuyển biến tích cực cho không ít bệnh nhân,” Vinmec nói với BBC, nhưng không cung cấp số liệu điều trị qua các giai đoạn.
Quá trình áp dụng tại Việt Nam và lời khen ‘đi tiên phong’ Việc nghiên cứu được Bộ Y tế nghiệm thu vào 9/2019, cho thấy phương pháp điều trị trẻ tự kỷ của Vinmec được chính thức chấp nhận tại Việt Nam. Tuy nhiên, có một số câu hỏi đặt ra. Với việc gọi ‘truyền tế bào đơn nhân từ tủy xương có chứa tế bào gốc’ là ‘cấy ghép tế bào gốc’, liệu Vinmec có khiến cho các gia đình bệnh nhân hiểu sai vấn đề?Cạnh đó, có câu hỏi là liệu Vinmec có ‘đi quá sớm’ trong hoạt động điều trị bằng tế bào gốc có thu viện phí, từ 2014, trước khi được chuẩn thuận, cấp phép?BBC đã nêu câu hỏi này hôm 23/07/2021 với Vinmec và vẫn đang chờ đợi câu trả lời.Phù hợp với thông lệ y khoa quốc tế, tại Việt Nam, việc tiến hành nghiên cứu, thử nghiệm lâm sàng nhìn chung được thực hiện miễn phí đối với bệnh nhân, người tham gia, trong lúc việc thu phí chỉ được thực hiện đối với các dịch vụ đã được cấp phép.Trong quá trình thử nghiệm lâm sàng, bệnh nhân và người tham gia thậm chí còn “được chi trả bồi dưỡng tính đến thời điểm rút khỏi nghiên cứu”, theo Thông tư 55/2015 của Bộ Y tế.Vẫn bác sĩ Wynn Trần từ Hoa Kỳ chia sẻ:”Liệu pháp tế bào gốc chữa trị bệnh viêm não và tự kỷ cho đến nay vẫn chỉ là chữa trị thử nghiệm, chưa được xem là trị liệu chính thức được chấp thuận bởi các cơ quan y tế liên bang Hoa Kỳ như FDA. Vì vậy, dùng từ ‘ứng dụng’ thành công liệu pháp tế bào gốc trong điều trị là chưa chính xác vì đây là liệu pháp vẫn còn đang trong nghiên cứu thử nghiệm, chưa được chấp thuận.
Các nghiên cứu thử nghiệm lâm sàng dùng tế bào gốc chữa bệnh tự kỷ đã có từ năm 2013Bài phân tích tổng hợp gần đây (Meta-analysis) về tế bào gốc xuất bản năm 2018 từ Ý chỉ ra các nghiên cứu thử nghiệm về tế bào gốc trên bệnh nhân tự kỷ thường có số lượng bệnh nhân ít và cần có thêm các thử nghiệm lâm sàng để khẳng định tính hiệu quả của trị liệu này. Ngay chính trong bài nghiên cứu từ Vinmec (công bố tháng 9/2020) cũng có trích dẫn các nghiên cứu thử nghiệm trước đây dùng tế bào gốc. Vì vậy, nói ‘thành công đầu tiên’ trên thế giới là chưa đúng. Tuy nhiên, nghiên cứu thử nghiệm tế bào gốc trên trẻ em tự kỷ (công bố tháng 9/2020) có thể gọi là đầu tiên ở Việt Nam. Đây là điểm đáng khích lệ và ghi nhận khi Vinmec cập nhật và theo đuổi các hướng nghiên cứu tân tiến trên thế giới.”
‘Hỗ trợ viện phí’Tiến sĩ Nguyễn Yến Khanh, một người hoạt động trong lĩnh vực truyền thông đã nêu ra cả câu hỏi về “y đức” và nêu vấn đề bà nói là nghi vấn “viện phí” của Vinmec.” Nhiều gia đình đã nhận lại khoản tiền dao động từ 60 triệu đồng đến 130 triệu đồng cho 2 hoặc 3 đợt điều trị,” bà Khanh nói với BBC News Tiếng Việt về hiện tượng các gia đình bệnh nhi tự kỷ được Quỹ Thiện tâm của Vingroup ‘hỗ trợ viện phí’ trong những tuần qua.Bà cho rằng cần nêu đúng bản chất sự việc, đó là Vinmec “hoàn trả” các khoản viện phí đã thu sai, thay vì gọi là tiền ‘hỗ trợ’.Vinmec bác bỏ chuyện này qua thư trả lời BBC hôm 22/07/2021:”Tất cả các ca bệnh đặc biệt và điều trị tốn kém – dù gia đình bệnh nhân tự nguyên chia sẻ chi phí điều trị – đều được bệnh viện gửi hồ sơ lên Quỹ Thiện Tâm xin hỗ trợ, bao gồm cả tự kỷ và bại não.””Rất vui mừng là đến cuối tháng 5/2021, sau một thời gian chờ đợi, Quỹ Thiện Tâm đã phê duyệt hỗ trợ 100% chi phí cho các trường hợp tự kỷ tự nguyện tham gia điều trị tế bào gốc,” Vinmec giải thích về việc gửi tiền cho các gia đình bệnh nhân thời gian qua.Vinmec cũng cho biết bên cạnh các trường hợp tự kỷ, các trường hợp điều trị bại não bằng cùng phương pháp cũng đã được chấp nhận hỗ trợ hoàn toàn, và Quỹ “sẽ hoàn tất tài trợ cho các bệnh nhân trong tháng 8/2021”.
BBC News Tiếng Việt sẽ cập nhập với quý độc giả về câu chuyện này khi nhận được phản hồi thêm từ Vinmec.
Phần rối loạn ngôn ngữ trong chương trình ngôn ngữ trị liệu Nhi của ĐHY PNT mình trượt vỏ chuối. Không sao nhớ được cái định nghĩa. Cái định nghĩa này chìm lấp trong tất cả các loại can thiệp với: trẻ ASD, trẻ SSD, trẻ rối loạn nuốt, trẻ hở vòm…, mà tất cả đều can thiệp ngôn ngữ. Và nó chẳng gây ấn tượng gì cho mình cả.
Có thể bởi vì mối liên kết giữa khái niệm can thiệp này ít liên kết với ‘thế nào là rối loạn ngôn ngữ’ chẳng hạn.
Rồi can thiệp nào thì cũng mang màu sắc: tác động cùng với việc tạo ra môi trường có tính kích thích (nguyên lý giáo dục dựa trên tiếp cận hành vi mà- mình sẽ viết một bài về vấn đề này vì mình cũng bị rối loạn suốt với các bạn “cô giáo”, các khái niệm cơ bản bị xem nhẹ nên các bài giảng không thỏa mãn mình).
Trong lúc lọ mọ, cố gắng đọc nguyên bản để hiểu thì mình đã mua được quyển sách này. Sách cũ, cộng với ship là khoảng 5gbp. Sau 1 năm, nó mới từ Anh bay về VN.
sách của Fey với định nghĩa bất hủ
Mình trích dịch chương 3 “Can thiệp ngôn ngữ là gì?”, phần có cái định nghĩa khó nhớ trên. Chương này rất ngắn, vì chỉ xoay quanh cái định nghĩa thôi:
Khi chúng ta thảo luận về nhiều cách tiếp cận can thiệp đã được đề xuất và thực hiện trong hai thập kỷ qua, sẽ ngày càng rõ ràng rằng những gì được gọi là can thiệp của một nhóm bác sĩ hoặc nhà nghiên cứu khác hẳn với những gì được gọi là can thiệp của những người khác. Tôi đã tuyên bố rằng các vị trí lý thuyết khác nhau của những người phát triển và thực hành các chương trình can thiệp là lý do chính cho thực tế này. Johnston (1983) khẳng định lập trường của cô ấy về điểm này với những thuật ngữ chắc chắn.
. . .không có sự giống nhau phổ biến trong số các cách tiếp cận khác nhau để can thiệp ngôn ngữ. Việc cho rằng có, hoặc nên có, là sai lầm. Không có câu trả lời duy nhất cho câu hỏi Can thiệp ngôn ngữ là gì? không phải vì các nhà chức trách không đồng ý, không phải vì chúng ta thiếu các dữ kiện cần thiết, không phải vì có nhiều chiến lược trị liệu tốt như nhau, mà chính xác là vì các khung lý thuyết khác nhau. (tr. 53)
Có thể xử lý được vấn đề khái niệm này theo hai cách. Một nhà lâm sàng có thể có nhiều định nghĩa – có lẽ nhiều như bất kỳ lý thuyết của cá nhân nào. Điều này rất có thể là sở thích của nhiều nhà lâm sàng. Hoặc nhà lâm sàng có thể phát triển một định nghĩa đủ rộng để nó không mâu thuẫn với bất kỳ lý thuyết cụ thể nào. (Tất nhiên, điều này sẽ chỉ bao gồm những lý thuyết thừa nhận khả năng là những thay đổi trong môi trường của trẻ có thể có một số tác động đến việc học ngôn ngữ.) Định nghĩa như vậy sẽ bao gồm tất cả các loại can thiệp đã được đề xuất và có thể được yêu cầu theo một số trường hợp đặc biệt nhất định. Đó là nhiệm vụ thứ hai mà tôi sẽ cố gắng ở đây.
Theo quan điểm của tôi, can thiệp ngôn ngữ xảy ra khi một số tác nhân can thiệp (nhà lâm sàng, giáo viên, cha mẹ, anh chị em, v.v.) kích thích hoặc phản ứng đáp trả với một đứa trẻ theo cách được thiết kế có ý thức để tạo điều kiện phát triển trong các lĩnh vực khả năng giao tiếp được coi là có nguy cơ bị suy giảm chức năng. Định nghĩa này có hai phần quan trọng: người can thiệp phải làm điều gì đó được thiết kế có ý thức để hỗ trợ sự phát triển và người ấy phải làm điều này vì đứa trẻ được cho là có nguy cơ bị khiếm khuyết ngôn ngữ.
Điều này bao gồm một loạt các thủ tục và hoạt động can thiệp mà một số cá nhân chắc chắn sẽ thấy là quá rộng. Ví dụ, cha mẹ hoặc giáo viên tuân theo các đề xuất của nhà lâm sàng gợi ý để sử dụng ngôn ngữ đơn giản hơn, phản ứng nhiều với trẻ hoặc nương theo sự dẫn dắt của trẻ đã có nghĩa là tham gia can thiệp. Hình thức can thiệp này hoàn toàn trái ngược với các tình huống quen thuộc hơn, chẳng hạn như trẻ đang diễn đạt những câu có chứa một số hình thức ngôn ngữ sau một kích thích bắt chước và sự trình bày một bức tranh của một nhà lâm sàng.
Định nghĩa này cũng sẽ bao gồm các cá nhân hành động theo sáng kiến của riêng họ (tức là không có sự hướng dẫn của một nhà ngôn ngữ trị liệu) để giúp đỡ một đứa trẻ mà họ cảm thấy đang có nguy cơ. Ví dụ, những bậc cha mẹ nói với con mình rằng “đừng lười biếng nữa và nói hẳn hoi đi” cũng là can thiệp. Tuy nhiên, định nghĩa được đề xuất sẽ loại trừ việc can thiệp vào tất cả các phản ứng điển hình đối với trẻ nhỏ của người lớn và trẻ lớn hơn liên quan đến việc đơn giản hóa nội dung và cấu trúc câu, làm chậm tốc độ, tạm dừng ở các ranh giới cú pháp, v.v. Tất cả những thay đổi này xảy ra một cách tự nhiên trong nỗ lực của người lớn để thực hiện các cuộc trò chuyện với trẻ nhỏ; chúng không được sử dụng cho mục đích ngăn ngừa hoặc khắc phục các vấn đề học tập bị nghi ngờ.
Ưu điểm lớn nhất của đề xuất này là nó chấp nhận sự can thiệp của nhiều phương pháp tiếp cận cần thiết và được sử dụng bởi các nhà lâm sàng hoạt động trong các điều kiện khác nhau rõ rệt (mức độ ca lâm sàng, số ca lâm sàng, thời gian, cơ sở vật chất, v.v.) và với các định hướng lý thuyết khác nhau. Nói cách khác, những gì được coi là can thiệp không phụ thuộc vào lý thuyết cụ thể hoặc tập hợp các nguyên tắc can thiệp mà một nhà lâm sàng nhất định ghi nhận hoặc loại khách hàng được điều trị trong dịch vụ tư vấn. Trong một số trường hợp, quá trình can thiệp sẽ chủ yếu bao gồm các dịch vụ tham vấn — làm việc với cha mẹ, giáo viên và trợ lý để giúp những cá nhân này, cung cấp một môi trường tạo kích thích và đáp ứng tốt hơn cho trẻ khiếm khuyết ngôn ngữ. Trong các trường hợp khác, nhà lâm sàng sẽ đảm nhận vai trò của tác nhân can thiệp chính, trong khi các thành viên gia đình, giáo viên và phụ tá thực hiện các vai trò tự do hoặc bổ sung. Tôi thấy bề rộng của định nghĩa này là quyền lợi hơn là một nghĩa vụ. Nó chỉ đơn giản là yêu cầu một số sự chắt lọc được thực hiện giữa sự can thiệp (bao gồm các mục tiêu, các thủ tục và hoạt động) được hình thành tốt, dựa trên các nguyên tắc lý thuyết hoặc thực nghiệm đúng đắn, và có thể được chứng minh là hiệu quả, và sự can thiệp dựa trên phỏng đoán, suy đoán, thuận tiện cho tác nhân can thiệp. Điều này đặt ra trách nhiệm nặng nề cho các nhà lâm sàng trong việc chứng minh rằng các kế hoạch can thiệp mà họ thiết kế sẽ có kết quả như dự kiến — nghĩa là dịch vụ được cung cấp là “tốt”. Tôi hoàn toàn tin tưởng rằng đây là một trách nhiệm mà các bác sĩ lâm sàng nên sẵn sàng chấp nhận. Một số chương còn lại của cuốn sách này được thiết kế đặc biệt để hỗ trợ các nhà lâm sàng trong việc phát triển các chương trình giúp họ đạt được mục tiêu này.