Bộ phận cảm giác của cơ vân

Cơ quan gân Golgi (GTO)/trục thần kinh GTO chuyển tiếp thông tin về mức độ lực trong cơ hoặc gân đến hệ thần kinh trung ương. Nó bao gồm các cơ quan thụ cảm cơ học ức chế nhỏ nằm gần điểm nối của cơ và gân, đồng thời theo dõi lượng lực kéo đặt lên cấu trúc gân. Mỗi cơ quan gân Golgi bao gồm bó các sợi gân nhỏ được bao bọc trong một lớp vỏ có các đuôi gai (nhánh nhỏ và là đầu vào của neuron) cuộn ở giữa và xung quanh các sợi. Cơ quan này được kích hoạt khi có co cơ hoặc căng gân, dẫn truyền theo sợi Aα (dẫn truyền nhanh) về tủy sống. Đầu ra là sự ức chế các neuron vận động alpha chi phối gây co bóp của cùng cơ vân đó, làm cho cơ giãn, và do đó bảo vệ cơ và mô liên kết khỏi bị tải quá mức và có thể bị tổn thương. Phản xạ này được gọi là “phản xạ cơ nghịch đảo” hay “ức chế tự sinh”. Người ta từng tin rằng GTO chỉ được kích thích khi cơ bị kéo căng, nhưng ngày nay GTO cũng thường được coi là thiết bị phát hiện nhạy cảm về độ căng ở các phần biệt định của cơ (Patrick và cộng sự 1982; Mileusnic & Loeb 2006).

Trong cơ chúng ta còn có các suốt cảm thụ cơ
Các suốt cảm thụ cơ có thể được định nghĩa là các thụ thể cảm giác nhỏ, hình thoi nằm trong mô cơ vân (còn gọi là cơ xương), và chúng chạy song song với các sợi cơ chính. Suốt cảm thụ cơ bao gồm một số sợi cơ biệt hóa được bao bọc trong một túi mô liên kết có dạng hình thoi. Các sợi ở trong bao là các sợi biệt hóa, còn các sợi ngoài bao là các sợi cơ chính/ điển hình. Các đầu của sợi trong bao có khả năng co bóp, nhưng phần trung tâm không co bóp (có các đầu nhận cảm cảm giác), và được chi phối bởi các neuron đặc biệt gọi là neuron vận động gamma. Các suốt cảm thụ cơ rất nhạy cảm với cả căng cơ phase và căng cơ tonic. Kích thích các suốt cảm thụ cơ gây ra sự co cơ ở cơ bị căng (phản xạ co cơ, sau khi bị kéo căng) và đồng thời ức chế điện thế hoạt động đối với các cơ đối kháng. Các suốt cảm thụ cơ cũng tham gia vào việc điều chỉnh trương lực cơ.

Các nghiên cứu thụ thể vị giác đã vẽ lại bản đồ vị giác ở lưỡi

Hanig (1901 như được trích dẫn trong Collings, 1974) là người đầu tiên đưa ra giả thuyết rằng các vị cơ bản của ngọt, chua, mặn và đắng được nhận biết ở mỗi vùng của lưỡi, trong đó, vị ngọt được trung gian bởi đầu lưỡi, vị đắng được cảm nhận bởi lưỡi sau, v.v. Công trình của ông dựa trên công trình của Hoffmann vào năm 1875 (như được trích dẫn trong Collings, 1974). Nhưng ông cũng xuất phát từ cả quan sát rằng có sự khác biệt về hình thái giải phẫu giữa các cơ quan thụ cảm vị giác (các nhú hình tròn được tìm thấy ở phần giữa phía sau của lưỡi và các nhú dạng lá nằm ở phần cạnh bên phía sau lưỡi; nhú dạng nấm được tìm thấy ở bề mặt trước và trước bên của lưỡi), và rằng con người có xu hướng nếm bốn vị cơ bản ở các vị trí khác nhau. Công trình của nhiều nhà khoa học về tri giác theo sau Hoffmann và Hanig đã xác định đầu lưỡi nhạy cảm với vị ngọt, bề mặt phía trước và cạnh bên phía trước phản ứng với vị mặn, còn vị chua được cảm nhận ở vùng giữa. Vị đắng được dành cho phần lưng sau của lưỡi, ngay phía trên là chỗ nối của vòm miệng cứng và mềm.

Tuy nhiên, quan điểm này bắt đầu mờ nhạt khi kiến thức về cơ quan cảm nhận vị giác được cải thiện. Hoon và cộng sự (1999) đã chỉ ra rằng các thụ thể vị giác thực sự là một tập hợp con của cái được gọi là đường dẫn tín hiệu thụ thể kết hợp protein G (G protein coupled receptor GPCR). Hai GPCR cụ thể đã được xác định: T1R1 (được tìm thấy chủ yếu ở các nhú bao quanh) và T1R2 (được tìm thấy nhiều ở các nhú lá).

Điều mà các tác giả cũng phát hiện ra là các thụ thể được xen lẫn nhau chứ không phải tách biệt: T1R2 chiếm ưu thế ở các nhú lá, nhưng cũng có các thụ thể T1R1 ở đó.

Sau cùng, hai thụ thể nữa đã được tìm thấy (T1R3 và T12R) và được thêm vào tổ hợp.

Các nghiên cứu về tri giác cho thấy rằng, ở người, cảm giác ngọt được điều hòa bởi sự kích hoạt kết hợp của thụ thể T1R2 và T1R3 (Nelson và cộng sự, 2001), và cảm giác đắng được kích hoạt bởi thụ thể T2Rs.

Vị của axit amin (chẳng hạn như vị umami, vị của bột ngọt) được điều hòa bởi sự kết hợp của cảm biến T1R1 và T1R3.

Cơ quan thụ cảm vị chua: PK2DL1 (Huang và cộng sự, 2006), khiến muối là chất ngoại lệ duy nhất không có cơ quan thụ cảm. Vị mặn rõ ràng là do sự di chuyển trực tiếp của natri vào tế bào (Oka, Butnaru, von Buchholtz, Ryba, & Zuker, 2013).

Bản thân nụ vị giác, không phải là mô thần kinh, có thể được biến đổi gen ở động vật thí nghiệm để, ví dụ, TRC đắng cung cấp sợi thần kinh cho ngọt. Khi điều này được thực hiện, động vật trong phòng thí nghiệm có khả năng phát triển ái lực với vị đắng, bề ngoài là do động vật cảm nhận được vị ngọt khi có vị đắng (Mueller, Hoon, Erlenbach, Zuker, & Ryba, 2005).

Điều đó đã để lại điểm gì trên bản đồ hương vị lịch sử của chúng ta? Mặc dù thật hấp dẫn khi nghĩ rằng các vùng định khu của lưỡi nhạy cảm với mỗi vị biệt định, nhưng quan điểm này bị mờ đi khá nhiều bởi thực tế phân bổ thụ thể. Mỗi nụ vị giác có nhiều TRC và có rất nhiều trường TRC chồng chéo lên nhau. Như Hoon và cộng sự (1999) cho biết, có mối tương quan giữa tri giác về vị giác và cơ quan thụ cảm, nhưng không có chỗ cho một bản đồ lưỡi được phân định rõ ràng trong sinh lý học hiện nay.

Sự hoạt động và tham gia (ICF) của một bệnh nhân sau phẫu thuật cắt thanh quản

Đi Tìm Giọng Nói Của Tôi: Câu Chuyện Của Người bị cắt Thanh Quản

8 Tháng Năm, 2016 by 2012pharmaceutical

Tác giả khách mời: ThS,BS Itzhak Brook, Khoa Nhi, Trường Y- Đại học Georgetown, Washington DC

Biết tin mình mắc bệnh ung thư vòm họng khiến tôi choáng váng.1 Là bác sĩ truyền nhiễm trong 35 năm với mối quan tâm đặc biệt đến nhiễm trùng đầu và cổ, tôi đã có nhiều kinh nghiệm về các bệnh tai mũi họng. Tuy nhiên, khi tôi tiếp xúc với những trải nghiệm mới, khác biệt và đầy thử thách với tư cách là một bệnh nhân ung thư vòm họng, tôi phải đối mặt với những điều này với tư cách là một bệnh nhân – không phải với tư cách là một bác sĩ.

Thật không may, sau khi bệnh ung thư được phẫu thuật cắt bỏ và tôi được xạ trị tại chỗ, 20 tháng sau, tôi bị tái phát cục bộ. Các bác sĩ phẫu thuật của tôi không thể loại bỏ hoàn toàn khối u bằng tia laser và tôi phải phẫu thuật cắt bỏ hoàn toàn hầu họng và thanh quản (cắt hầu họng-thanh quản).

Các bác sĩ phẫu thuật của tôi đã nói với tôi rằng mặc dù tôi đã mất dây thanh quản nhưng vẫn có ba phương pháp tiềm năng để tôi có thể phát âm trở lại. Họ giải thích với tôi rằng tất cả những gì dây thanh âm làm là tạo ra sự rung động và việc phát âm thực sự của từ được thực hiện bởi lưỡi và môi. Ở những người đã trải qua phẫu thuật cắt bỏ thanh quản, rung động có thể được tạo ra bởi không khí “ợ” ra khỏi thực quản của họ (được sử dụng trong “lời nói thanh quản”); bằng một máy rung điện bên ngoài (gọi là Electro-Larynx) đặt trên má hoặc dưới cằm, hoặc bằng một bộ phận giả giọng nói khí quản-thực quản, nối khí quản với thực quản. Có thể nói bằng cách chuyển không khí thở ra qua bộ phận giả vào thực quản bằng cách bịt lỗ khí quản. Điều này có thể được thực hiện khi bịt kín nó bằng ngón tay hoặc bằng cách ấn vào bộ lọc Trao đổi Nhiệt và Độ ẩm (HME) đặc biệt được đeo trên lỗ khí quản. Bộ lọc được lắp vào một tấm đế gắn vào vùng da xung quanh lỗ mở khí quản.2 Tôi đã chọn phương pháp sau cùng, và các bác sĩ phẫu thuật của tôi đã tạo một lỗ nối khí quản và thực quản trong quá trình phẫu thuật cắt thanh quản, nơi mà nhà trị liệu lời nói và ngôn ngữ (SLP) của tôi sẽ thiết lập giọng nói.

Trong những tuần sau cuộc phẫu thuật, tôi dần dần bắt đầu nói được trở lại nhưng nhanh chóng nhận ra rằng giọng nói mới của tôi rất yếu, ọp ẹp và hầu như không giống giọng nói trước đó.

Việc sử dụng giọng nói của tôi thật khó khăn và bực bội. Tôi cần phải vận động cơ hô hấp và cơ hoành thật mạnh để ép không khí thở ra vào bộ phận giả giọng nói. Điều này làm cho việc nói rất mệt mỏi và chậm chạp. Khả năng nói của tôi có thể bị gián đoạn mà không báo trước do chất nhầy tích tụ đột ngột trong khí quản và phải ho ra ngoài. Tôi cũng có thể mất khả năng nói nếu lớp đệm giữ tấm đế của tôi bị vỡ. Khi điều này xảy ra, tôi không thể ép không khí vào bộ phận giả giọng nói được nữa. Hơn nữa, tôi không thể thay đổi lời nói của mình để thể hiện cảm xúc hoặc thay đổi cường độ giọng nói của mình. Tôi thường cảm thấy bực bội khi không thể bày tỏ cảm xúc như tức giận hay vui vẻ qua giọng nói của mình và hậu quả là nhiều cảm xúc của tôi vẫn bị dồn nén. Nhiều lúc tôi tức giận và mất bình tĩnh vì điều này. 3

Tôi thường cảm thấy khó nói khi cần. Điều này thường xảy ra sau một thời gian tôi không nói và bộ phận giả giọng nói bị tắc nghẽn bởi chất nhầy. Nó thường xảy ra khi tôi thức dậy vào buổi sáng và đôi khi khi điện thoại đổ chuông. Các thành viên trong gia đình tôi đã quen với việc này nhưng nó tạo ra những tình huống xấu hổ khiến tôi không thể trả lời trực tiếp hoặc qua điện thoại.

Giọng nói yếu sẽ hạn chế khả năng sử dụng điện thoại di động của tôi, đặc biệt là ở những nơi ồn ào. Tôi không thể trả lời cuộc gọi trên đường phố đông đúc hoặc trên tàu. Ngay cả khi tôi sử dụng điện thoại thông thường trong phòng yên tĩnh, đôi khi cũng khó mà hiểu được tôi nói gì. Điều này rất khó chịu, đặc biệt là khi tôi gọi cho những người không quen với chất lượng giọng nói của tôi. Tôi thường gặp phải tình huống mọi người cúp máy khi họ không thể hiểu được lời nói của tôi. Khi tôi gọi cho một đồng nghiệp cũ lần đầu tiên sau cuộc phẫu thuật, anh ấy đã cúp máy khi nghe thấy giọng nói của tôi. Anh ấy nghĩ rằng đây là một cuộc gọi điên rồ.

Sau một thời gian, tôi học được cách thông báo ngay cho những người tôi nói chuyện qua điện thoại về giọng nói yếu ớt của mình và hỏi họ xem họ có gặp khó khăn gì khi nghe tôi nói không. Nếu họ làm vậy, tôi đề nghị nếu có thể họ hãy tăng âm lượng của máy thu. Điều này hữu ích trong một số tình huống. Tôi thường không trả lời các cuộc gọi bằng điện thoại di động ở những nơi ồn ào và sử dụng điện thoại ít hơn trước rất nhiều. Tôi cũng ngại sử dụng điện thoại ở nhà và sàng lọc các cuộc gọi đến để ngăn chặn những trải nghiệm khó chịu này. Tôi cũng tránh trả lời cuộc gọi khi không muốn người gọi nhận ra giọng nói yếu ớt của mình.

Nói chuyện trong những nhà hàng ồn ào là điều đặc biệt khó khăn và thử thách. Tôi cố tìm một chỗ yên tĩnh và ngồi gần người bạn đồng hành của mình nhất có thể. Ngoài việc phải ăn và nói cùng lúc, tôi khó có thể nói đủ lời nếu tiếng ồn xung quanh quá lớn. Đôi khi tôi không thể vượt qua tiếng ồn ngay cả khi gọi đồ ăn và phải chỉ ra những lựa chọn của mình trên thực đơn mà không nói.

Một trong những hậu quả khó chịu của việc có giọng nói quá yếu là tôi gặp khó khăn khi tham gia các cuộc tụ họp xã hội nơi có nhiều tiếng ồn xung quanh. Đôi khi tôi miễn cưỡng chấp nhận lời mời họp mặc dù tôi thấy trước một vấn đề như vậy. Đôi khi tôi mang theo một chiếc micrô và loa nhỏ, nhưng tôi phát hiện ra rằng ngay cả thiết bị này cũng không cho phép tôi có thể nghe được ở những nơi ồn ào. Cuối cùng, tôi thường im lặng trong suốt sự kiện và không thể giao tiếp với người khác ngoại trừ việc nói vào tai họ hoặc viết ghi chú lên một tờ giấy.

Tôi nhanh chóng biết rằng tôi không còn có thể tham gia đầy đủ và tận hưởng nhiều cuộc tụ họp và sự kiện xã hội nữa. Thời gian trôi qua, tôi đã quen với thực tế mới của mình và quay lại tham dự các bữa tiệc, bữa tối và lễ kỷ niệm, đồng thời cố gắng tận hưởng chúng bằng hết khả năng của mình. Tôi nhận ra rằng việc tránh xa họ sẽ khiến tôi và vợ phải xa bạn bè, gia đình và sẽ dẫn đến sự cô lập với xã hội. Tôi thấy rằng những người khác nhìn chung hiểu và chấp nhận khuyết tật của tôi và cố gắng giao tiếp với tôi bất chấp những khó khăn của tôi.

Việc tham gia vào các cuộc gọi hội nghị bao gồm nhiều người tham gia cũng là một thách thức lớn đối với tôi. Tôi nhận thấy rằng tôi có thể dễ dàng bị những người tham gia cũng như người điều hành phớt lờ khi tôi cố gắng nói lên ý kiến ​​của mình. Một yếu tố góp phần thêm là tôi không có khả năng khiến người khác nhận ra mong muốn được phát biểu của mình. Ngay cả khi tôi lên tiếng, họ cũng khó nghe được và vì họ có giọng nói mạnh mẽ hơn nên họ chiếm ưu thế trong hội nghị và tôi bị phớt lờ. Để khắc phục tình trạng này, tôi đã học cách thông báo trước cho người điều hành cuộc gọi hội nghị về giọng nói yếu của mình và yêu cầu tất cả những người tham gia tăng âm lượng loa điện thoại của họ lên. Thật không may, một số người tham gia quên làm điều đó, mặc dù đôi khi một người điều hành nhạy cảm thỉnh thoảng sẽ quay sang tôi và hỏi ý kiến ​​của tôi.

Tôi cũng cảm thấy khó khăn khi tham gia các hội nghị, họp mặt trong phòng lớn. Tôi cố gắng ngồi gần người nói để có thể nghe thấy khi tôi đặt câu hỏi. Tôi thường mang theo một hệ thống micro và loa nhỏ giúp ích phần nào. Trong một số bài giảng, tôi được hỗ trợ bởi sự hiện diện của một chiếc micrô được đưa đến khán giả vào cuối buổi thuyết trình để hỏi đáp. Có một lần khi không có micro như vậy, tôi không hề ngượng ngùng bước lên bục phát biểu và sử dụng micro của diễn giả để đặt câu hỏi. Tôi nhận ra rằng mình phải quyết đoán và không xấu hổ nếu muốn được lắng nghe.

Các sinh viên y khoa mà tôi dạy trong các đợt điều trị y khoa ở bệnh viện đã nhanh chóng học cách lắng nghe tôi mặc dù giọng nói của tôi rất yếu. Tôi phát hiện ra rằng tôi có thể giao tiếp với họ miễn là số lượng ít và môi trường xung quanh không quá đông. Tôi lưu ý rằng khi có một cuộc thảo luận nhóm và tôi muốn phát biểu, những người tham gia khác thậm chí còn nhượng bộ tôi thường xuyên hơn so với trước khi tôi phẫu thuật. Một số người tham gia đã biết rằng tôi muốn nói khi tôi đặt ngón tay lên để bịt HME của mình. Đây là lý do tại sao phương pháp nói bằng cách sử dụng HME bằng tay có lợi thế lớn hơn đối với tôi trong những thiết lập này so với hệ thống HME không dùng tay. Phương pháp này khiến tôi đặt ngón tay lên HME theo cách thủ công và ra tín hiệu cho những người tham gia khác rằng tôi muốn phát biểu.

Trong một số cuộc họp mà tôi tham dự, những người tham gia rất có tiếng nói, có tính cạnh tranh và cố gắng nói nhiều nhất có thể để lấp đầy thời gian quy định. Trong những bối cảnh này, tôi thường thấy mình bị gạt sang một bên và bị phớt lờ. Tôi nhận ra rằng tôi phải khẳng định bản thân và cạnh tranh vị trí của mình nếu muốn được lắng nghe. Có lần tôi trở nên chán nản và khó chịu khi cảm thấy bị mọi người gạt sang một bên dù tôi đã cố gắng ra hiệu muốn được nói. Khi tôi liên tục không được lắng nghe, mức độ thất vọng của tôi ngày càng tăng đến mức tôi thậm chí còn muốn rời khỏi phòng như một dấu hiệu phản đối. Cuối cùng tôi quyết định lên tiếng và làm gián đoạn cuộc thảo luận và nói với những người tham gia rằng tôi có điều muốn nói và vì giọng nói yếu của tôi nên tôi muốn họ chú ý đến tôi khi tôi ra hiệu tôi muốn phát biểu. Cách tiếp cận quyết đoán và trực tiếp này không bình thường đối với tôi nhưng dường như đã có hiệu quả. Kể từ thời điểm đó, tôi nhận thấy sự thay đổi trong thái độ của những người tham gia cuộc họp hàng tuần này và mặc dù đôi khi tôi phải đợi đến lượt mình phát biểu nhưng nhóm này đã chú ý hơn đến nhu cầu của tôi.

Một hậu quả khác của việc có giọng yếu là ảnh hưởng đến khả năng thuyết trình của tôi. Trước khi phẫu thuật cắt thanh quản, tôi là một diễn giả rất nổi tiếng và hiệu quả trước công chúng. Tôi đã giảng rất nhiều bài ở Mỹ và các nước khác. Tuy nhiên, ca phẫu thuật cắt thanh quản đã thay đổi tất cả những điều này. Mặc dù tôi đã giảng dạy ở tại địa phương, ở quốc gia và ở quốc tế nhưng tôi thường cảm thấy thất vọng vì những khó khăn mà tôi gặp phải khi giảng dạy. Tôi luôn cần một chiếc micro và phải nói chậm hơn trước. Việc giảng bài trở nên khó khăn hơn vì tôi phải nỗ lực nhiều hơn về thể chất, đặc biệt khi tôi phải nói hơn 20 phút. 4

Tôi luôn lo sợ rằng lớp đế cho HME (quanh lỗ mở khí quản) của tôi sẽ bị vỡ giữa bài giảng và tôi sẽ xấu hổ trước khán giả vì không thể tiếp tục giảng bài. Thật may là điều đó vẫn chưa xảy ra. Để ngăn chặn điều đó, tôi sử dụng một tấm đế lớn và dán nó thật chắc vào vùng da xung quanh lỗ mở khí quản một thời gian ngắn ngay trước khi nói chuyện. Tôi luôn điều chỉnh hệ thống micro và loa ở mức tối đa. Tôi cũng giữ micro rất gần miệng để giảm bớt nỗ lực phát âm.

Mặc dù những biện pháp này, việc thực hiện các bài thuyết trình vẫn rất khó khăn. Tôi thường xuyên khó thở và cảm thấy chóng mặt sau khi nói hơn 10 phút. Tôi gặp khó khăn trong việc điều chỉnh và điều phối nhịp thở khi nói và thường cố gắng bù đắp cho giọng nói yếu ớt của mình bằng cách tạo ra áp lực thở ra mạnh hơn. Điều này nhanh chóng dẫn đến vỡ lớp đế khiến việc nói chuyện càng trở nên khó khăn hơn. Có một lần tôi cảm thấy choáng váng và bối rối khi kết thúc bài thuyết trình và được đưa vào phòng cấp cứu vì phải được theo dõi.

Tôi đã tìm kiếm lời khuyên từ SLP về cách cải thiện khả năng thuyết trình của mình. Tôi nhận ra rằng mặc dù tôi đã là một bác sĩ phẫu thuật cắt thanh quản hơn sáu năm nhưng tôi chưa bao giờ được đào tạo cách nói chính xác. MY SLP bắt đầu một khóa đào tạo nói chuyên sâu kéo dài bốn tháng nhằm đào tạo tôi cách nói và thuyết trình. Với sự hỗ trợ của máy đo áp suất không khí trong khí quản thở ra, cô ấy đã huấn luyện tôi cải thiện khả năng nói của mình. Tôi thực hành cách nói chậm tạo ra áp suất không khí tối thiểu (gần như thì thầm), phát âm rõ ràng các từ của mình và hít thở không khí sau mỗi 4-5 từ. Đó là một quá trình khó khăn và chậm chạp vì tôi phải thay đổi cách nói chuyện nhanh và trôi chảy trước đây.2 Tôi phải học cách tiết kiệm từ ngữ, truyền đạt những điểm thiết yếu của từng chủ đề bằng cách sử dụng ít từ hơn. Khi tôi đã thành thạo những kỹ thuật này, việc giảng bài trở nên dễ dàng hơn nhiều. Tôi có thể nói suốt cả tiếng đồng hồ mà không phá vỡ lớp niêm phong của tấm đế. Khi tôi trở nên thành thạo hơn với các kỹ năng mới của mình, sự tự tin của tôi tăng lên và tôi không còn sợ thất bại trong việc giảng bài nữa.

Một số lời mời thuyết trình mà tôi nhận được là từ các tổ chức không biết đến tiếng nói độc đáo của tôi. Chấp nhận những nhiệm vụ này và thực hiện các bài giảng luôn là một thử thách cá nhân và sau đó là một thành tựu đối với tôi. Việc trình bày bài giảng nâng cao sự tự tin của tôi và góp phần mang lại cảm giác rằng tôi có một bước tiến trong quá trình hồi phục của mình. Tuy nhiên, cảm giác này luôn xen lẫn sự thất vọng vì tôi biết mình không còn là người ăn nói giỏi như trước nữa.

Tôi đã tự hỏi trong một thời gian dài liệu tôi có được mời đến diễn thuyết lần nữa bởi những người đã từng nghe tôi hay không. Khi tôi bắt đầu nhận được lời mời thêm lần nữa, tôi nhận ra rằng thông điệp tôi gửi đi và nội dung bài thuyết trình của tôi quan trọng hơn đối với những người yêu cầu tôi chứ không phải chất lượng giọng nói của tôi. Tôi nhận thấy rằng khán giả hiện đang lắng nghe tôi chăm chú hơn so với trước khi tôi phẫu thuật cắt thanh quản. Tôi luôn bắt đầu bài giảng của mình bằng cách thông báo cho những người tham dự về giọng nói yếu của mình và giải thích nguồn gốc của nó cũng như cách tôi tạo ra giọng nói của mình. Tôi được biết rằng sau lần điều chỉnh đầu tiên, tôi nói rất dễ hiểu và mọi người đã quen với giọng nói của tôi. 4,5

Bất chấp khả năng thuyết trình hiệu quả của tôi, tôi đã gặp phải những cá nhân và tổ chức ngăn cản hoặc từ chối cơ hội phát biểu của tôi vì giọng nói yếu ớt và thì thầm của tôi. Tôi cho rằng tôi sẽ không còn có thể trở thành một diễn giả nổi tiếng như trước khi phẫu thuật cắt thanh quản và khi được lựa chọn, ban tổ chức sẽ chọn những cá nhân khác không bị khiếm khuyết nói chung hoặc khiếm khuyết về khả năng nói. Những chủ đề duy nhất mà ban tổ chức có thể sẵn sàng chấp nhận tình trạng khuyết tật của tôi là những chủ đề mà tôi là chuyên gia giỏi nhất hoặc duy nhất trong lĩnh vực đó.

Một lĩnh vực mà khả năng nói kém của tôi có thể là một lợi thế là khi tôi nói về trải nghiệm của mình với tư cách là một bệnh nhân mắc bệnh ung thư vòm họng và hướng bài giảng của mình tới các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe hoặc những người bị cắt thanh quản khác. Tôi nhận ra điều này sau khi được một đồng nghiệp của tôi yêu cầu thuyết trình một lượt lớn về chủ đề này.

Trong bài trình bày đó, tôi nói chuyện với tư cách là một bệnh nhân mắc một căn bệnh có khả năng gây tử vong và mô tả những thách thức tôi phải đối mặt hàng ngày. Tôi đã nói về việc tình trạng suy yếu của tôi khiến tôi cực kỳ dễ bị tổn thương như thế nào và lòng trắc ẩn, sự đồng cảm và sự quan tâm của việc điều trị cho các y tá, nhà trị liệu ngôn ngữ và bác sĩ có thể đóng góp tích cực cho sự hồi phục của bệnh nhân như thế nào.

Kể từ bài giảng đó, tôi đã có những buổi nói chuyện tương tự với các chuyên gia y tế và các nhóm hỗ trợ phẫu thuật cắt thanh quản trên khắp đất nước. Những bài thuyết trình này cho phép tôi chia sẻ kinh nghiệm của mình với các nhà cung cấp dịch vụ y tế, hy vọng rằng họ hiểu rõ hơn và đánh giá cao những gì bệnh nhân của họ phải trải qua. Tôi hy vọng rằng điều này sẽ cải thiện việc chăm sóc bệnh nhân của họ. Tôi đưa ra những gợi ý về cách cải thiện việc chăm sóc sau phẫu thuật cho bệnh nhân.4 Điều này bao gồm việc giáo dục kỹ lưỡng cho bệnh nhân và gia đình họ về những tác động y tế và xã hội ngắn hạn và dài hạn của các thủ thuật, sự quan tâm cá nhân nhiều hơn của nhóm phẫu thuật bao gồm việc dành nhiều thời gian hơn cho mỗi cá nhân bệnh nhân, cung cấp cho những bệnh nhân mong muốn được giải thích về tình trạng và chăm sóc y tế của họ, thực hiện các kỹ thuật tiêu chuẩn bằng cách chăm sóc điều dưỡng, cảnh giác cao hơn và giao tiếp tốt hơn giữa các nhân viên để tránh sai sót y tế. Tôi nhấn mạnh lý do tại sao các bác sĩ phẫu thuật đang được đào tạo nên được đào tạo về cách chăm sóc y tế và tâm lý phù hợp sau phẫu thuật cũng như các nhu cầu đặc biệt của bệnh nhân sau cuộc phẫu thuật lớn bao gồm cả những bệnh nhân sau phẫu thuật cắt thanh quản.

Những người bị cắt thanh quản được hưởng lợi từ kinh nghiệm cá nhân và lời khuyên thực tế của tôi, đồng thời nhận ra rằng trải nghiệm, cảm xúc và phản hồi của chính họ được chia sẻ bởi những người khác. Khả năng nói của tôi, ngay cả với giọng nói khàn và yếu, là tài sản trong hoàn cảnh này hơn là năng lực và là dấu hiệu của sự phục hồi, đồng thời là tấm gương về khả năng phục hồi cho các bệnh nhân khác.

Tôi cảm thấy được tiếp thêm sinh lực bởi những phản hồi tích cực cho bài thuyết trình của mình. Cuối cùng tôi đã tìm thấy một nhiệm vụ mới có thể biến giọng nói yếu ớt của tôi thành sức mạnh và nơi mà giọng nói thì thầm có tác động như một tiếng hét.

REFERENCES

Brook I. Neck Cancer- A Physicians’ Personal Experience. Arch Otolaryngol Head Neck Surg. 2009;135:118.

Brook I.: “The Laryngectomee Guide”. ISBN-13: 9781483926940. CreateSpace Publication, Charleston SC. 2013. http://www.entnet.org/content/laryngectomee-guide 3. Brook I. Rediscovering My Voice. JAMA.2009; 302; 981.

My Voice. http://dribrook.blogspot.com/ Brook I. My Voice: A Physician’s Personal Experience with Throat Cancer. ISBN:1-4392-6386-8 CreateSpace Publication, Charleston SC, 2009. http://www.entnet.org/content/ebooks

Giai đoạn miệng: Vận chuyển- trong quá trình ăn nuốt

Cuối cùng, khi viên thức ăn đã sẵn sàng để nuốt, giai đoạn của nuốt là vận chuyển qua đường miệng bắt đầu.

Điều thú vị là vận chuyển bằng đường miệng có thể là tự nguyện hoặc không tự nguyện (thuật ngữ tự động/ tự chủ có thể tốt hơn?). Chúng ta có thể tự nguyện và cố ý di chuyển viên thức ăn vào hầu họng như một phần của giai đoạn chuẩn bị miệng, hoặc nó có thể phát sinh như một phần của trình tự tự động, không tự nguyện dẫn đến giai đoạn nuốt ở hầu họng và thực quản. Trong cả hai trường hợp, trình tự vận động đều giống nhau.

Trong giai đoạn vận chuyển qua đường miệng, một số quá trình phải xảy ra tuần tự. Gốc lưỡi nâng lên ở phía sau trong quá trình nhai, nhưng bây giờ nó hạ xuống và kéo về phía sau. Quá trình nhai dừng lại và lưỡi trước nâng lên đến vòm miệng cứng khi các nếp thanh âm khép lại và ngừng hô hấp vào khoảng 0,1 giây sau khi bắt đầu. Đầu lưỡi và lưng di chuyển để ép viên thức ăn ra sau, tới các trụ màn hầu/ faucial pillar. Điều quan trọng là chuyển động của lưỡi được đặc trưng như chuyển động ép từ trước ra sau.

Chức năng đầu lưỡi cho thấy rất nhiều sự khác biệt ở mỗi người (Dodds và cộng sự, 1990), được gọi là “người nâng đầu lưỡi” và “người hạ đầu lưỡi”, nghĩa là những cá thể nâng hoặc hạ đầu lưỡi trong khi nuốt, nhưng phần lưng và lưỡi sau dễ thấy có chung đặc trưng hơn. Các nghiên cứu tia X về hoạt động nuốt bằng nước xác minh chuyển động từ trước ra sau của lưỡi trong quá trình nuốt chất lỏng (Tasko, Kent & Westbury, 2002).

Đáng chú ý, hàm dưới nâng lên để chống lại áp lực của lưỡi lên vòm miệng, mặc dù mức nâng và mức độ cử động cũng khá khác nhau.

Việc tiếp xúc với các trụ màn hầu, ngạc mềm hoặc gốc lưỡi sau được cho là tác nhân kích thích kích hoạt các phản xạ của giai đoạn hầu họng (Ertekin và cộng sự, 2011), nhưng Lang (2009) cho rằng sự hiện diện vật lý của khối lượng viên bolus đầy đủ trong hầu họng là điều kiện tiên quyết để quá trình nuốt hầu họng diễn ra theo khuôn mẫu. Thật vậy, hiện tượng nuốt hầu họng không xảy ra với mọi sự kiện vận chuyển đã hoàn tất xảy ra mà chỉ xảy ra sau khi có đủ khối lượng thức ăn trong vùng hầu họng.

Giai đoạn chuẩn bị miệng trong quá trình ăn nuốt

Ở giai đoạn này, thức ăn được chuẩn bị để nuốt. Để hoàn thành nhiệm vụ này, một số quy trình phải xảy ra hầu như cùng lúc. Cần nhấn mạnh rằng mặc dù giai đoạn miệng có thể là một quá trình tự nguyện nhưng nó có thể được thực hiện một cách tự động mà không cần nỗ lực có ý thức.

Đầu tiên, chúng ta lập dự kiến về món ăn. Đây là một phần quan trọng của giai đoạn miệng vì hình ảnh và mùi thức ăn mang lại cho chúng ta động lực để ăn nó, giúp chúng ta duy trì dinh dưỡng. Thức ăn được đưa vào miệng và giữ ở đó bằng cách ngậm môi (gọi là giai đoạn chuẩn bị). Việc ngậm môi này đòi hỏi phải thở bằng mũi nên lưỡi chụm lại phía sau và vòm miệng mềm được kéo xuống để giữ thức ăn trong khoang miệng.

Như vậy, lưỡi tạo cái cốc kín cho bước chuẩn bị khi thức ăn vào. Một viên thức ăn phải được nghiền nhỏ (pha khử) để có thể dễ dàng đi qua thực quản cho tiêu hóa, và điều này được thực hiện nhờ hoạt động phối hợp của các cơ nhai cũng như cơ lưỡi. Lưỡi chịu trách nhiệm giữ thức ăn trong khoang miệng và làm như vậy bằng cách tạo ra một lớp bịt kín dọc theo gờ lời răng. Khi giữ thức ăn tại chỗ, lưỡi có thể nén thức ăn vào vòm miệng cứng, nghiền nát một phần để chuẩn bị cho răng. Sau đó, lưỡi bắt đầu di chuyển thức ăn lên bề mặt mài của răng, kéo thức ăn trở lại khoang miệng để trộn với nước bọt, sau đó di chuyển trở lại răng để thực hiện thêm công việc. Các tuyến nước bọt (tuyến mang tai, tuyến dưới hàm và tuyến dưới lưỡi) tiết nước bọt vào khoang miệng để giúp tạo thành khối thức ăn thành một viên để nuốt. Các cơ mặt của thành má (cơ cười/risorius và cơ mút/buccinator) co lại để giữ thức ăn không đi vào rãnh bên (giữa nướu và thành má). Má đóng vai trò quan trọng trong quá trình nhai: Khi chúng bị ức chế hoạt động về mặt thực nghiệm, viên thức ăn được trộn lẫn kém và hình thành kém chặt chẽ (Mazari, Heath, & Prinz, 2007).

Việc chuẩn bị miệng này là một sự phối hợp khá kỳ công. Để chứng minh điều này với chính mình, hãy cắn một miếng bánh quy giòn và chú ý vào quá trình này.

Nếu bạn đếm số lần bạn nhai chiếc bánh quy, bạn nên nhận ra rằng bạn nghiền nó từ 15 đến 30 lần trước khi nuốt bất kỳ miếng bánh nào. Khi bạn đưa miếng bánh quy vào miệng, lưỡi của bạn có thể đẩy miếng bánh lên phía trước vòm miệng cứng để bắt đầu bẻ gãy miếng bánh.

Sau đó, lưỡi của bạn thực hiện vũ điệu nhai, lướt nhẹ vào giữa các răng hàm khi hàm dưới của bạn hạ xuống, sau đó nhanh chóng di chuyển ra ngoài trước khi hàm đóng lại một cách mạnh mẽ để tiếp tục nghiền. Lưỡi của bạn sắp xếp thức ăn đã xay vào phần lưng của nó, trộn thức ăn với nước bọt và đưa thức ăn trở lại răng nếu viên thức ăn không đáp ứng yêu cầu “sẵn sàng nuốt” của bạn.

Chúng ta khá thành thạo trong việc tạo ra viên lý tưởng để nuốt, có độ đồng nhất đáng kinh ngạc giữa các cá nhân (Hoebler và cộng sự, 1998; Mishellany, Woda, Labas, & Peyron, 2006; Peyron, Mishellany, & Woda, 2004; Printz & Lucas, 1995). Đó là, con người có nhận thức chung về độ đặc, kích thước lớn, độ nhuyễn và độ ẩm của một viên thức ăn và cố gắng một cách vô thức để tạo ra một viên thức ăn như vậy trước khi nuốt. Tính nhất quán giữa từng người với người này có thể phản ánh một nguyên tắc tổ chức quan trọng: Chúng ta không phải lo lắng về cách chúng ta tạo ra viên bolus (tức là chúng ta nhai bao nhiêu lần hoặc tần suất chúng ta phải trộn nước bọt với các mảnh), nhưng chúng ta rất ý thức được kết quả (Mishellany và cộng sự, 2006).

Đối với một người khỏe mạnh, việc tạo ra viên bolus tương đối ổn định trong suốt cuộc đời (Peyron, Woda, Bourdiol, & Hennequin, 2017), mặc dù chúng ta điều chỉnh khả năng nhai của mình khi cơ bắp yếu đi theo tuổi tác. Bệnh tật ở người già là nguyên nhân đáng lo ngại vì cơ bắp bị suy yếu hoặc suy giảm nhận thức có thể làm thay đổi đáng kể hiệu quả và độ an toàn khi nhai (Lamster, Asadourian, Del Carmen, & Friedman, 2016; Suma, Furuta, Yamashita, & Matsushita, 2019).

Để tạo ra viên bolus lý tưởng có thể cần một mức độ mài xay và thao tác nhất định, tùy thuộc vào cá nhân, nhưng sản phẩm thì giống nhau: khi chúng ta đạt được các đặc tính vật lý của viên bolus lý tưởng, quá trình nuốt sẽ được bắt đầu.

Các thụ thể cảm giác trong khoang miệng của bạn sẽ liên tục theo dõi viên thức ăn khi nó đang ở bước chuẩn bị này (Ertekin & Aydogdu, 2003). Các cơ quan thụ cảm cơ học ở lưỡi, vòm miệng cứng và mềm cung cấp thông tin cho hệ thần kinh, liên quan đến các đặc tính vật lý của viên thức ăn, bao gồm kích thước hạt, kết cấu, độ dẻo (khả năng bị kéo ra) và tính dễ uốn nắn (khả năng bị nén) và mức độ sự gắn kết. Các thụ thể hóa học (các thụ thể phản ứng khác nhau với thành phần hóa học) đóng một vai trò quan trọng trong thành phần của thực phẩm, nhưng cũng có một vị trí quan trọng trong việc kích thích nuốt hầu họng. Cơ quan cảm nhận nhiệt cung cấp cảm giác liên quan đến nhiệt độ của viên thức ăn, điều này cũng quan trọng đối với cả vị giác và kích thích nuốt hầu họng.

Nếu bạn vẫn còn thắc mắc về sự tinh tế của quá trình này, hãy cố gắng nhớ lại lần cuối cùng bạn cắn vào lưỡi, môi hoặc má của mình là khi nào. Một bữa ăn nhẹ gồm 10 chiếc bánh quy giòn có thể tạo ra ít nhất 600 vận động của cơ nhai và một bữa ăn đầy đủ rõ ràng đòi hỏi hàng nghìn cử chỉ nghiền nát. Mặc dù vậy, bạn khó có thể nhớ được lần đau đớn cuối cùng mà lưỡi và hàm dưới của bạn không đạt được trong bài kiểm tra phối hợp là khi nào.

Một góc nhìn Ngữ dụng học và Lời nói từ việc phân tích từ nguyên “language”

Lần đầu tiên (năm 1984) tôi hiểu được khái niệm của 2 thuật ngữ ‘langue’ và ‘parole’ được thầy Trương Quang Đệ giới thiệu và dẫn giải qua bài viết: ‘TỪ  LÝ  THUYẾT  PHÁT  NGÔN  ĐẾN  HOẠT  ĐỘNG  NGÔN  NGỮ  CỦA  NGƯỜI  GIÁO  VIÊN  TẠI  LỚP  NGOẠI  NGỮ’.

Trong lời bạt cuốn sách này, thầy Trương Quang Đệ khi nói về ‘langue’ đã dẫn khởi ‘… không ít người nghĩ rằng học ngoại ngữ là học các luật ngữ âm, ngữ pháp và một số từ ngữ để rồi có thể vận dụng chúng trong một hoàn cảnh giao tiếp. Cần phải nói thêm rằng các luật ngữ âm, ngữ pháp và từ vựng nói trên được quan niệm như là những yếu tố của một hệ thống ít nhiều mang tính hình thức, tách khỏi các tình huống thực tế.’ và thầy viết tiếp ‘sở dĩ có quan niệm như vậy là vì trong hằng chục năm qua, tư tưởng ngôn ngữ thống trị từ Saussure cho đến Chomsky là ngôn ngữ hệ thống tách khỏi lời nói cụ thể. Mọi người đều biết các sự đối lập nổi tiếng langue (ngôn ngữ*) / parole (lời nói*) và competence (kỹ năng tiềm ẩn*) / performance (vận dụng thực tế*). Trong các sự đối lập đó, các nhà ngôn ngữ học cấu trúc và tạo sinh chuyển đổi chỉ đặt trọng tâm nghiên cứu vế đầu là ‘langue’ / ‘competence’. Chúng ta không phải phủ nhận rằng việc định giới hạn cho sự nghiên cứu ngôn ngữ là cần thiết và sự đóng góp của nhà nghiên cứu hệ thống là rất to lớn. Tuy nhiên, đối với việc học tập hay giảng dạy ngoại ngữ thì việc nghiên cứu lời nói là một vấn đề hết sức quan trọng. Ai cũng nhận thức được dễ dàng rằng mong muốn diễn đạt một ý nào đó, sự hiểu biết về phép đặt câu hay phép dùng từ không thể giúp chúng ta thực hiện được việc diễn đạt một cách chính xác. Vấn đề đặt ra ở đây là trong hoàn cảnh cụ thể nào cần có một lời nói cụ thể thích hợp mới làm toát lên ý nghĩa mình cần nói. Rõ ràng ta thấy vấn đề ý nghĩa ở đây được mở rộng ra khỏi phạm vi kết cấu từ vựng – ngữ pháp trong hệ thống hình thức để quán triệt cả ý nghĩa tình huống có tính chất tâm lý – xã hội của ngôn ngữ’. (dẫn theo Trương Quang Đệ trong ‘A Handbook of Classroom Expressions Commonly Used by Teachers of English’ tr. 5 & 6).

* Thầy Trương Quang Đệ nguyên Chủ nhiệm Khoa Ngoại ngữ, Chủ tịch Hội đồng chuyên môn của Đại học Sư phạm Huế .

*  Thầy Trần Văn Phương nguyên cán bộ giảng dạy kiêm Trưởng ban tiếng Anh .

* Cuốn ‘A Handbook of Classroom Expressions Commonly Used by Teachers of English’ được xuất bản năm 1984.

* langue (ngôn ngữ*) / parole (lời nói*) và competence (kỹ năng tiềm ẩn*) / performance (vận dụng thực tế*) các thuật ngữ tiếng Việt này thầy do Trương Quang Đệ dịch.

Nói hổn hển và nói thì thầm

Thì thầm

Thì thầm không thực sự là một phương thức phát âm vì không có âm thanh nào đưa ra. Điều này không có nghĩa là không có sự điều chỉnh ở thanh quản, mà đúng hơn là chúng không tạo ra sự rung động ở các dây thanh âm. Hãy chứng minh điều này ở chính bạn. Thở ra thật mạnh và chú ý đến thanh quản của bạn, sau đó ở lần thở ra mạnh tiếp theo thì thầm từ Ha! Bạn có thể cảm thấy sự căng cơ trong thanh quản tăng lên khi thì thầm. Trong quá trình hô hấp (lần thở ra), các dây thanh âm được mở ra, nhưng khi thì thầm (lần sau), chúng phải được khép lại và căng một phần để tạo ra sự nhiễu loạn trong luồng không khí, và sự nhiễu loạn đó là giọng mà bạn sử dụng để phát ra lời nói. Các sụn phễu hơi quay vào trong, nhưng tách ra ở phía sau, do đó có một “khe hở”/chink, to, ở sụn thanh quản. Lời thì thầm không phải giọng nói nhưng là hoạt động tích cực và có thể khiến giọng bị mỏi. Thì thầm kém hiệu quả, và bạn có thể chứng minh cho chính mình bằng cách duy trì việc tạo ra /a/ theo cách phát âm thường (giọng ngực), và một lần nữa, trong việc tạo ra lời thì thầm. Bạn sẽ thấy khá khác biệt về thời lượng tối đa.

Giọng nói nhiều hơi hay nói hổn hển

Giọng nói nhiều hơi có thể là sản phẩm của đầu bên kia của quãng phổ các mức căng thanh âm này. Nếu các nếp thanh âm không được ép để khép đầy đủ, khi đó các mép rung cho phép luồng không khí lưu thông quá mức giữa chúng khi ở giai đoạn đóng, bạn sẽ nghe thấy không khí thoát ra dưới dạng âm thở. Hơi thở không hiệu quả và gây lãng phí không khí, nhưng không phải là trạng thái cơ chế phát âm hỏng. Tuy nhiên, giọng nói hổn hển tiềm ẩn mối nguy hiểm. Yếu tố cơ bản giữ cho các nếp gấp thanh âm không gần nhau có thể là bất kỳ tổn thương thực thể nào, do đó ngay cả khi người nói đẩy các nếp gấp lại với nhau, không khí vẫn thoát ra ngoài. Trong trường hợp này, giọng nhiều hơi có thể báo hiệu sự hiện diện của các khối u ở thanh quản hoặc thậm chí là các khối u lành tính hoặc ác tính như polyp hoặc ung thư thanh quản. Ngoài ra, nếu một cá nhân cố gắng khắc phục chất lượng hơi thở do các nốt sần hoặc bệnh lý tắc nghẽn khác gây ra, thì chức năng quá mức của giọng nói sẽ dẫn đến lạm dụng.

Hành vi có hại với việc phát âm

Phạm vi của hành vi có hại về phát âm rất rộng và sâu. Thanh quản là một cấu trúc tinh tế, được tạo thành từ các mô mỏng manh, được thiết kế để sử dụng như một cơ chế bảo vệ. Khi chúng ta sử dụng thanh quản như một nguồn phát âm, chúng ta tận dụng tính linh hoạt của nó. Khi lạm dụng cơ chế này, chúng ta có thể gặp rắc rối. Dưới đây là một số vấn đề có thể xảy ra do sử dụng có hại thanh quản.

🙌Các nốt dây thanh âm phát sinh từ việc phát âm quá lớn hoặc khép dây thanh quá mạnh.

🙌Việc đưa chất độc hại vào môi trường thanh quản của bạn cũng có thể gây rắc rối. Uống rượu có thể gây kích ứng dây thanh âm, cũng như khói thuốc lá và xì gà (hút thuốc chủ động hoặc bị động). Tương tự như vậy, không khí khô quá mức có thể gây kích ứng dây thanh quản, dẫn đến viêm thanh quản.

🙌Chế độ ăn gây trào ngược thực quản có thể gây kích ứng thanh quản. Trào ngược dạ dày thực quản có liên quan chặt chẽ đến sự phát triển của vết loét ở mặt sau của nếp thanh âm (Hanson & Jiang, 2000) và có liên quan đến ung thư thanh quản và sự phát triển của viêm xoang.

😟Điều đáng ngạc nhiên là trào ngược dạ dày thực quản mãn tính có liên quan đến việc giảm nguy cơ viêm tai giữa mãn tính (Weaver, 2003)!

Chiết tự chữ “nhân cách”-personality

Thuật ngữ nhân cách/ personality trong tiếng Anh, cá tính/ personalite trong tiếng Pháp và tính cách/ personlichkeit trong tiếng Đức, đều gần với từ tính cách personalitas của tiếng Latinh trung cổ. Trong tiếng La tinh cổ chỉ từ persona được sử dụng. Tất cả các học giả đều đồng ý rằng từ này ban đầu có nghĩa là mặt nạ. Những từ này được viết bởi nhà tâm lý học người Mỹ, Gordon Allport (Allport, 1961 trang 25)

Allport còn truy tìm thêm ý nghĩa của thuật ngữ persona với một cụm từ thậm chí còn sớm hơn, bằng tiếng Latinh, per sonare, có nghĩa là phát ra âm thanh. Cụm từ per sonare, hay theo nghĩa đen, là tạo ra âm thanh xuyên qua, dùng để chỉ ống ngậm của mặt nạ sân khấu mà qua đó giọng nói của diễn viên được phát ra. Những ý nghĩa tiếp theo được Allport trích dẫn chứng minh rằng ý nghĩa của thuật ngữ nhân cách dần dần phát triển thành một chỉ định trừu tượng hơn cho thấy vẻ ngoài của chiếc mặt nạ và cũng đề cập đến con người bên dưới nó (Allport 1961). Ẩn dụ mặt nạ thường xuyên xuất hiện trong các lý thuyết về nhân cách và là chủ đề chính trong cuốn sách này. Allport đã lưu ý sự khác biệt giữa cách tiếp cận nhân cách của ông và cách tiếp cận của Freud.

Freud dùng từ tính cách/ character… không phải nhân cách. Và hầu hết người Châu Âu thích từ tính cách hơn (có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp, có nghĩa là chạm khắc hoặc dấu ấn, ám chỉ điều gì đó bên trong vĩnh viễn và bẩm sinh). Ngược lại người Mỹ lại thích từ nhân cách hơn… từ này…bắt nguồn từ persona hay mặt nạ. Do đó cách tiếp cận điển hình của người Mỹ đặt sự chú trọng tương đối nhiều hơn vào sự tương tác xã hội về bề ngoài và sự tiếp xúc với thế giới, trong khi tính cách của người Châu Âu nhấn mạnh hơn đến sự khắc sâu bên trong, “dấu ấn”, như là định mệnh. Do đó, Freud cho rằng các hướng dẫn của tính cách được đặt theo độ tuổi đến ba hoặc năm tùy trường hợp. Trong mọi trường hợp có một cảm giác khác nhau về hai thuật ngữ tính cách và nhân cách… (Allport, 1962 trang 1)

Ý nghĩa của các thường nghiệm đối với sự hình thành các lý thuyết tâm lý học

Bản chất con người từ lâu đã là một vấn đề gây tò mò và quan tâm lớn. Người ta luôn muốn có thể hiểu và dự đoán hành vi của người khác. Nhà sinh vật học và là nhà văn, từng đoạt giải thưởng Pulitzer, Edward O. Wilson đã đặt ra thuật ngữ biophilia để chỉ tình yêu và niềm đam mê của con người đối với cuộc sống xung quanh chúng ta. Sự quan tâm và chăm sóc của chúng ta đến cuộc sống của người khác còn lớn lao hơn biết bao.

Cho đến những năm 1900, việc tích lũy và truyền đạt sự hiểu biết về bản chất của con người được giao cho các triết gia, nhà văn và nhà sử học. Những người có học thức này cố gắng tìm hiểu bản chất con người, không chỉ thông qua kinh nghiệm cá nhân, mà còn bằng cách nghiên cứu Plutarch, Plato, Baruch Spinoza và Arthur Schopenhauer, đọc William Shakespeare và Charles Dicken, và nghiên cứu cuộc đời của các nhân vật lịch sử khác. Những kiến thức như vậy,  với chiều sâu của nó và cách hiểu, không cung cấp bất kỳ cách thức nào về hệ thống hoặc cách kiểm chứng cho việc nhìn vào bản tính tự nhiên của con người.  

Với sự ra đời của tâm lý học hiện đại, những cách thức mới để cố gắng hiểu bản chất của con người đã trở nên quan trọng. Những lý thuyết lớn về nhân cách mà chúng ta đang nghiên cứu ở đây là kết quả của nỗ lực trong thế kỷ qua nhằm khám phá và hình thành những hiểu biết mới về nhân cách. Những lý thuyết vĩ đại này tiêu biểu cho sự phát triển tương đối gần đây của nhân loại trong việc tìm hiểu nhân cách và bản chất của con người. Chúng cung cấp những hiểu biết thú vị có ảnh hưởng đến cách chúng ta trải nghiệm cuộc sống cũng như suy nghĩ và hành vi của chúng ta. 

Giới thiệu Bên dưới Mặt nạ

Các lý thuyết về nhân cách là những mô hình tâm lý về bản chất con người, với tần suất đáng ngạc nhiên, phản ánh bản chất của người tạo ra chúng. Bên dưới Mặt nạ trình bày những lý thuyết cổ điển về bản chất con người, giống như cách mà mỗi nhà lý thuyết có thể làm, nếu nhà lý thuyết đó dạy ý tưởng của mình cho người mà đó lần đầu tiên tiếp xúc với chúng. Sự phát triển ý tưởng của nhà lý thuyết được chú trọng hơn, vì trình tự suy nghĩ của nhà lý thuyết và những thay đổi thể hiện trong dòng ý tưởng theo thời gian thường hấp dẫn và có giá trị hơn sản phẩm cuối cùng. Chúng tôi dự định giúp người đọc có thể đi trực tiếp từ phần mô tả lý thuyết trong Bên dưới Mặt nạ đến tác phẩm của chính nhà lý thuyết đó, mà không bị mất phương hướng do học các ý tưởng theo hình thức sách giáo khoa được lĩnh hội trước.

Một cách tiếp cận thông cảm đối với các lý thuyết về nhân cách không phải là mới. Điều làm cho 7 ấn bản Bên dưới Mặt nạ trở nên độc đáo là việc tiếp tục nhấn mạnh vào việc trình bày các ý tưởng của các nhà lý thuyết về nhân cách theo một cách phát triển. Việc giải thích sự phát triển của lý thuyết nhân cách nhất thiết phải kết hợp nguồn gốc cá nhân của các ý tưởng để làm sáng tỏ mối liên hệ giữa tâm lý của mỗi lý luận và tâm lý con người của chính nhà lý thuyết đó.

Để hoàn thiện và nhất quán, một cách tiếp cận mang tính chất phát triển đối với các lý thuyết về nhân cách đòi hỏi một số khám phá về lịch sử cá nhân, xung đột và ý định của nhà lý thuyết mà đã ảnh hưởng đến chân dung con người của nhà lý thuyết đó như thế nào. Bên dưới Mặt nạ đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hiểu các nguồn thông tin cá nhân này ngay từ ấn bản đầu tiên. Kinh nghiệm kiểu lớp học với cách tiếp cận này là nó không chỉ dẫn đến sự hiểu biết đầy đủ hơn về các lý thuyết mà còn khiến chúng dễ nhớ bằng cách mở rộng chúng theo tỷ lệ của con người. Nói cách khác, Bên dưới Mặt nạ cho thấy cách suy nghĩ dẫn đến các lý thuyết chính, được lồng vào kinh nghiệm sống của các nhà lý thuyết trong bối cảnh văn hóa vây xung quanh. Trong một số trường hợp chúng tôi nhận ra rằng các lý thuyết được trình bày đã tạo ra những giải pháp cho những khó khăn mà các nhà lý thuyết trải nghiệm.

Một hệ quả của cách tiếp cận phát triển trong đào tạo về các lý thuyết nhân cách là hiệu quả của việc quy giản các lý thuyết phức tạp thành những tóm tắt ngắn gọn về các nguyên tắc cơ bản sẽ bị mất đi. Đạt được là nhiệm vụ tốn nhiều thời gian hơn nhưng thú vị hơn khi theo dõi quá trình sáng tạo của nhà lý thuyết với nhiều sai sót của nó, đặt ra những câu hỏi cá nhân nhức nhối, và người ta hi vọng sẽ có được giải pháp cuối cùng. Có một điểm quan trọng trong cách tiếp cận này. Quan sát quá trình tư duy của người đưa ra ý tưởng là một ứng dụng trong nhận thức. Đôi khi hoàn toàn không nhận thức được mình đang làm như vậy, người đọc tự suy luận một cách quy nạp để giải quyết vấn đề như nhà lý thuyết, mà họ đang tìm hiểu, được cho là đã làm, hoặc họ suy luận ra các câu hỏi, xem những điểm bất thường hoặc khám phá những ngoại lệ của một lý thuyết mới theo cách mà một nhà lý thuyết đã nghiên cứu trước đó có thể đã làm. Sự chú ý suy nghĩ về các vấn đề tâm lý cùng với những sai sót và những thay đổi tuần tự của nó dạy cho ta tư duy tâm lý.

Sau một thời gian, điều mà người học sẽ thấy sức mạnh trí tuệ của mình đã tăng lên nhờ nghiên cứu tâm trí của thầy mình. Nhưng trong tất cả những tâm trí không cân bằng, sự phân loại được thần tượng hóa, được coi là mục đích cuối cùng, chứ không phải là một phương tiện có thể cạn kiệt nhanh chóng, đến nỗi trước mắt họ, những bức tường của hệ thống hòa quyện vào nhau ở chân trời xa xôi với những bức tường của vũ trụ… Ralph Waldo Emerson

Nháy mắt có phải phản xạ tủy không?

Theo sách Giải phẫu người của Đại học Y Hà Nội, 2020, trang 337, thì phản xạ tủy (phản xạ bẩm sinh) là

  • Những tiếp nối giữa các neuron cảm giác ở hạch rễ sau với các neuron vận động của tủy sống, là cơ sở của các phản xạ tủy, trong đó có phản xạ kéo giãn cơ (stretch reflex) và phản xạ cơ gấp (flexor reflex).
  • Phản xạ kéo giãn là một cung phản xạ hai nơron, hay đơn synap. Kéo giãn nhẹ một cơ gây kích thích thoi cơ và kích thích này được neuron cảm giác ở hạch rễ sau (loại có nhánh trục lớn nhóm A) truyền vào tủy sống, tới kích thích các neuron vận động alpha làm cho cơ bị kéo giãn co lại. Đây là phản xạ quan trọng để duy trì tư thế. Thoi cơ là một thụ thể tinh tế, có thể cảm nhận được sự thay đổi về chiều dài của cơ và phản xạ kéo giãn là cách duy trì sự hằng định về chiều dài. Phản xạ kéo giãn được các bác sĩ lâm sàng sử dụng ở dạng các nghiệm pháp phản xạ giật gân hay phản xạ gân xương, bằng cách gõ búa phản xạ đột ngột lên gân để gây ra tình trạng giật gân đột ngột, kéo giãn thoi cơ. Giảm hoặc mất phản xạ gân xương chứng tỏ có bệnh lý ảnh hưởng đến hoặc neuron cảm giác hoặc nơron vận động của cung phản xạ. Tăng phản xạ cho thấy có sự mất ức chế của các dải đi xuống lên các neuron vận động.
  • Phản xạ cơ gấp là một phản xạ bảo vệ. Có thể thấy phản xạ này ở cử động rụt tay hay chân (gấp) khỏi một kích thích gây đau. Có ít nhất 3 nơron tham gia phản xạ này nên đây là một phản xạ đa synap. Nơron cảm giác ở hạch rễ sau chuyển những kích thích gây tổn thương từ những đầu tận cùng thần kinh ở da tới sừng sau tủy sống, tạo synap với các neuron trung gian, rồi qua neuron trung gian tới các neuron vận động alpha ở một số đốt tủy vì đáp ứng co cơ gấp, tức rụt tay lại, cần đến hoạt động của các nhóm cơ.

Nháy mắt là một chuyển động liên quan đến 2 cơ đối kháng, với 2 dây thần kinh chi phối (dây 3 với cơ nâng mi trên và dây 7 với cơ vòng mi).

Nháy mắt là một phản xạ không điều kiện (là dạng phản xạ tủy) với kích thích giác mạc (dây 5- với sự chuyển động của các luồng không khí qua mắt), xem ở đâyđây Có liên quan đến phản xạ giật mắt (saccade)

Nháy mắt là một phản xạ có điều kiện với các kích thích thị giác (nháy đèn) tuân theo phản xạ Pavlov- học tập kết hợp. Xem ở đây

Nháy mắt là hoạt động chuyển động 2 chu kì, với pha nhanh mang tính phản xạ tủy và pha chậm hơn có kiểm soát của ý thức. Xem ở đây

Trẻ sơ sinh chớp mắt khoảng 2 lần/ phút, còn người lớn khoảng 12-15 lần/phút.